Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIEU LUAN NGON NGU báo CHÍ, biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 27 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................2
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................2
2. Mục đích và nhiệm vụ khảo sát.....................................................................3
3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài....................................................3
4. Nội dung khảo sát..........................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................4
6. Kết cấu :.........................................................................................................4
B. NỘI DUNG......................................................................................................5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT KHÁI QUÁT VỀ NGÔN NGỮ.............5
VÀ TÍNH BIỂU CẢM TRONG NGÔN NGỮ..................................................5
1. Ngôn ngữ báo chí..........................................................................................5
2. Tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí..........................................................7
CHƯƠNG II: KẾT QUẢ KHẢO SÁT TÍNH BIỂU CẢM TRÊN BÁO LAO
ĐỘNG TỪ NGÀY 1/11/2013 ĐẾN 30/11/2013................................................12
1. Dùng từ ngữ hội thoại..................................................................................13
2. Dùng từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài...............................................14
3. Dùng thuật ngữ............................................................................................16
4. Dùng từ ngữ địa phương.............................................................................17
5. Sử dụng chất liệu văn học...........................................................................17
6. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn... cùng các biến thể của chúng....18
8.Dùng dấu câu................................................................................................21
9. Dùng ẩn dụ..................................................................................................21
10. Nói dựa, trích dẫn......................................................................................22
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM KHI SỬ
DỤNG BIỂU CẢM TRONG NGÔN NGỮ BÁO CHÍ...................................25

1


MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài
Báo chí là sản phẩm tinh thần của con người, nó phục vụ nhu cầu thông
tin đến công chúng một cách nhanh nhất, giúp công chúng hiểu rõ hơn về những
gì diễn ra xung quanh cuộc sống của mình.
Báo chí lấy hiện thực khách quan làm đối tượng phản ánh với mục đích
cung cấp cho công chúng một cái nhìn đúng đắn và toàn diện về tất cả các dữ
kiện, hiện tượng xảy ra xung quanh cuộc sống, qua đó góp phần định hướng
những hành động cũng như ý thức của công chúng báo chí. Báo chí là công cụ,
là phương tiện giúp ích cho xã hội ngày càng phát triển.
Là một loại hình báo chí ra đời sớm nhất, báo in luôn khẳng định được vai
trò của mình đối với việc cung cấp thông tin đến công chúng tiếp nhận báo chí,
luôn làm tốt vai trò của mình là cơ quan ngôn luận của Đảng và là diễn đàn của
nhân dân.
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, khi đất nước bước
vào hội nhập thế giới thì ngôn ngữ truyền thông cũng có phần nào bị ảnh hưởng.
Ngôn ngữ trong báo chí dường như không còn được nguyên bản như lúc ban
đầu mà bị sử dụng một cách bóp méo hay lạm dụng ngôn ngữ nước ngoài, từ
mượn...Bên cạnh đó việc sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong báo in hiện nay cũng
là một vấn đề cần được quan tâm.
Như chúng ta đều biết, chức năng quan trọng hàng đầu của báo chí là thô
ng tin. Nhưng nếu trong ngôn ngữ báo chí người viết chỉ dùng các từ ng
ữ, cách diễn đạt có tính chất khuôn mẫu để phản ánh các sự việc, hiện tư
ợng, vấn đề,... thì thông tin khó tránh khỏi khô cứng, đơn điệu, thậm chí tẻ nhạt.
Để khắc phục các nhược điểm này, những người làm
báo đã sử dụng khá nhiều những thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm khánh
au và nhờ đó, thông tin của họ trở nên sinh động, hấp dẫn, dễ đọc và dễ tiếp thu
hơn đối với độc giả. Để góp phần hiểu sâu sắc hơn về cách sử dụng ngôn ngữ
trong báo chí và đặc biệt là cách sử dụng dụng ngôn ngữ biểu cảm trong báo in ở
2



Việt Nam hiện nay, nhóm chúng tôi đã thực hiện bài tiểu luận với đề tài “ Biểu
cảm trong ngôn ngữ báo chí” thông qua việc khảo sát việc sử dụng ngôn ngữ
biểu cảm trên báo Lao Động từ ngày 1/11 đến ngày 30/11/2013.
2. Mục đích và nhiệm vụ khảo sát
2.1 Mục đích khảo sát
Mục đích của tiểu luận là thông qua việc khảo sát tình hình sử dụng ngôn
ngữ biểu cảm của báo Lao Động về số lượng, chất lượng, tác dụng của ngôn ngữ
biểu cảm trong một tờ báo, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm, kiến nghị
những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của ngôn ngữ được sử dụng trong
bài báo, đặc biệt là đối với cơ quan báo chí được khảo sát trong bài này là báo
Lao Động.
Bên cạnh đó, tiểu luận sẽ đưa ra những đề xuất, đóng góp nhằm góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ làm báo đáp ứng những yêu cầu hoạt động
thực tiễn báo chí hiện nay, nhất là đối với báo Lao Động.
2.2 Nhiệm vụ khảo sát
Tiến hành khảo sát thực tế tại báo Lao Động, đánh giá cách sử dụng ngôn
ngữ biểu cảm, số lượng sử dụng trong mỗi tờ báo cũng như cách thức sử dụng từ
đó rút ra được những ưu điểm hạn chế của việc sử dụng ngôn ngữ biểu cảm
trong tờ báo được khảo sát
Nghiên cứu tài liệu, khảo sát, tìm kiếm trong các tờ báo ngày trong tháng
11/2013 để đánh giá được tỷ lệ sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong tờ báo, từ đó
có thể thấy được ý nghĩa cũng như vai trò của ngôn ngữ biểu cảm trong việc thể
hiện thông tin sự kiện trên báo in và đặc biệt là với báo Lao Động.
3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay đề tài này đã được một số tiểu luận, luận án đưa ra bàn bạc và
làm rõ. Tuy nhiên đa phần là nghiên cứu, đi sâu vào ngôn ngữ trên báo chí nói
chung chứ ít có tiểu luận nào đề cập đến và nghiên cứu sâu vào vấn đề tính biểu
cảm trong ngôn ngữ báo chí nói riêng. Bên cạnh đó các tiểu luận, đề án bàn bạc
về vấn đề này vẫn còn nặng về phần lý thuyết chứ chưa có những khảo sát thực

3


tế. Và trong bài tiểu luận này, chúng tôi sẽ đưa ra những số liệu cụ thể cùng
những ví dụ tiêu biểu thể hiện đặc trưng của ngôn ngữ biểu cảm trên báo in mà
đặc biệt là trong tờ báo được khảo sát là báo Lao Động.
4. Nội dung khảo sát
Nội dung trong bài tiểu luận này là khảo sát về ngôn ngữ mang tính biểu
cảm trong báo Lao Động để từ đó rút ra ý nghĩa và cách sử dụng ngôn ngữ trên
báo in. Bên cạnh đó đưa ra một số những kiến thức lý thuyết cơ bản về ngôn ngữ
báo chí nói chúng và tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí nói riêng. Bài tiểu
luận cũng đưa ra được một số giải pháp cũng như những đóng góp trong việc sử
dụng ngôn ngữ biểu cảm trong việc truyền tải thông tin trên báo chí
5. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận được tiến hành nghiên cứu bằng nhiều phương pháp khác
nhau nhưng chủ yếu dựa vào các phương pháp là khảo sát, thống kê và nghiên
cứu tài liệu
 Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu các tài liệu, luận
văn, luận án, tư liệu thực tế của các lớp chuyên ngành báo in để có
được cái nhìn tổng quát về ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ trên báo
chí.
 Phương pháp khảo sát, nghiên cứu thực tiễn: tiến hành khảo sát
thực tế báo Lao Động.
 Phương pháp thống kê, phân loại : là phương pháp dùng để thống
kê lên bảng số liệu, phân loại các ngôn ngữ theo từng tiêu chí.
 Phương pháp phân tích tổng hợp: là phương pháp phân tích tổng
hợp đánh giá các số liệu được thống kê để đánh giá khái quát vai
trò và ý nghĩa của việc sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong báo in.
6. Kết cấu :
Ngoài phần mở đầu và phụ lục, kết cấu tiểu luận bao gồm 2 phần: Mở đầu

và Nội dung, nội dung gồm 3 chương. Tiểu luận này có 28 trang.

4


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT KHÁI QUÁT VỀ NGÔN NGỮ
VÀ TÍNH BIỂU CẢM TRONG NGÔN NGỮ

1. Ngôn ngữ báo chí

Trong thời đại hiện nay, báo chí thế giới đang phát triển với một tốc độ
chóng mặt. Bắt đầu với tờ báo chỉ là bản chép tay, đến những bản báo in đầu
tiên; sau đó đã xuất hiện thêm các loại hình báo chí mới như: báo phát thanh,
truyền hình, báo mạng điện tử...
Mỗi loại hình báo chí đưa đến cho công chúng một cách tiếp cận thông tin
khác nhau: báo in đưa thông tin qua chữ viết và hình ảnh trên mặt giấy; báo phát
thanh truyền thông tin đến tai người nghe; truyền hình đưa tin bằng cả hình ảnh
lẫn âm thanh; còn báo mạng có thể đăng được những thông tin bằng cả chữ viết,
âm thanh, hình ảnh tĩnh và động nhờ vào Internet. Chính cách đưa thông tin đa
chiều này đã giúp báo chí dần trở thành “quyền lực thứ tư” trong xã hội, sau
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Chúng ta có thể khẳng định rằng ảnh hưởng của báo chí trong xã hội hiện
đại là vô cùng lớn. Chính vì vậy, trách nhiệm của nó cũng không hề nhỏ. Ngoài
khả năng cung cấp thông tin và định hướng dư luận, báo chí còn có trách nhiệm
góp phần định hình ngôn ngữ, đặc biệt là những tờ báo được viết cho giới trẻ.
Ngôn ngữ báo chí không phải là một vấn đề mới, nó đã được đào sâu
nghiên cứu theo từng góc cạnh, từng thời kỳ phát triển. Nhưng trong thời đại
bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay, đây lại là một vấn đề nóng cần có
quan tâm của toàn xã hội. Tiếng Việt đang dần bị ăn mòn bởi thứ ngôn ngữ lai

căng, thiếu trong sáng, pha tạp của một bộ phận người trẻ. Do đó, báo chí phải
đóng vai trò như một người dẫn đường trong công cuộc bảo tồn vào phát triển
tiếng Việt ngày càng giàu đẹp hơn
Như chúng ta đã biết, chức năng cơ bản, có vai trong quan trọng hàng đầu
của báo chí là thông tin. Báo chí phản ánh hiện thực thông qua việc đề cập đến
các sự kiện. Nếu không có sự kiện thì không thể có tin tức báo chí. Do vậy, nét
5


đặc trưng nhất của ngôn ngữ báo chí chính là có tính sự kiện. Chính nó đã tạo
nên ở ngôn ngữ báo chí những tính chất cụ thể sau:
1.1) Tính chính xác:
Đối với ngôn ngữ báo chí, đây là tính chất đặc biệt quan trọng. Vì báo
chí có chức năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất nhỏ nhất
cũng có thể làm cho độc giả hiểu sai thông tin, nghĩa là có thể gây ra những
hậu quả xã hội nghiêm trọng không lường trước được.
1.2) Tính cụ thể:
Tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí được hiểu là khi nhà báo miêu tả, tường
thuật sự việc, phải cụ thể, cặn kẽ đến từng chi tiết nhỏ. Có như vậy người đọc,
người nghe mới có cảm giác mình là người trong cuộc, đang trực tiếp được
chứng kiến những gì nhà báo nói tới trong bài báo.
Mỗi sự kiện được đề cập trong tác phẩm báo chí phải gắn liền với một
không gian, thời gian xác định; với những con người xác định (có tên tuổi, nghề
nghiệp, chức vụ, giới tính…cụ thể). Do đó, trong ngôn ngữ báo chí nên hạn chế
tối đa việc dùng từ có tính chất mơ hồ
1.3) Tính đại chúng
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả mọi người trong xã hội,
không phụ thuộc nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa vị xã hội, lứa tuổi,…đều
là đối tượng phục vụ của báo chí. Đây vừa là nơi để họ tiếp nhận thông tin, vừa
là nơi để bày tỏ ý kiến. Chính vì thế, ngôn ngữ báo chí phải là thứ ngôn ngữ

dành cho đại chúng, có tính phổ cập rộng rãi
1.4) Tính ngắn gọn:
Ngôn ngữ báo chí cần ngắn gọn và súc tích. Sự dài dòng có thể làm loãng
thông tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe. Thêm
vào đó, nó còn làm tốn thời gian của cả người viết lẫn người đọc, dễ dẫn đến các
lỗi sai về mặt ngôn từ.
1.5) Tính định lượng:
Các tác phẩm báo chí thường bị giới hạn về mặt thời gian hay diện tích
xuất hiện trên báo, đó là tính định lượng. Vì thế, việc lựa chọn và sắp xếp các
6


thành tố ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý để phản ánh đầy đủ lượng sự kiện mà
không vượt quá khung cho phép về thời gian và không gian.
1.6) Tính biểu cảm:
Tính biểu cảm trong ngôn ngữ gắn liền với việc sử dụng những từ ngữ mới lạ,
giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân…Nếu ngôn ngữ báo chí không có tính
biểu cảm, chỉ là những chuỗi thông tin khô khan thì nó khó có thể thu hút được
sự chú ý của độc giả. Tính biểu cảm tác động mạnh mẽ tới tâm hồn người nghe,
làm cho họ có những trạng thái cảm xúc nhất định theo như người viết mong
đợi.
1.7) Tính khuôn mẫu:
Tính khuôn mẫu của báo chí thường bao gồm 6 câu hỏi: Ai? Cái gì? Khi nào?
Ở đâu? Bao giờ? Như thế nào? Tại sao? Yếu tố khuôn mẫu không đi một mình.
Nó thường được kết hợp với thành tố biểu cảm, nên ngôn ngữ báo chí thường
mềm mại, hấp dẫn chứ không hề khô khan như trong một văn bản khoa học hay
văn bản hành chính.
2. Tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí

Như chúng ta đều biết, chức năng quan trọng hàng đầu của báo chí là

thông tin. Nhưng nếu trong ngôn ngữ báo chí người viết chỉ dùng các từ
ngữ, cách diễn đạt có tính chất khuôn mẫu để phản ánh các sự việc, hiện
tượng, vấn đề,... thì thông tin khó tránh khỏi khô cứng, đơn điệu, thậm chí tẻ
nhạt. Để khắc phục các nhược điểm này, các tác giả đã sử dụng khá nhiều
những thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm khác nhau; và nhờ đó, thông
tin của họ trở nên sinh động, hấp dẫn, dễ đọc và dễ tiếp thu hơn đối với độc
giả. Qua khảo sát sơ bộ, các thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm cho
ngôn ngữ báo chí có thể chia thành một số loại chính như sau:
2.1. Dùng từ ngữ hội thoại
Từ " hội thoại " ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, tức là nó không chỉ bao
hàm các từ thuộc vốn từ vựng của ngôn ngữ văn hoá được dùng đặc biệt
trong lời nói miệng, trong sinh hoạt hàng ngày, mà còn gồm cả một số từ
7


thông tục và từ lóng, vì những từ thuộc hai loại sau này cũng chỉ được
chuyên dùng trong khẩu ngữ.
Hiện nay, xu hướng chung trên thế giới là hội thoại hoá ngôn ngữ báo chí
để nó đơn giản hơn, gần gũi hơn với cuộc sống thường ngày. Chính vì thế, từ
ngữ ( và thậm chí cả cú pháp ) của ngôn ngữ hội thoại được dùng để tăng cường
tính biểu cảm trong các bài viết ngày càng phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, hội
thoại hoá ngôn ngữ báo chí không có nghĩa là chúng ta.
được phép bê nguyên xi ngôn ngữ đời thường với tất cả cái dáng vẻ thô ráp,
xù xì, gai góc của nó vào trong tác phẩm báo chí. Vì dù thế nào đi chăng
nữa, ngôn ngữ trên trang báo phải là một thứ ngôn ngữ đã được gọt giũa,
được trải qua sự nhào nặn của tác giả và phải đạt tới một sự chuẩn mực nhất
định về văn hoá. Vì thế, tình trạng lạm dụng quá mức các từ ngữ thuộc tiếng
lóng hay các từ ngữ thô tục đang diễn ra ở một số nhà báo và ở một số tờ
báo ( nhất là các tờ báo dành cho thiếu niên nhi đồng ) là rất đáng lo ngại,
cần được quan tâm đúng mức và không chậm trễ.

2. 2. Dùng từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài
Những từ ngữ dược vay mượn từ các ngôn ngữ Ấn - Âu có thể được giữ
nguyên dạng hay phiên âm. Trong số các từ được vay mượn từ các ngôn ngữ Ấn
- Âu, có khá nhiều từ đã phần nào thích nghi với chuẩn mực của tiếng Việt cho
nên được sử dụng khá rộng rãi. Tuy nhiên, người ta vẫn dẽ dàng nhận thấy cái
nguồn
gốc ngoại loại của chúng, chẳng hạn như: apphe, xêmina, makettinh, kiôt... Còn
các từ Hán - Việt thì được dùng quá phổ cập và đã trở thành một bộ phận không
thể thiếu của tiếng Việt. Song, không vì thế mà người ta không nhận thấy khả
năng tăng cường tính biểu cảm của chúng. Việc sử dụng các từ ngữ vay mượn
từ tiếng nước ngoài cần có chừng mực để tránh gây phản cảm cho người đọc,
vì sự xuất hiện quá nhiều các từ không thuần Việt trong một văn bản báo chí
không chỉ làm cho ngôn ngữ của nó có vẻ không trong sáng mà còn tạo ấn tượng
rằng người viết muốn " khoe chữ ". Bên cạnh đó, những từ ngữ được lựa chọn
phải có những ưu thế thật sự nổi trội so với các từ hoặc những cách diễn đạt
8


tương đương trong tiếng Việt và đồng thời phải tương đối quen thuộc đối với
công chúng để không gây cản trở gì đáng kể cho quá trình nhận thức của độc
giả. Các thuật ngữ, xét theo tự thân, là những từ trung tính, tức không mang sắc
thái biểu cảm. Thế nhưng, khi được kết hợp hài hoà với các từ khuôn mẫu,
chúng lại có khả năng tăng cường tính biểu cảm rất đáng kể.
Hiện nay, do khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, nhiều lĩnh vực nghiên
cứu mới ra đời, cho nên số lượng thuật ngữ gia tăng nhanh chóng và chúng
xuất hiện với mật độ ngày càng dày trên các báo.
2.3. Dùng từ ngữ địa phương
Các từ ngữ địa phương luôn mang đậm dấu ấn riêng về lời ăn tiếng nói
của một cộng đồng người gắn liền với một vùng đất, vì thế chúng làm cho
câu văn có sắc thái mới lạ, đôi khi khá giàu sức gợi. Các từ ngữ địa phương có

thể gặp trong ngôn ngữ của tác giả cũng như trong ngôn ngữ nhân vật.
Dễ dàng nhận thấy là trong ngôn ngữ nhân vật, từ ngữ địa phương xuất
hiện một cách tự nhiên như là sự phản ánh chân xác lời ăn tiếng nói của họ,
vì thế tính biểu cảm của chúng có vẻ như không được cao bằng so với các từ
ngữ địa phương được chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi phương diện trong ngôn ngữ
tác giả.
2.4. Sử dụng chất liệu văn học
Các chất liệu văn học có mặt rộng rãi trong hầu hết các thể loại báo chí,
theo nhiều cách thức khác nhau. Nhưng những cách thức thường gặp nhất là
vay mượn cốt truyện, hình ảnh hay từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn
học
2.5. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn... cùng các biến thể của
chúng
Các phương tiện ngôn ngữ này thường có ý nghĩa rõ ràng, dễ hiểu, lại
xuất
hiện với tần số cao trong hoạt động giao tiếp thường ngày. Qua khảo sát cho
thấy, việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ đang là thủ pháp tăng cường giá trị biểu
cảm được ưa dùng nhất hiện nay trên nhiều tờ báo.
9


2.6. Chơi chữ
Các trường hợp chơi chữ gặp không nhiều trong các tác phẩm báo chí. Vì
so với các thủ pháp tạo giá trị biểu cảm khác, việc chơi chữ khó khăn hơn, đòi
hỏi người viết nhiều phải có sự tìm tòi, khám phá công phu hơn. Thực tế khảo
sát cho thấy, trong báo chí cách mạng Việt Nam, người chơi chữ thường
xuyên, hiệu quả và tạo nên hẳn một phong cách riêng, là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Còn ở các tác giả khác, việc chơi chữ thường được dùng rất hạn chế, mang nặng
tính ngẫu hứng.
2.7. Dùng dấu câu

Các dấu câu cũng là những phương tiện đắc dụng trong việc tạo nên giá
trị biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí. Song ở đây, chúng tôi chỉ bàn đến dấu
ngoặc kép và dấu chấm lửng ( dấu ba chấm ) như là hai loại dấu câu nổi bật
hơn cả về phương diện này.
Dấu ngoặc kép: Có giá trị biểu cảm cao khi báo hiệu rằng những từ ngữ
nào đó được dùng không phải với ý nghĩa hay phong cách thông dụng của
chúng. Nó mang đến cho câu văn sắc thái dí dỏm, hài hước hoặc mỉa mai,
châm biếm.
Dấu chấm lửng: tăng cường đáng kể tính biểu cảm cho ngôn ngữ báo
chí khi nó thực hiện chức năng làm giãn nhịp câu văn, báo hiệu sự bất ngờ
hoặc gợi mở các định hướng suy nghĩ khác nhau cho người đọc.
Ẩn dụ trong ngôn ngữ báo chí thường mang tính chất văn cảnh. Nó là
sáng tạo riêng của người viết và in đậm dấu ấn cá nhân.
Có thể nói, không theo đuổi mục đích khám phá và phản ánh thế giới một
cách hình ảnh như trong văn học nghệ thuật, nhà báo sử dụng ẩn dụ như một
phương tiện đối lập với khuôn mẫu, một phương tiện nhằm đánh lạc hướng
sự chú ý của độc giả nhưng lại gây được ấn tượng lớn.
2.8. Nói dựa, trích dẫn
Ở đây, tác giả chỉ ra nguồn gốc, xuất xứ của những cách diễn đạt gợi cảm
nào đó mà anh ta vay mượn nhằm thông báo cho độc giả biết rằng: anh ta
chỉ đồng tình với những kiểu nói ấy chứ không phải chịu trách nhiệm về chất
10


lượng của sự gợi cảm trong chúng. Và chính cái thủ pháp nói dựa, trích dẫn
như vậy đã làm cho giọng điệu câu văn bớt đi cái sắc thái chủ quan, trở nên
mềm mại, nhẹ nhàng, và thông tin hàm chứa trong nó cũng có độ xác thực
cao hơn.

11



CHƯƠNG II: KẾT QUẢ KHẢO SÁT TÍNH BIỂU CẢM TRÊN BÁO
LAO ĐỘNG TỪ NGÀY 1/11/2013 ĐẾN 30/11/2013
STT

Ngày ra báo

Số lượng ngôn ngữ có tính biểu cảm được sử
dụng trong báo

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19

20
21
22
23
24
25
26

1/11/2013
2/11/2013
4/11/2013
5/11/2013
6/11/2013
7/11/2013
8/11/2013
9/11/2013
11/11/2013
12/11/2013
13/11/2013
14/11/2013
15/11/2013
16/11/2013
18/11/2013
19/11/2013
20/11/2013
21/11/2013
22/11/2013
23/11/2013
25/11/2013
26/11/2013

27/11/2013
28/11/2013
29/11/2013
30/11/2013

88
92
76
103
92
116
74
58
109
91
78
56
59
111
64
86
170
93
69
101
76
54
90
109
65

96

Tổng 2276
STT
Tên phương pháp
Số lượng
1
Từ ngữ hội thoại
660
2
Từ ngữ vay mượn từ tiếng nước 125
ngoài
12

Tỷ lệ %
28,9%
5,4%


3
4
5
6

Thuật ngữ
Từ ngữ địa phương
Chất liệu văn học
Thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn

114

10
58
127

5%
0,4%
2.5%
5,5%

7
8
9
10

cùng các biến thể của chúng
Chơi chữ
Dấu câu
Nói dựa, trích dẫn
Ẩn dụ

0
662
90
430

0%
29%
3,9%
18,8%


 1. Dùng từ ngữ hội thoại

Từ " hội thoại " ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, tức là nó không chỉ bao
hàm các từ thuộc vốn từ vựng của ngôn ngữ văn hoá được dùng đặc bi
ệt
trong lời nói miệng, trong sinh hoạt hàng ngày, mà còn gồm cả một số từ
thông tục và từ lóng, vì những từ thuộc hai loại sau này cũng chỉ được
chuyên dùng trong khẩu ngữ. Ví dụ:
- Chưa hết đâu. Tớ tạm cho hai việc có thể giải quyết xong…
- Bác có ý kiến gì khi những người thiết kế mạng…
( Không phải nghiêm- đói đấy, trang 2 Báo Lao Động ngày 22/11/2013)
- Xe chở quá số người quy đinh, “ vẫn đi ngon”…
- Thôi đc rồi…Em chính là…Thỏ đây
(Thỏ, gấu và Zukerberg, Trang 2 báo Lao Động ngày 22/11/2013)
- Chết rồi mới đem tiền đến viếng!
(Đằng sau các báo cáo được đóng gáy vang, trang 1 báo Lao Động ngày
24/11/2013)
Hiện nay, xu hướng chung trên thế giới là hội thoại hoá ngôn ngữ báo chí
để nó đơn giản hơn, gần gũi hơn với cuộc sống thường ngày. Chính vì thế,
từ ngữ ( và thậm chí cả cú pháp ) của ngôn ngữ hội thoại được dùng để tăng
cường tính biểu cảm trong các bài viết ngày càng phong phú và đa dạng.Tuy
nhiên,hội thoại hoá ngôn ngữ báo chí không có nghĩa là chúng ta được phép bê
nguyên xi ngôn ngữ đời thường với tất cả cái dáng vẻ thô ráp,xù xì, gai góc của
13


nó vào trong tác phẩm báo chí. Vì dù thế nào đi chăng nữa, ngôn ngữ trên trang
báo phải là một thứ ngôn ngữ đã được gọt giũa, được trải qua sự nhào nặn của
tác giả và phải đạt tới một sự chuẩn mực nhất định về văn hoá. Vì thế, tình trạng
lạm dụng quá mức các từ ngữ thuộc tiếng lóng hay các từ ngữ thô tục đang diễn

ra ở một số nhà báo và ở một số tờ báo nhất là các tờ báo dành cho thiếu niên
nhi đồng là rất đáng lo ngại, cần được quan tâm đúng mức và không chậm trễ
2. Dùng từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài

Những từ ngữ dược vay mượn từ các ngôn ngữ Ấn - Âu có thể được giữ
nguyên dạng hay phiên âm.
Trong số các từ được vay mượn từ các ngôn ngữ Ấn - Âu, có khá nhiều
từ đã phần nào thích nghi với chuẩn mực của tiếng Việt cho nên được sử
dụng khá rộng rãi.
Ví dụ: trong phần thời sự của Báo Lao Động số 254/2013

ra ngày

2/11/2013 có sử dụng một số từ vay mượn như : Buffet , violin solo, facebook, ,

tên riêng của ngưòi nước ngoài : Mariana Naumova, Vladimir Krapsov,..
- Đây là chuyện Tiếu lâm thời Zukerberg… (trang 2 báo Lao Động ngày
22/11/2013)
- Bộ công an nên lập Facebook ( Trang 2 báo Lao Động ngày 19/11/2013)

14


Còn các từ Hán - Việt thì được dùng quá phổ cập và đã trở thành một bộ
phận không thể thiếu của tiếng Việt. Song, không vì thế mà người ta không
nhận thấy khả năng tăng cường tính biểu cảm của chúng.

15



Việc sử dụng các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài cần có
chừng mực để tránh gây phản cảm cho người đọc, vì sự xuất hiện quá nhiều các
từ
không thuần Việt trong một văn bản báo chí không chỉ làm cho ngôn ngữ
của nó có vẻ không trong sáng mà còn tạo ấn tượng rằng người viết muốn
“khoe chữ”. Bên cạnh đó, những từ ngữ được lựa chọn phải có những ưu thế
thật sự nổi trội so với các từ hoặc những cách diễn đạt tương đương trong
tiếng Việt và đồng thời phải tương đối quen thuộc đối với công chúng để không
gây cản trở gì đáng kể cho quá trình nhận thức của độc giả.
3. Dùng thuật ngữ

Các thuật ngữ, xét theo tự thân, là những từ trung tính, tức không mang
sắc thái biểu cảm. Thế nhưng, khi được kết hợp hài hoà với các từ khuôn
mẫu, chúng lại có khả năng tăng cường tính biểu cảm rất đáng kể.

16


Hiện nay, do khoa học thuật phát triển mạnh, nhiều lĩnh vực nghiên
cứu mới ra đời, cho nên số lượng thuật ngữ gia tăng nhanh chóng và chúng xuất
hiện với mật độ ngày càng dày trên các báo.
4. Dùng từ ngữ địa phương

Các từ ngữ địa phương luôn mang đậm dấu ấn riêng về lời ăn tiếng nói
của một cộng đồng người gắn liền với một vùng đất, vì thế chúng làm cho
câu văn có sắc thái mới lạ, đôi khi khá giàu sức gợi.
Các từ ngữ địa phương có thể gặp trong ngôn ngữ của tác giả cũng như
trong ngôn ngữ nhân vật.
Ví dụ:
- …các má đã dâng hiến cho đời những người anh hùng… (trang 3 báo LĐ

ngày 5/11/2013)
- “ đồ ăn thìa dĩa bày la liệt không kém phần sang trọng ” ( trang 9 báo LĐ
ngày 17/11/2013)
Dễ dàng nhận thấy là trong ngôn ngữ nhân vật, từ ngữ địa phương xuất
hiện một cách tự nhiên như là sự phản ánh chân xác lời ăn tiếng nói của họ,
vì thế tính biểu cảm của chúng có vẻ như không được cao bằng so với các từ
ngữ địa phương được chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi phương diện trong ngôn ngữ
tác giả.
5. Sử dụng chất liệu văn học

Các chất liệu văn học có mặt rộng rãi trong hầu hết các thể loại báo chí,
theo nhiều cách thức khác nhau. Nhưng những cách thức thường gặp nhất là
vay mượn cốt truyện, hình ảnh hay từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn
học
Ví dụ:
- Ngày hôm qua, khi nghe ĐBQH Nguyễn Bá Thuyền nói về câu chuyện
Thỏ và Gấu… câu chuyện như sau:
“ Trong một cuộc thi tài phá án được thế giới tổ chức gồm 3 nước X,Y,Z.
Ban Giám Khảo quốc tế đã thả ra 3 con thỏ vào 3 khu rừng khác nhau cho
17


3 quốc gia này lập phương án truy tìm…” (Thỏ, gấu và Zukerberg, ngày
22/11/2013)
6. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn... cùng các biến thể của chúng

Các phương tiện ngôn ngữ này thường có ý nghĩa rõ ràng,dễ hiểu, lại xuất
hiện với tần số cao trong hoạt động giao tiếp thường ngày cho nên việc sử dụng
chúng rất thuận lợi đối với cả nguời viết lần người đọc .
Khảo sát cho thấy, việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ đang là thủ pháp tăng

cường giá trị biểu cảm được ưa dùng nhất hiện nay trên nhiều tờ báo.
Ví dụ :Trong bài : “Xử lý vụ cty Hào Dương gây ô nhiễm môi trường: Trống
đánh xuôi kèn thổi ngược”
Câu thành ngữ trống đánh xuôi kèn thổi ngược được sử dụng rộng rãi trong đời
sống xã hội . tác giả đã sử dụng câu thành ngữ đầy hàm ý này để đặt tít cho tác
phẩm của mình , giúp người đọc dễ dáng hiểu được nội dung cơ bản của tác
phẩm.

- Thì nhờ “Con cóc là cậu ông trời” lên thiên đình đánh trống
18


- …lao như mũi tên ngược thác sông Giăng kinh hoàng để” thừa sống thiếu
chết” ( trang 5, báo LĐ ngày 30/11/2013)
7. Chơi chữ
Các trường hợp chơi chữ gặp không nhiều trong các tác phẩm báo chí. Vì
so với các thủ pháp tạo giá trị biểu cảm khác, việc chơi chữ khó khăn hơn,
đòi hỏi người viết nhiều phải có sự tìm tòi, khám phá công phu hơn.

19


Thực tế khảo sát cho thấy, trong báo chí cách mạng Việt Nam, ngư
ời chơi chữ thường xuyên, hiệu quả và tạo nên hẳn một phong cách riêng, là Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Còn ở các tác giả khác,việc chơi chữ thường được
dùng rất hạn chế, mang nặng tính ngẫu hứng.
20


8.Dùng dấu câu


Các dấu câu cũng là những phương tiện đắc dụng trong việc tạo nên giá
trị biểu cảm cho ngôn ngữ báo chí. Song ở đây, chúng tôi chỉ bàn đến dấu
ngoặc kép và dấu chấm lửng ( dấu ba chấm ) như là hai loại dấu câu nổi bật
hơn cả về phương diện này.
Dấu ngoặc kép: Có giá trị biểu cảm cao khi báo hiệu rằng những từ ngữ
nào đó được dùng không phải với ý nghĩa hay phong cách thông dụng của
chúng. Nó mang đến cho câu văn sắc thái dí dỏm, hài hước hoặc mỉa mai,
châm biếm.

Dấu chấm lửng: tăng cường đáng kể tính biểu cảm cho ngôn ngữ báo
chí khi nó thực hiện chức năng làm giãn nhịp câu văn, báo hiệu sự bất ngờ
hoặc gợi mở các định hướng suy nghĩ khác nhau cho người đọc.
9. Dùng ẩn dụ

Ẩn dụ trong ngôn ngữ báo chí thường mang tính chất văn cảnh. N
ó là sáng tạo riêng của người viết và in đậm dấu ấn cá nhân.
Ví dụ : tít bài : Có phải “rượu” Vinashin cũ trong “bình”mới SBIC

21


Đây là tít bài bình luận của tác giả Lê Thanh Phong , đựơc đăng trong số
253/2013 Báo Lao Động , thứ 6 ngày 1.11.2013.
- Chánh tòa kinh tế - Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng Ngô Văn Anh
bị tố cáo nhận 130 triều đồng để “Bôi trơn” của đương sự ( Thêm một
kiểm sát viên bị yêu cầu giải trình ( trang 9 báo LĐ ngày 30/11/2013_)
- Từ “ thạch nữ” trở thành đàn bà
- …khi lấy chồng không thể làm “chuyện ấy”…
- …cơ thể đều bình thường, trừ “ cậu nhỏ” chỉ như đứa trẻ…

( trang 2 báo LĐ ngày 21/11/2013)
Đây là một cách đặt tít sử dụng nghệ thuật ẩn dụ đầy hình ảnh, giúp người
đọc dần hiểu vấn đề ngay khi đọc cái tít này. Nếu nội dung bài muốn thể hiện rõ
thì tốn rất nhiều con chữ, nhưng nếu sử dụng nghệ thuật ẩn dụ đầy hình tượng
thì sẽ không tốn nhiều chữ mà lại tạo được sự chú ý ấn tưọng của người đọc.
Có thể nói, không theo đuổi mục đích khám phá và phản ánh thế giới một
cách hình ảnh như trong văn học nghệ thuật, nhà báo sử dụng ẩn dụ như một
phương tiện đối lập với khuôn mẫu, một phương tiện nhằm đánh lạc hướng sự
chú ý của độc giả nhưng lại gây được ấn tượng lớn.
10. Nói dựa, trích dẫn

Ở đây, tác giả chỉ ra nguồn gốc, xuất xứ của những cách diễn đạt gợi cảm
nào đó mà anh ta vay mượn nhằm thông báo cho độc giả biết rằng: anh ta
22


chỉ đồng tình với những kiểu nói ấy chứ không phải chịu trách nhiệm về chất
lượng của sự gợi cảm trong chúng. Và chính cái thủ pháp nói dựa, trích dẫn
như vậy đã làm cho giọng điệu câu văn bớt đi cái sắc thái chủ quan, trở nên
mềm mại, nhẹ nhàng, và thông tin hàm chứa trong nó cũng có độ xác thực
cao hơn. Ví dụ:

Phần bút bi khoanh là phần trích dẫn lời nhận định của ông Sumit Dutta . Đoạn
trích được trích trong bài “Kinh tế Việt Nam đã qua đáy khủng hoảng” được in
trong số 149/2013 mục Tiền Tệ và Đầu Tư của báo Lao động ra vào thứ 2 ngày
4 tháng 11 năm 2013
- Trong tác phẩm của các nhà nho thời kỳ đầu, người ta thường dẫn câu “
Thực sắc tính dã- hưởng thụ sắc là tình dục (Mạnh Tử- Cáo tử thượng)
- Theo lễ ký lễ vận, “ ăn uống, trai gái- niềm ham muốn lớn của con người
vậy”

( văn hóa tính dục trang 9 báo LĐ ngày 3/11/2013)
Khi sử dụng bất kỳ thủ pháp nào nhằm tăng cường tính biểu cảm cho
ngôn ngữ báo chí ( mà những cái kể trên chỉ là một số tiêu biểu ), người viết
phải lưu ýtới một loạt các yêu cầu như: đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều lượng
23


( không phải vớithể loại báo chí nào cũng có thể vận dụng chúng; và với các thể
loại có thể vậndụng thì mức độ vận dụng cũng khác nhau )...nhưng có lẽ yêu
cầu đang được đặt ra bức thiết hơn cả là phải thể hiện sự độc lập, sáng tạo.
Chính sự tìm tòi, sáng tạo sẽ sản sinh ra sự mới mẻ vốn là cội nguồn của sự hấp
dẫn.Người viết chỉ biết lặp lại người khác một cách máy móc thì các hình thức
biểu cảm mà anh ta đưa ra khôngchỉ mất đi dấu ấn cá nhân mà còn mất đi
cả tính hiệu quả.

24


CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
KHI SỬ DỤNG BIỂU CẢM TRONG NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
Những vấn đề ngôn ngữ hầu hết chỉ nghiêng về phương diện chữ viết phương diện ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình gìn giữ tiếng Việt trong thời đại
hiện nay. Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ của một dân tộc là ngôn ngữ đa bản sắc,
đặc trưng cho văn hoá của đất nước. Vì thế mà người ta vẫn luôn quan niệm về việc
sử dụng ngôn ngữ cũng chính là bộc lộ tầm vóc văn hoá của một dân tộc. Và đối
với một đất nước đang phát triển như nước ta, báo chí là môi trường rộng lớn nhất
và được xem là mẫu mực nhất để ngôn ngữ dân tộc có thể phát huy nhiệm vụ cao
cả của nó. Vì thế, người làm báo luôn phải ý thức được trách nhiệm của mình trong
công cuộc bảo tồn và phát triển tiếng Việt. Người viết báo phải luôn đặc biệt chú ý
tới cách sử dụng ngôn từ, làm sao cho phù hợp về mặt ngữ nghĩa lại vừa mang sắc
thái biểu cảm, tạo tác dụng lớn đến mỗi bài viết. Và trong thời đại xã hội ngày càng

phát triển, văn hóa phương Tây ngày càng hòa nhập vào cộng đồng thì việc sử
dụng ngôn ngữ thuần Việt dường như đang là một nỗi lo lắng lớn đối với những
người làm báo nói riêng và nhà quản lý văn hóa nói chung. Đứng trước thực trạng
tiếng Việt đang ngày càng bị biến tướng trong ngôn ngữ nói cũng như ngôn ngữ
viết, trong bài tiểu luận này chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp cụ thể sau
* Giải pháp:
- Các cơ quan chức năng, các ban lãnh đạo phải thành lập một đội kiểm
duyệt ngôn ngữ trước khi cho đăng bài. Những từ ngữ nhạy cảm, sai quy cách cần
phải được thay thế, hoặc có thể gạch bỏ. Đồng thời bản thân các nhà báo cần tìm
hiểu kĩ về ngôn ngữ biểu cảm trước khi viết một bài báo nào đó để nâng cao giá trị
của từ ngữ và tránh được những sai sót nghiêm trọng về ngữ nghĩa trong khi viết
bài.
- Đẩy mạnh tốc độ đăng tin bài chất lượng tốt, giảm thiểu và xóa bỏ những
bài viết không tốt, dùng sai ngôn ngữ. Ngày nay, nhiều báo cho đăng tràn lan các
bài viết mà chưa qua kiểm duyệt hoặc bài viết bị sai ngôn ngữ trầm trọng, hàm ý bị
25


×