Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Chương 3 Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.49 KB, 13 trang )

Chương 3 Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động
thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
taị NHCTNA
Qua quá trình thực tập và nghiên cứu đề tài, cùng với việc tìm hiểu thực
trạng về những thuận lợi cũng như khó khăn của ngân hàng, em xin mạnh dạn
đề xuất một số ý kiến về giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế
bằng phương thức tín dụng chứng từ tại NHCTNA.
3.1. Giải pháp khắc phục khó khăn.
3.1.1. Không ngừng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nhân viên.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi quá trình sản xuất.
Do đó, để tiến hành mọi quá trình sản xuất, điều đầu tiên là phải quan tâm đến
nhân tố con người.
NHCTNA với một đội ngũ cán bộ, công nhân viên giàu kinh nghiệm, trẻ
khoẻ, là một điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nói chung, cho hoạt
động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ nói riêng.
Nhưng mọi sự vật, hiện tượng luôn luan vận động và phát triển, do đó
nhận thức của con người về các sự vật hiện tượng đó cũng phải thay đổi theo
cho phù hợp. Hoạt động thanh toán quốc tế là một hoạt động không ngừng được
cải tiến cho phù hợp với nhu cầu thực hiện của hoạt động thương mại quốc tế.
Mà người cán bộ Ngân hàng không chỉ giỏi về nghiệp vụ còn phải là người
nhiệt tình, niềm nở, giải quyết công việc nhanh chóng, chính xác, sẵn sàng
hướng dẫn và giúp khách hàng làm thủ tục một cách nhanh gọn, tư vấn cho
khách hàng thực hiện hoạt động của mình an toàn và hiệu quả nhất. Vì vậy yêu
cầu phải bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ công nhân viên của Ngân
hàng có thể thực hiện theo các hướng sau:
Tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ, bồi dưỡng cập nhật kiến thức chuyên
sâu về chuyên môn, trang bị các kiến thức về rủi ro mà các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu của Việt Nam thường gặp phải, tình hình thị trường thế giới, triển
vọng xuất nhập khẩu của Việt Nam, luật lệ, tập quán thương mại quốc tế và phổ
biến các kỹ thuật thanh toán mới được áp dụng trên thế giới... Đặc biệt trong
những lớp học này có thể mời các chuyên gia nước ngoài về thanh toán quốc tế


giảng dạy, để các cán bộ và nhân viên ngân hàng trong các bộ phận liên quan
đến thanh toán quốc tế có điều kiện trau dồi về nghiệp vụ cũng như ngoại ngữ.
Cử cán bộ đi du học nước ngoài chuyên về lĩnh vực thanh toán quốc tế,
tìm hiểu những thông tin về thanh toán quốc tế mà trong kinh doanh thương mại
quốc tế hiện nay đang được sử dụng và trong tương lai gần sẽ áp dụng tại các
nước công nghiệp phát triển.
Tranh thủ lớp tập huấn, đào tạo do NHCTVN tổ chức, các lớp đào tạo do
các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế tài trợ.
Phát huy vai trò chủ động sáng tạo của các thanh toán viên, tích cực lắng
nghe ý kiến của họ, khuyến khích họ nêu ra các sáng kiến mới, thường xuyên
phân tích các nhược điểm, các vụ việc liên quan làm khách hàng phàn nàn, từ
đó tìm ra cách khắc phục.
Bên cạnh đó, cũng cần phải chú ý đến nguồn nhân lực bổ sung, thay thế.
Ngân hàng có thể thông qua các trường đại học để lựa chọn các sinh viên có khả
năng, năng lực đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng, cũng có thể tổ chức
các cuộc tuyển chọn, hoặc thông qua NHCTVN thực hiện các cuộc điều chuyển
nhân sự để lựa chọn nhân viên đáp ứng yêu cầu của công việc.
3.1.2. Đầu tư đổi mới cơ sở vật chất của Ngân hàng.
Cơ sở vật chất là phương tiện để ngân hàng thực hiện các hoạt động, cung
cấp dịch vụ, cơ sở vật chất bao gồm nhà cửa, trang thiết bị máy móc, phương
tiện đi lại, phương tiện thông tin...
Sản phẩm dịch vụ cũng như các sản phẩm nói chung, chất lượng của nó
phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở vật chất, trang thiêt bị. Một ngân hàng với trụ sở
khang trang, rộng rãi sẽ tạo niềm tin, ấn tượng tốt cho khách hàng, cho đối tác,
đặc biệt là khách hàng và đối tác nước ngoài. Một ngân hàng với một hệ thống
thông tin, truyền tin kịp thời, an toàn, chính xác là hết sức cần thiết và ảnh
hưởng rất lớn đền chất lượng dịch vụ. Đặc trưng quan trọng của hoạt động ngân
hàng là chủ yếu liên quan đến tiền tệ, thực hiện dịch vụ chủ yếu là trung gian
cho khách hàng, trong hoạt động liên quan đến rất nhiều khách hàng, đối tác
nên yêu cầu kịp thời, an toàn, chính xác rất cao. Đặc biệt là hoạt động thanh

toán quốc tế, ngân hàng với vai trò là câù nối giữa khách hàng và đối tác nước
ngoài với khách hàng và đối tác trong nước, là những người cách xa nhau về địa
lý, khác nhau về ngôn ngữ, phong tục tập quán, thói quen làm lại càng cần thiết
hơn.
Do đó ngân hàng cần thiết phải đầu tư đổi mới cơ sở vật chất theo hướng
tiếp cận các công nghệ mới, hiện đại. Ngân hàng có thể thực hiện theo các
hướng:
+ Trích lập quĩ đầu tư phát triển và sử dụng các quĩ này một cách hợp lý,
hiệu quả.
+ Đẩy mạnh phong trào thi đua nghiên cứu, áp dụng các sáng kiến về
công nghệ hàng trong hoạt động ngân hàng. Có các khuyến khích vật chất cho
những cán bộ, công nhân viên có thành tích trong việc sáng kiến, áp dụng các
công nghệ ngân hàng mới.
3.1.3.Tiếp tục nghiên cứu đa dạng hoá các hình thức L/C.
Hiện nay, Ngân hàng tuy đã áp dụng khá đa dạng và tương đối đầy đủ các
hình thức L/C, nhưng việc các khách hàng có sử không mới là điều quan trọng.
Hầu hết các khách hàng còn lạ lẫm và không có bộ phận chuyên trách về các
dịch vụ này nên nhu câù từ phía khách hàng gần như không có. Vì vậy để việc
áp dụng các hình thức L/C có hiệu quả, ngân hàng ngoài việc phải hoàn thiện
các hình thức L/C mà còn phải tạo cho khách hàng cảm giác tin tưởng và dễ
hiểu về sản phẩm của mình, từ đó thu hút khách hàng đến với các dịch vụ của
mình.
3.1.4. Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, thẩm định thông tin khách hàng.
Phối hợp giữa Phòng kinh doanh và phòng KDĐN cùng các phòng ban
khác trong công tác kiểm tra thẩm định thông tin khách hàng nhằm mục đích
đánh giá đúng khách hàng phục vụ cho việc ra quyết định một cách đúng đắn,
hiệu quả. Bởi vì, khi đánh giá đúng tình hình tài chính, nhu cầu của khách hàng,
mức độ rủi ro khi thực hiện các giao dịch với khách hàng, đối tác thì Ngân hàng
mới có thể có cơ sở ra quyết định một cách đúng đắn, kịp thời hiệu quả cho hoạt
động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ và cho hoạt động

kinh doanh chung của ngân hàng. Ngân hàng có thể:
+ Thông tin qua trung tâm thông tin của NHCTVN về các khách hàng và
đối tác cần quan tâm.
+ Thông qua các khách hàng, đối tác khác có quan hệ lâu dài, tin tưởng
lẫn nhau với Ngân hàng.
+ Thông qua việc tổ chức đi dò hỏi thông tin về khách hàng từ công
chúng.
+ Thông qua phân tích, đánh giá các số liệu mà khách hàng, đối tác cung
cấp cho.
+ Thông qua kinh nghiệm giao dịch với khách hàng, đối tác trong các
hoạt động kinh doanh trước đây.
3.1.5. Đẩy mạnh công tác tư vấn khách hàng đối với hoạt động thanh toán
theo phương thức tín dụng chứng từ.
Một trong những nguyên nhân gây ra những hạn chế, tồn tại trong việc
phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ là
từ sự hiểu biết của các doanh nghiệp về phương thức này. Vì vậy, trong thời
gian tới Ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tư vấn khách hàng và việc
tư vấn này phải được thể hiện bằng văn bản vì làm như vậy sẽ đảm bảo tính
pháp lý trong giao dịch giữa các thanh toán viên của Ngân hàng với khách hàng,
tăng cường độ tin cậy của khách hàng, từ đó nâng cao hiệu quả của công tác tư
vấn.
 Đối với đơn vị nhập khẩu:
Người nhập khẩu gây ra rủi ro cho ngân hàng mở khi họ làm mất khả
năng thanh toán hoặc cố tình vi phạm cam kết của mình. Để có thể đem lại lợi
ích chính đáng cho nhà xuất khẩu và bảo vệ quyền lợi của ngân hàng, các cán
bộ cần tư vấn cho những vấn đề sau:
+ Tư vấn cho đơn vị nhập khẩu nên mở loại L/C nào:
Đối với những khách hàng là đơn vị nhập khẩu mày móc thiết bị giá trị
lớn mà phía đối tác nước ngoài yêu cầu có tiền đặt cọc, thanh toán viên có thể
khuyên họ sử dụng L/C dự phòng vì đây là hình thức mà người nhập khẩu được

đảm bảo sẽ nhận được sản phẩm cung ứng từ nhà xuất khẩu, đồng thời người
nhập khẩu còn được bồi hoàn toàn bộ số tiền đặt cọc cũng như chi phí liên quan
nếu người xuất khẩu không thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo yêu cầu.
Đối với đơn vị nhạp khẩu hàng hoá với khối lượng lớn, giao hàng nhiều
lần, nên tư vấn cho họ sử dụng L/C tuần hoàn. Đây là phương thức giúp cho
khách hàng tránh được tình trạng ứ đọng vốn và giảm được chi phí cũng như
các thủ tục có liên quan.
Đối với khách hàng nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài về gia công,
sau đó xuất hàng sang nước cung cấp nguyên liệu, thanh toán viên có thể tư vấn
cho họ sử dụng loại L/C đối ứng, hình thức đảm bảo nhất cho các đơn vị gia
công. Loại L/C này đảm bảo đồng thời thanh toán cho người xuất khẩu giá trị
nguyên liệu nhập cũng như sản phẩm hàng hoá được sản xuất từ chính nguyên
liệu đó. Trong trường hợp này việc sử dụng L/C đối ứng đem lại ưu việt hơn
hẳn sử dụng L/C không huỷ ngang bởi lẽ sau khi nhập và thanh toán giá trị
nguyên liệu, các sản phẩm sản xuất ra không được phía đối tác đồng ý nhập lại
và người gia công sẽ gặp phải rủi ro lớn do hàng hoá mang tính đặc thù khó có
thể bán được.
Công việc tư vấn cho đơn vị trong việc đưa ra các điều khoản vào L/C.
không nên đưa ra quá nhiều điều khoản vào vì dễ dẫn đến sai sót. Trong việc
chấp nhận các yêu cầu của bên bán khi mở L/C, khi sửa đổi L/C sao cho không
làm tổn hại đến lợi ích của mình.
 Đối với các đơn vị xuất khẩu:
Các đơn vị xuất khẩu thường gây rủi ro cho ngân hàng thông báo, ngân
hàng chiết khấu khi họ lập bộ chứng từ không hoàn hảo và bị từ chối thanh toán.
Để tránh rủi ro đó, ngân hàng có thể tư vấn cho những vấn đề như sau:
Tư vấn cho các doanh nghiệp xuất khẩu yêu cầu bên mua mở cho mình
một L/C đảm bảo nhất. Hiện nay, loại L/C không huỷ ngang, có xác nhận và
miễn truy đòi là có lợi nhất cho người bán. Tuy nhiên không nhất thiết trường
hợp nào cũng phải mở L/C có xác nhận vì phí xác nhận cao và bên nhập khẩu

×