Chương 3 ĐÔI NÉT VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO VÀ
PHONG TỤC TẬP QUÁN CỦA CƯ DÂN MÃ CHÂU
Người Việt đến vùng đất mới đã giao lưu và tiếp thu những yếu tố văn
hoá của người Chăm. Đồng thời trong quá trình giao lưu buôn bán, người Việt
cũng đã tiếp thu một số yếu tố văn hoá của người Hoa để từ đó tạo nên một bản
sắc văn hoá riêng, đặc sắc, góp phần hình thành nên diện mạo của xứ Quảng -
Quảng Nam.
3.1. Sự thờ cúng.
3.1.1. Thờ Tiền Hiền khai canh.
Hơi khác với những làng Việt ở miền Bắc, đình làng ở Mã Châu (và miền
Trung nói chung) dùng để thờ Tiền hiền, Hậu hiền - những người có công đến
khai canh, khai cư thành lập làng.
Theo hồi cố của các cụ già trong làng thì trước đây ở bốn thôn (Đông -
Thành - Tây - Thượng) mỗi nơi có một ngôi đình thờ Tiền hiền riêng và ngôi
đình (Tiền hiền Tứ Mã) thì ở trong khuôn viên của HTX ươm dệt Nam Phước
hiện nay. Trong chiến tranh tất cả các ngôi đình đã bị tàn phá và các đồ vật
trong đình cũng đã bị thất lạc hết.
Ngôi đình Tiền hiền Tứ Mã hiện nay được làm mới vào năm 2001. Đình
được xây theo kiểu nhà ngang, các cột và trên nóc đình có trang trí rồng,
phượng. Phía ngoài, trước cửa đình qua một khoản sân có một bức bình phong,
một góp sân có bàn thờ thổ địa và phía ngoài cùng là cổng tam quan.
Cách bài trí ở trong đình: có năm bàn thờ, ở giữa thờ Tiền hiền Mã Châu;
bàn thờ hai bên tả hữu thờ Hậu hiền và tổ nghề dệt; hai bàn thờ ở ngoài cùng,
một bên thờ những người đỗ đạt thời phong kiến và một bên thờ những anh
hùng, liệt sỹ - con em của làng Mã Châu có công với nước; Phía trên bàn thờ, ở
gian giữa treo bức hoành phi đề bốn chữ "Tuấn mã hoa lưu" (Hoa Lưu :
là tên một con ngựa trong số tám con ngựa tốt của Chu Mục vương).
Hàng năm đến ngày mùng 10/3 Âm lịch dân làng tổ chức cúng tế. Trước
ngày đó dân làng họp lại và bầu ra ban trị sự lo việc chung (đó là những cụ già
cao tuổi, giàu kinh nghiệm) và một ban tế (một số cụ già cao tuổi nhất hoặc có
kinh nghiệm nhất và thầy cúng).
Sáng ngày 10/3 lễ tế được tiến hành, người ta bầy biện toàn bộ các lễ vật
lên bàn gồm: Hương đăng, hoa quả, giấy tiền, vàng mã, heo gà...
Ban tế mặc khăn đóng áo dài, chủ tế mặc áo đỏ, hai người bồi tế mặc áo
xanh. Trước khi tế người ta kiểm tra lại lễ vật lần cuối, sau đó các thành viên
trong ban tế đứng vào vị trí để làm lễ. Quá trình hành lễ tiến hành theo mệnh
lệnh của người nội xướng (người đọc các quá trình làm lễ). Lễ tế được tiến hành
theo trình tự:
- Đánh ba hồi trống, ba hồi chiêng và cử nhạc lễ.
- Chủ tế tiến lên dâng hương.
- Chủ tế và bồi bái lạy bốn lạy.
- Chủ tế dâng rượu.
- Đọc văn tế.
- Chủ tế dâng rượu lần hai, sau đó lui ra để dân làng vào lễ.
- Tại lễ, ban lễ lạy bốn lạy và nổi chiêng trống kết thúc quá trình tế lễ.
- Đốt vàng mã.
Trong văn tế Tiền hiền Mã Châu có đoạn: "Nhân tùng bắc địa, trạch thử
nam thiên, quy dân lập xã, thất thổ khai điền, dũ nhân dân chi lạc lợi, thuỳ đức
hạnh di diên niên: Tư nhân kỵ nhật, kính dõng (dũng) hương yên, thượng kỳ gián
giám..." .
(Tạm dịch: Người từ đất Bắc, đến ở phía Nam, quy dân lập xã, vỡ đất làm
rộng, làm lợi cho nhân dân, để đức hạnh muôn đời: Ngày kỵ hôm nay, kính
dâng nén hương, mong ở trên chứng giám...).
Sau khi tế mọi người cùng ra Đình ngồi ăn uống. Thứ tự ở đình, gian giữa
dành cho ban tế và các cụ già, còn hai bên là dân đinh trong làng. Vì là lễ lớn
cho cả làng nên phụ nữ cũng phải ra đình làm cỗ, nhưng họ chỉ được ở nhà sau
để chuẩn bị cỗ bàn.
Lễ tế Tiền hiền Mã Châu là một dịp để tưởng nhớ công ơn của những
người đi trước, thể hiện đạo nghĩa "uống nước nhớ nguồn" của những người dân
ở đây và cũng là dịp để mọi người trong làng gặp gỡ, thăm hỏi nhau và củng cố
thêm sự cố kết trong cộng đồng.
3.1.2. Thờ tổ tiên trong các dòng họ.
Làng Mã Châu có hơn 20 dòng họ với 16 nhà thờ họ. Tuy nhiên trong
chiến tranh những nhà thờ họ cũ đã bị phá huỷ, những nhà thờ họ hiện nay mới
được xây dựng lại từ năm 1992.
Các nhà thờ họ hiện nay có kiến trúc giống nhau, nhà xây theo kiểu ba
gian hai mái, lợp ngói, có trang trí rồng phượng, lân... ở các cột nhà và trên mái
nhà. Phía ngoài sân là bức bình phong là một cây hương ở góc sân để thờ thổ
địa. Bên trong nhà thờ họ thường có ba gian thờ: gian giữa thờ ông tổ dòng họ;
hai gian bên thờ cúng các chi tộc và những người đỗ đạt hoặc anh hùng liệt sĩ -
người của dòng họ. Phía trên, gian giữa thường treo một bức hoành phi và hai
bên bàn thờ treo (nay là viết) các câu đối. Trên bàn thờ chính giữa có đặt phú ý
(gia phả) của dòng họ. Tuy nhiên ở Mã Châu chỉ còn dòng họ Trịnh và họ Phạm
còn giữ được bản gia phả từ trước năm 1945. Trong đó chỉ có gia phả của họ
Trịnh còn ghi chép đầy đủ và có ghi năm lập gia phả là vào niên hiệu Bảo Đại
thứ 6.
Ở đây việc xây dựng nhà thờ họ không câu nệ, không nhất thiết người
đứng ra xây dựng nhà thờ họ phải là người con trưởng mà người ở trong họ nếu
ai cú iu kin thỡ ng ra xõy dng (tt nhiờn phi thụng qua vic hp h v
c c h nht trớ) v nh th h phi c xõy dng ch thun li cho vic
hp h.
Nh th h nhỡn chung c xõy dng ỏp ng yu t tõm linh. L ni
con chỏu t hp v tng nh t tiờn thụng qua cụng vic gi chp, t l
trong h, t õy tinh thn c kt ca dũng h c cng c v nõng cao. ng
thi c dõn õy vn mang trong mỡnh tõm lý hoi c ca nhng ngi dõn i
"khai hoang lp nghip" trc kia v nh th h l mt trong nhng minh chng
rừ nột nht cho iu ú. Hin nay vic xõy dng nh th ca h cũn ỏp ng
mt nhu cu khỏc - hi tiờu cc - ú l "thi ua" vi cỏc dũng h khỏc trong
lng.
Vic th cỳng nh th ca cỏc h trong lng tng i ging vi vic
th cỳng ỡnh Tin hin Mó Chõu. Cú l lỳc u, ỡnh Tin hin mang ý
ngha l nh th h chung ca c lng, l ni th nhng t h, nhng ngi u
tiờn cú cụng khai c lp lng Mó Chõu. Bi khi mi vo õy, do nhiu lý do nờn
nhng ngi u tiờn n khai canh, khai c khụng cú iu kin ghi chộp li tờn
h nờn nhng th h sau khụng nh rừ h tờn ca nhng ngi t h
1
. Vỡ vy
nhng ngi dõn lng lp nờn nh th h chung ny v nú cng ỏp ng nguyn
vng, tõm lý ung nc nh ngun ca nhng ngi dõn õy. Nhng qua thi
gian, cựng s phỏt trin ca lng, ỡnh Tin hin tr li vi ỳng ngha ca nú l
trung tõm ca lng, l ni hi hp, sinh hot v th hin mi cng cm chung
ca c dõn lng Mó Chõu.
3.1.3. Th Thnh Hong.
Tc th thn Thnh Hong Bc B, khi vo õy c tớch hp vi
nhng yu t Chm v th Thnh Hong l Cao Cỏc - Nam Hi i vng (th
1 Khi tôi đi tìm hiểu về các dòng họ ở làng Mã Châu thì thấy rằng những dòng họ lâu đời nhất
ở làng hiện nay ở đây đợc 17 đời, nhng luôn luôn không rõ họ tên của khoảng bốn đến năm
thế hệ đầu tiên của các dòng họ.
cá ông, cá voi). Đây là một tín ngưỡng phổ biến của cư dân đi biển ở vùng ven
biển miền Trung.
Người Việt khi tới "vùng đất mới" đã tiếp thu nghề đi biển của người
Chăm. Khi đi biển, họ thường xuyên phải đối mặt với sóng gió mà không có
cách gì để chống chọi lại với hiểm nguy vì vậy lòng tin vào các thế lực siêu
nhiên càng mạnh, nhiều lăng Ông, lăng Bà được dựng lên để cầu mong sự bình
yên. Cá voi được xem là một vị thần cứu mạng của cư dân, do vậy có tục thờ cá
Ông ở vùng ven biển. Hàng năm cư dân đều tổ chức cúng bái, tạ ơn thánh thần
và tưởng nhớ những người đã bỏ mình trên biển.
Các Các - Nam Hải đại vương được thờ ở miếu Thành hoàng, trong chiến
tranh miếu này bị tàn phá, hiện nay chỉ xác định được miếu nằm trong khuôn
viên trường cấp II Sào Nam. Trước đây tế ở miếu vào 10/3 Âm lịch, khi miéu
mất, việc tế lễ cũng không còn.
Nếu như thần Thành Hoàng là vị thần quan trọng nhất ở các làng Bắc Bộ
thì ở Mã Châu và mở rộng ra vùng Duy Xuyên - Quảng Nam nói chung việc thờ
Tiền Hiền khai canh chiếm vị trí chủ đạo, nó chi phối rất mạnh mẽ đến đời sống
tâm lý của cư dân nơi đây. Tín ngưỡng Thành Hoàng ở Mã Châu vẫn được lưu
giữ nhưng đã lui xuống hàng thứ yếu, đồng thời lại hoà nhập vào với yếu tố tín
ngưỡng Chăm. Nó thể hiện ở việc thờ Thành hoàng Cao Các ở miếu thờ của
làng Mã Châu.
3.1.4. Miếu thờ.
Miếu thờ ở Bắc Bộ có chức năng chính là nơi thờ thổ địa, là nơi thờ
cúng của từng xóm [38.34]. Nhưng ở Mã Châu và vùng Duy Xuyên nói chung,
miếu thờ Ngũ đức hay Ngũ hành tiên nương, một tín ngưỡng phổ biến ở vùng
này.
Ngũ hành tiên nương gồm:
- Kim đức thánh phi tôn thần.
- Mộc đức thánh phi tôn thần.
- Thuỷ đức thánh phi tôn thần.
- Hoả đức thánh phi tôn thần.
- Thổ đức thánh phi tôn thần.
Tuy nhiên khi giải thích về việc thờ ở miếu thì người làng Mã Châu nói
rằng trước kia ở vùng này thiên tai, nạn hoả hoành hành nên người ta phải thờ
cúng những hiện tượng gây tai hoạ và gọi chung là thờ Nhương bà.
Ở Mã Châu có chín miếu của chín xóm là tứ Bình, tứ Phú và Hợp Thành.
trước kia còn có miếu Nhỏ nhưng nay đã bị phá huỷ và chỉ còn lại nền gạch ở
phía đầu làng.
Miếu ở đây kiến trúc khá giống nhau và rất đơn giản, được xây dựng ở
khu đất nhỏ hình chữ nhật ở đầu hoặc ở cuối xóm. Trong miếu có một bát
hương ở chính giữa thờ Nhương bà và hai bát hương ở hai bên, thấp hơn để thờ
chư thần. Phía ngoài là bức bình phong, bên cạnh là cây hương thờ thổ thần.
Lễ thức ở các miếu tương đối giống nhau, thường cúng vào mồng 5 đến
mồng 7 tháng Giêng âm lịch. Lễ vật do cả thôn cùng đóng góp. Xóm cắt hai nhà
trong thôn (gọi là ông Trùm) có trách nhiệm lo lễ vật, chuẩn bị lễ cúng và ngày
Rằm, mùng một phải ra miếu thắp hương. Lễ vật gồm năm mâm, một mâm để ở
giữa miếu cúng Nhương bà, hai mâm ở hai bên tả hữu để cúng chư thần, một
mâm cúng thổ địa và một mâm đặt trước tấm bình phong mời "bằng hữu" - thần
ở những vùng xung quanh.
Người cúng là người già nhất xóm và được mọi người trọng vọng. Khi
cúng mặc áo the, khăn xếp. Quá trình cúng tế nhìn chung cũng giống như lễ tế ở
đình làng và mức độ to nhỏ tuỳ thuộc vào khả năng kinh tế của từng xóm.
Nội dung của văn tế thường như sau: "Kim ngân, hương đăng, thanh
chước thứ phẩm chi nghi cẩn cáo vu... Thượng giới bạch hổ kim tinh thần nữ tôn
thần, sắc phong nhân huyền dực bảo trung ngưng tôn thần. Tập bộ hạ thần đẳng
chủng đồng lai thụ hưởng. Viết cung di tôn thần. Ngũ sắc hề thượng bạch, ngũ
hành hề thuộc kim...
Miếu tiền thiết tế, thượng kỳ lai hưởng như lai hâm. Vô nhứt tiêu phong
nạn hoả, tai quái chi trưng bất tác hựu nhất ấp dân khương dật phụ" (Văn tế ở
miếu Bình Hoà).
(Tạm dịch: Kim ngân, hương đăng, thanh trước vật phẩm đã bầy. Kính
báo... Thượng giới bạch hổ kim tinh thần nữ tôn thần. Sắc phong nhân huyền
dực bảo trung ngưng tôn thần. Cùng chư thần bộ hạ cùng đến thụ hưởng. Kính
viết: Tôn thần. Trong ngũ sắc là màu trắng, trong ngũ hành thuộc kim...
Trước miếu tế lễ, ở trên tới hưởng, không gây tiêu phong nạn hoả, không
tác oai tác quái để dân trong ấp được bình yên.)
Sau khi lễ tạ, mọi người kéo đến nhà ông Trùm ăn uống, tổng kết công
việc trong năm và cắt cử công việc cho năm tới. Trong việc tế ở miếu này,
người phụ nữ chỉ chuẩn bị đồ tế lễ ở nhà còn ra miếu là đàn ông ở xóm.
Việc tế lễ ở miếu của mỗi xóm có vai trò rất quan trọng trong đời sống
của cư dân ở đây. Nó tạo nên một sự “cộng cảm”, “cộng mệnh”, củng cố tinh
thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau của mọi người trong thôn xóm, tạo điều kiện
cho mọi người gặp gỡ và vui chơi để từ đó họ có thể hiểu nhau hơn.
3.1.5. Thờ Phật.
Chùa Ba Phong (Hoa Phong tự - tiếng miền Trung đọc Hoa thành Ba)
nằm ở phía Tây Nam của làng, phía gần bờ sông. Chùa do nhân dân Mã Châu
xây dựng đã nhiều lần bị hư hỏng phải tu sửa, thậm chí phải làm lại hoàn toàn.
Chùa cũ không rõ được dựng từ bao giờ, năm 1930 bị đổ và được nhân dân xây
dựng lại bằng nhà tranh tre. Năm 1945 bị đổ, đến năm 1960 chùa được khởi
công xây dựng bằng gạch, lợp ngói. Trong kháng chiến chống Mỹ lại bị sập.
Năm 1989 chùa được làm lại như hiện nay, do người dân làm nghề dệt ở Mã
Châu quyên góp mà xây dựng lên.
Trong chùa, gian ngoài chính giữa thờ tượng Phật Thích Ca, phía hữu (từ
ngoài vào) thờ Bồ Tát Địa Tạng, phía tả thờ Quan Âm Nam Hải. Gian trong thờ