Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI SỞ GIAO DỊCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.29 KB, 23 trang )

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN TẠI SỞ GIAO DỊCH – NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ
PHÁT TRIỂN VIỆT NAM.
( SGD- NHĐT&PTVN)
2.1. Tổng quan về SGD-NHĐT&PTVN.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển.
Được thành lập ngày 28/3/1991 theo quyết định số 76 QĐ/TCCB của
Tổng giám đốc NHĐT&PTVN. Thực nghiệm thành cơng mơ hình mới là
đơn vị trực tiếp kinh doanh của Hội sở chính, thực thi có hiệu quả các nhiệm
vụ chiến lược của BIDV.
SGD là đơn vị chủ lực trong xây dựng và phát triển quan hệ hợp tác với
khách hàng Tập đồn, Tổng cơng ty, thực hiện đầu tư các dự án lớn và trọng
điểm của đất nước. SGD cũng là đơn vị đi đầu triển khai thành công hệ
thống công nghệ hiện đại, dự án hiện đại hóa Ngân hàng và hệ thống thanh
tốn. Triển khai mơ hình tổ chức theo hướng ngân hàng thương mại hiện đại.
Thực hiện xuất sắc kế hoạch kinh doanh hàng năm. Là hạt nhân trong công
tác phát triển mạng lưới trên địa bàn Hà Nội. Mười năm liền được kiểm tốn
bởi PwC, Ernst and Young.
Bên cạnh đó SGD cũng rất chú trọng xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ chun mơn nghiệp vụ cao, đáp ứng u cầu của hệ thống, gắn bó
tâm huyết với ngành. Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, Cơng đồn
cơ sở xuất sắc, Chi đoàn thanh niên tiên tiến.
Đến 31/12/2005, Tổng tài sản đạt 14.000 tỷ đồng, chiếm 10% Tổng tài sản
của hệ thống. Là đơn vị thành viên lớn nhất của BIDV, đóng góp nhiều nhất
vào kêt quả hoạt động kinh doanh của toàn ngành.
Từ ngày đầu thành lập, Sở giao dịch đã có 2 phịng và 1 tổ nghiệp vụ, chủ
yếu làm nhiệm vụ cấp phát vốn ngân sách đầu tư các dự án.


Giai đoạn tiếp theo 1996-2000 với 167 cán bộ nhân viên Sở giao dịch đã có
12 nghiệp vụ, 1 chi nhánh khu vực, 2 phòng giao dịch và 7 quỹ tiết kiệm.


Thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ của NHTM, phục vụ đông đảo khách hàng
thuộc mọi tầng lớp kinh tế và dân cư.
Giai đoạn 2001-2005, Sở giao dịch đã thực hiện tách nâng cấp mở 4 chi
nhánh cấp 1 trên địa bàn Hà nội đó là chi nhánh Bắc HN năm 2002, chi
nhánh Hà thành năm 2003, chi nhánh Đông đô năm 2004 và chi nhánh
Quang Trung năm 2005. Cơ cấu lại SGD theo mơ hình phục vụ giao dịch
một cửa thuận lợi cho khách hàng và quản lý thơng tin, thanh tốn trực
tuyến. Đến nay SGD đã có 15 phòng nghiệp vụ,15 điểm giao dịch với gần
300 cán bộ nhân viên hệ thống, máy rút tiền tự động ATM hoạt động kết nối
các điểm giao dịch BIDV trên phạm vi toàn quốc hợp thành mạng lưới rộng
khắp phục vụ khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Sau hơn 16 năm hoạt động, hiện nay Sở giao dịch là đơn vị có quy mơ 20
phịng nghiệp vụ, 300 cán bộ, với mạng lưới 14 phòng giao dịch, điểm giao
dịch tại 3 quận Hoàn Kiếm , Ba Đình, Hai Bà Trưng.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức .


Sơ đồ 2.1: Sơ đồ bộ máy tổ chức của Sở giao dịch
P. tín dụng1
P tín dụng 2
Khối tín dụng

P tín dụng 3
P. thẩm định
P. quản lý tín dụng
P. thanh toán quốc tế
P. DV KH DN 1

Khối dịch vụ


P. DV KH DN 2
P. DV Kh cá nhân
P. Tiền tệ kho quỹ

Ban giám đốc

P.Kế hoạch nguồn vốn
P. Tài chính kế tốn
Khối QL nội bộ

P. Tổ chức cán bộ
P. hành chính quản trị
P. Điện toán
P. kiểm tra nội bộ
P. giao dịch 1

Khối ĐVTT

P. giao dịch 2
P. giao dịch 3
P. giao dịch 4


2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh một số năm gần đây.
Q trình phát triển quy mơ hoạt động của Sở giao dịch đuợc thể hiện qua
tăng trưởng khách hàng, tổng tài sản. Đến nay đã có hàng vạn khách hàng
mở TK hoạt động, trong đó có tới 1.400 khách hàng là doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế: Tập đồn, Tổng cơng ty, Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, liên doanh, cổ phần, TNHH lớn…
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn.

Bảng 2.1: Cơ cấu huy động vốn của SGD-NHĐT&PTVN
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu

Năm 2005
Tuyệt đối % TT
Huy động vốn
7,570
6,49
Tiền gửi TCKT
4,408
18,95
-TG khơng kì hạn 844
-17,17
-TG có kì hạn
3,563
32,67
Tiền gửi dân cư
3,049
-8,09
-TG tiết kiệm
2,168
-1,83
-Kì phiếu
231
-49,92
-CCTG, trái phiếu 650
0,35
Huy động khác
113

31,64

Năm 2006
Tuyệt đối % TT
10,111
3,357
7,285
65,28
1,645
94,76
5,640
58,29
2,791
-8,44
2,290
5,61
122
-47,07
379
-41,63
35
-69,43

Năm 2007
Tuyệt đối % TT
13,621
34,71
11,821
62,27
3,427

108,28
8,394
48,84
1,765
-36,78
1,601
-30,08
28
-77,41
136
-64,10
35
0.00

(Nguồn : Phòng kế hoạch nguồn vốn SGD-NHĐT&PTVN)
Nguồn vốn Sở giao dịch hình thành chủ yếu từ nguồn tiền gửi thanh tốn có
kì hạn từ các tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm từ trong dân cư. Đây là hai
nguồn tiền gửi tương đối ổn định.
Tỷ trọng nguồn vốn huy động trung và dài hạn của Sở giao dịch chiếm
khoảng 45- 50% tổng nguồn vốn huy động.
Tính đến thời điểm 31/12/2007 tổng nguồn vốn huy động của toàn Sở giao
dịch đạt 13,621 tỷ đồng ( tăng 35% so với năm 2006 ) chiếm 6,25% thị phần
trên địa bàn.


Sở giao dịch giữ vững nền tảng các khách hàng truyền thống ( Ngân hàng
phát triển, Bảo hiểm xã hội Việt nam, Tổng cơng ty dầu khí..) đồng thời
cũng đẩy mạnh huy động vốn từ các khách hàng mới tiềm năng như tập
đồn Bưu chính viễn thơng, Tổng cơng ty viễn thông quân đội, Tổng công ty
xi măng Vịêt nam, Tổng cơng ty Vinaconex…

Với 3 phịng giao dịch mới được mở rộng thêm, huy động vốn từ dân cư tăng
thêm khoảng 1,765 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 13% tổng nguồn vốn huy động
của tồn sở giao dịch. Tích cực đẩy mạnh tiền gửi thanh toán, nâng số dư
tiền gửi thanh tốn bình qn lên 2000 tỷ đồng.
2.1.3.2. Hoạt động tín dụng.
Tín dụng là hoạt động thế mạnh của SGD-NHĐT&PTVN với số lượng các
khách hàng lớn cũng như chất lượng tín dụng cao, Sở cũng phát triển các
nghiệp vụ dựa trên nguyên tắc chấp hành nghiêm chỉnh giới hạn tín dụng
được hội sở chính giao.
Dư nợ tín dụng tính đến 31/12/2006 đạt khoảng 6700 tỷ đồng, tăng hơn 1000
tỷ đồng so với năm 2005, đạt 99% giới hạn tín dụng được giao, chiếm 5,09%
thị phần tín dụng trên địa bàn.

Bảng 2.2: Dư nợ tín dụng tại SGD- NHĐT&PTVN
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm

Năm

Năm

Năm

Chỉ tiêu
1995
2000
2005
2006
Tổng dư nợ
504

4846
5674
6678
Tổng dư nợ ngắn hạn
36
1174
2156
3940
Tổng dư nợ dài hạn
468
3672
3518
2738
(Nguồn: Báo cáo thường niên Sở giao dịch NHĐT&PTVN)
Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu của BIDV là:


-

Xây lắp dân dụng, công nghiệp và đầu tư cơ sở hạ tầng.

-

Bưu chính viễn thơng

-

Giao thơng vận tải

-


Cơng nghiệp khai khống

-

Chế biến nơng sản, thủy hải sản

-

Chế biến hàng xuất khẩu

-

Cơng nghiệp năng lượng và dầu khí

-

Các khu cơng nghiệp trọng điểm


Bảng 2.3: Tỷ trọng dư nợ tín dụng (TD) theo ngành so với
tổng dư nợ qua các năm
Lĩnh vực đầu tư
Xây lắp

2004
30%

2005
25,9


2006
23%

Xi măng
Điện lực
Dầu khí
Xuất khẩu may, gỗ, thủy

3,6%
3,7%
2%
3,8%

%
4,2%
5,5%
3,1%
4%

7%
9%
6%
10%

sản
Bất động sản
Khác

4,2%

52,7

6%
51,3

8%
37%

Tổng

%
100%

%
100%

100

%
( Nguồn: Báo cáo thường niên SGD Ngân hàng ĐT& PT VN )
Trong các lĩnh vực kể trên, xây lắp, xi măng, điện lực và giao thông là những
lĩnh vực đầu tư chủ yếu của Sở giao dịch. Riêng đối với xây lắp, dư nợ tín
dụng chiếm xấp xỉ ¼ tổng dư nợ qua các năm.
Hầu hết các lĩnh vực nhận tài trợ từ SGD lại là những lĩnh vực tập trung
nhiều dự án lớn trong đó có những dự án trọng điểm của quốc gia, của vùng
kinh tế mà nhu cầu vay vốn luôn ở mức cao và luôn được nhà nước ưu tiên
đầu tư thực hiện.


Bảng 2.4: Tỷ trọng dư nợ theo khách hàng so với tổng dư nợ qua các

năm
Khách hàng
Tổng công ty
Doanh nghiệp vừa và

2004
37%
25%

2005
38%
28%

2006
36%
35%

nhỏ
Tư nhân và tiêu dùng
4%
4%
5%
Khác
34%
30%
24%
( Nguồn: Báo cáo thường niên SGD Ngân hàng ĐT&PT VN )
Khách hàng truyền thống của Sở giao dịch là các tổng công ty lớn, tỷ trọng
dư nợ của nhóm khách hàng này ln chiếm từ 35 – 40% tổng dư nợ của Sở.
Tuy nhiên xu hướng các năm gần đây là tỷ trọng khách hàng doanh nghiệp

vừa và nhỏ tăng dần.
2.1.3.3. Các dịch vụ của SGD-NHĐT&PTVN.
Các dịch vụ ngân hàng mà SGD cung cấp đã góp một phần quan trọng vào
kết quả kinh doanh chung của toàn hệ thống, bao gồm cả các dịch vụ truyền
thống và hiện đại.
Năm 2004, thu từ dịch vụ chủ yếu vẫn tập trung vào các dịch vụ truyền
thống như bảo lãnh, thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế, kinh doanh
ngoại tệ ( 89% tổng thu từ dịch vụ ). Hầu hết là những dịch vụ có quan hệ
chặt chẽ với tín dụng. Khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp truyền thống
của BIDV. Thực tế, dịch vụ vẫn là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự tăng
trưởng các hoạt động truyền thống khác như huy động vốn và tín dụng.
Những năm gần đây, dịch vụ ngân hàng bán lẻ cũng đã đạt được một số kết
quả nhất định. Ngoài những sản phẩm dịch vụ truyền thống như thanh toán,
bảo lãnh, kinh doanh tiền tệ… BIDV đã chú trọng quan tâm nghiên cứu phát
triển các sản phẩm, dịch vụ mới như dịch vụ thẻ, các sản phẩm Home
Banking, Phone Banking …


Bảng 2.5: Chỉ tiêu của hoạt động thanh toán quốc tế và xuất nhập khẩu
Đơn vị: triệu USD
Chỉ tiêu
Doanh số

Năm 2004
700

Năm 2005
2,010

Năm 2006

2,749

TTQT
Doanh số

500

933

1,540

xuất nhập
khẩu
So với năm 2004, năm 2005 hoạt động thanh toán quốc tế của Sở giao dịch
NHĐT&PT VN đã thực sự có những bước tiến đáng kể. Doanh số thanh toán
quốc tế năm 2005 đạt 2,010 triệu USD, tăng gấp gần 3 lần so với năm 2004,
trong đó doanh số thanh tốn xuất nhập khẩu của sở giao dịch đạt 933,657
triệu USD.
Thu dịch vụ ròng của các năm có sự biến động rõ rệt, nhất là vào năm 2006
thu dịch vụ ròng là 58,397 triệu, tăng hơn 2 lần so với năm 2005


Bảng 2.6: Chỉ tiêu thu dịch vụ ròng.
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu

Năm

Năm


Năm

Năm

Thu dịch

2004
24,50

2005
25,6

2006
49,51

2007
58,39

vụ rịng

2

2

7

Tính đến cuối năm tài chính 2007, SGD-NHĐT& PTVN đã hồn thành thậm
chí vượt trội các chỉ tiêu kế hoạch đề ra với tổng tài sản đạt 17,462 tỷ đồng,
tăng 32,13% so với năm 2006, huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân
cư đạt 13,6201 tỷ đồng, tăng 37,97%, dư nợ tín dụng đạt 5,185 tỷ đồng, tăng

18,07%. Tỷ lệ nợ xấu của Sở cũng xuống mức 9,1%.
2.2. Thực trạng hoạt động huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN.
Là một đơn vị thành viên thực hiện trực tiếp các hoạt động kinh doanh của
NHĐT&PTVN, vốn chủ sở hữu của SGD chính là nguồn vốn ban đầu do
NHĐT&PTVN cấp ( tài sản cố định bao gồm trụ sở, máy móc, trang thiết bị
văn phịng…). Lợi nhuận mà SGD tạo ra cũng là lợi nhuận thuộc về
NHĐT&PTVN, ban lãnh đạo tồn ngân hàng có quyền quyết định thu hồi về
quỹ chung của ngân hàng hoặc để lại nhằm tăng vốn cho SGD. Do đó nghiên
cứu về thực trạng huy động vốn của SGD chủ yếu tập trung việc nghiên cứu
hoạt động huy động nợ của Sở giao dịch.
2.2.1. Tình hình biến động chung.
Trong khoảng 3 năm trở lại đây, có nhiều biến động xung quanh các yếu tố
liên quan tới tổng thể hoạt động huy động vốn của SGD-NHĐT&PTVN.
Bảng 2.7: Tình hình biến động huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN
Đơn vị: tỷ đồng
Năm

Tổng lượng vốn huy động

Tăng/giảm so với năm trước.


Chênh lệch
( Số tuyệt đối)
2005
2006
2007

Chênh lệch
(Số tương đối)


7,570
10,111
13,620

2,541
3,509

33.57%
34.71%

Có thể thấy Sở giao dịch đã đạt mức tăng trưởng đáng kể trong vòng 3 năm
gần đây. Bên cạnh việc thực hiện các sản phẩm huy động vốn truyền thống,
Sở đã triển khai nhiều hoạt động huy động vốn dân cư hấp dẫn như: Tiết
kiệm dự thưởng ( mỗi năm khoảng 2 đợt), tiết kiệm phân tầng, tiết kiệm rút
dần, huy động vốn khuyến mãi tặng thẻ bảo hiểm, phát hành giấy tờ có giá
ngắn hạn dưới hình thức kì phiếu, phát hành giấy tờ có giá dài hạn dưới hình
thức trái phiếu hay chứng chỉ tiền gửi ( thời hạn 3 năm hay 5 năm).
Sở giao dịch còn đề ra các chiến lược Marketing để góp phần thúc đẩy tăng
trưởng vốn, tiếp cận tới khách hàng theo nhiều hình thức khác nhau, trên các
phương tiện thông tin đại chúng hay tư vấn trực tiếp, phát huy hiệu quả của
công cụ lãi suất… nhằm huy động vốn theo nhiều kênh, nhiều nguồn khác
nhau.
Cơ cấu huy động vốn cũng có nhiều biến động.
Tỷ trọng nguồn vốn huy động trung và dài hạn của sở giao dịch chiếm
khoảng 40%- 50% tổng nguồn vốn huy động và có xu hướng giảm qua các
năm trong khi đó tỷ trọng vốn ngắn hạn lại tăng. Nguyên nhân chủ yếu là
những năm gần đây, tình hình nền kinh tế khu vực và trong nước không ổn
định, nhiều biến động, lo sợ đồng tiền mất giá, khách hàng sẽ khơng gửi tiền
vào ngân hàng hoặc gửi với kì hạn ngắn để giảm thiểu rủi ro. Bên cạnh đó,

các tổ chức kinh tế - tăng cường gửi tiền vào tài khoản tiền gửi thanh tốn
nhằm mục đích giao dịch.
Về loại tiền gửi, huy động VND chiếm trung bình khoảng hơn 80% tổng
nguồn vốn. Vốn huy động bằng ngoại tệ không nhiều do thị trường ngoại hối
có nhiều biến động, ảnh hưởng tới tâm lý khách hàng.


2.2.2. Huy động vốn nợ.
Hoạt động huy động nợ của Sở giao dịch, được thực hiện thông qua các kênh
như sau :
-

Huy động tiền gửi tiết kiệm từ dân cư

-

Huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế

-

Phát hành kì phiếu, trái phiếu
-

Huy động khác

Các hình thức huy động vốn của SGD đã đạt được những kết quả nhất định,
mặc dù vẫn có sự biến động tăng giảm qua các năm do nhiều nhân tố tác
động nhưng tổng lượng vốn huy động vẫn có sự tăng trưởng đều qua các
năm.
Trong 2 năm 2006 và 2007, huy động nợ của SGD tăng bình qn khoảng

34% so với năm tài chính trước đó, một con số khơng phải là nhỏ.
Có thể nhận định khái quát về tình hình huy động nợ tại SGD –
NHĐT&PTVN qua bảng số liệu dưới đây.


Bảng 2.8: Các hình thức huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN
Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu

Năm

Năm

Tỷ lệ tăng trưởng (%)

2005
Tiền gửi TCKT
Tiền gửi TK dân cư
Kỳ phiếu
Trái phiếu, CCTG
Huy động khác
Tổng cộng

Năm
2006

2007

2006/2005 2007/2006
65

62
5.61
-30.08
-47.07
-77.41
-41.63
-64.10
-69.43
0.00
34
35

4,408
2,168
231
650
113
7,570

7,285
2,290
122
379
35
10,111

11,821
1,601
27
136

35
13,620

(Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn SGD-NHĐT$PTVN)
Trong khi huy động tiền gửi từ các doanh nghiệp sản xuất tăng một cách
đáng kể thì huy động từ dân cư cũng như các hình thức huy động thơng qua
phát hành kì phiếu, trái phiếu, CCTG lại giảm. Trong đó, tiền gửi từ các tổ
chức kinh tế chiếm tỷ trọng lớn nhất, năm 2005 ở mức gần 60% nhưng cho
đến năm 2007 đã lên tới 86% đạt hơn 11,821 tỷ đồng trên tổng số 13,620 tỷ
đồng tổng nguồn vốn huy động nợ, trung bình mỗi năm tăng khoảng 60% so
với năm trước đó. Nguồn tiền gửi tiết kiệm từ dân cư tuy cũng chiếm một tỷ
trọng tương đối, nhưng lại giảm rõ rệt vào năm 2007. Các nguồn huy động
từ phát hành giấy tờ có giá thì đều giảm tương đối nhiều trong vịng 2 năm
trờ lại đây. Có thể phân tích sự thay đổi của từng nguồn huy động như sau:


Huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế

Bảng 2.9: Huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế.
Đơn vị : tỷ đồng.
Chỉ tiêu
Năm 2005
Tiền gửi của TCKT 4,408
Tiền gửi khơng kì 844

Năm 2006
7,285
1,645

Năm 2007

11,821
3,427

hạn
Tiền gửi có kì hạn
3,563
5,640
8,394
(Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn SGD-NHĐT&PTVN)
Nguồn tiền gửi từ các tổ chức kinh tế tăng đều qua các năm đối với cả 2 loại
là tiền gửi khơng kì hạn và tiền gửi có kì hạn. Tiền gửi khơng kì hạn năm
2007 đã tăng hơn 4 lần so với năm 2005 đạt 3,427 tỷ đồng (tăng hơn 50% so
với năm 2006). Tiền gửi có kì hạn cũng tăng, tuy ở mức độ khiêm tốn hơn
nhưng không phải là con số nhỏ với tốc độ tăng trưởng gần 35% 1 năm, năm
2007 đạt 8,394 tỷ đồng tăng khoảng 33% so với con số 5,640 tỷ đồng năm
2006.


Biểu đồ 2.1 : Cơ cấu huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế.
Tuy nhiên so sánh tương quan giữa 2 loại tiền gửi thì tiền gửi có kì hạn rõ
ràng vẫn chiếm tỷ trọng lớn hơn so với tiền gửi khơng kì hạn.
Thực tế trong mơi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay mà SGD vẫn thu
hút được một lượng vốn lớn từ các tổ chức kinh tế, rõ ràng đó là một cố gắng
rất lớn. SGD đã không ngần ngại áp dụng các biện pháp mới trong công tác
huy động nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng đồng thời tìm kiếm lợi ích
tốt nhất cho ngân hàng. Trong khoảng 3 năm trở lại đây, SGD đã sử dụng
các chính sách hợp lý có thể kể ra sau đây:
Khuyến khích các tổ chức kinh tế mở tài khoản cá nhân cho cán bộ công nhân
viên: Kể từ khi SGD-NHĐT&PTVN được chọn làm đơn vị thí điểm thực
hiện mở tài khoản cá nhân cho cán bộ cơng nhân viên cho đến nay, rất nhiều

cơng ty có quan hệ với Ngân hàng đã thực hiện trả lương qua tài khoản. Bên
cạnh đó, hệ thống máy rút tiền tự động ATM cũng được đưa vào sử dụng
rộng khắp, tạo thuận tiện cho khách hàng trong việc gửi tiền cũng như rút
tiền, nhờ đó mà thu hút được ngày càng nhiều khách hàng.
Khuyến khích các tổ chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Sở
giao dịch: Mặc dù đây là nguồn tiền gửi không ổn định nhưng lãi suất lại
thấp trong khi vẫn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn vốn huy
động từ các tổ chức kinh tế. Sở giao dịch đã linh hoạt sử dụng các chính sách
để khuyến khích đối tượng khách hàng doanh nghiệp gửi tiền vào ngân
hàng : Ưu tiên cho những khách hàng thường xuyên có số dư tiền gửi cao và
ổn định sẽ được giảm lãi suất khi vay tiền từ ngân hàng, ưu đãi trong việc
thu phí các dịch vụ khác của ngân hàng. Bên cạnh đó, SGD tăng cường công
tác tuyên truyền, giới thiệu, quảng cáo về chất lượng dịch vụ của ngân hàng.
Việc hiện đại hóa ngân hàng cũng góp phần mang lại số lượng lớn khách
hàng cho ngân hàng. Nhờ những biện pháp tích cực đó mà Ngân hàng đã tiếp


cận với rất nhiều khách hàng lớn như Bảo hiểm xã hội, Tổng cơng ty dầu
khí, Tổng cơng ty điện lực … tỷ trọng tiền gửi của các tổ chức này chiếm
khoảng 55%-60% tổng nguồn vốn huy động.
Bảng 2.10: Cơ cấu các loại tiền trong tiền gửi của các tổ chức kinh tế.
Đơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiêu
VND
Ngoại tệ
Tổng cộng

Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006

3,390 (91.5%)
4,091 (92.8%)
7,363 (94.1%)
315 (8.5%)
317 (7.2%)
462 (5.9%)
3,705 (100%)
4,408 (100%)
7,825 (100%)
( Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn SGD-NHĐT&PTVN )

Ta có thể thấy, trong tổng lượng tiền gửi thì tiền gửi bằng VND là chiếm tỷ
trọng lớn hơn hẳn ngoại tệ kể cả về quy mô lẫn tốc độ tăng trưởng. Điều này
có thể giải thích dễ dàng, do hầu hết các khách hàng của Sở là các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư phát triển, ít có nhu cầu sử dụng
ngoại tệ cũng như có ít các khoản thu bằng ngoại tệ.
Huy động tiền gửi từ dân cư.
Tiền gửi tiết kiệm
Huy động tiền gửi từ dân cư tuy không chiếm tỷ trọng lớn như khoản tiền
gửi huy động từ các tổ chức kinh tế trên địa bàn, tuy nhiên vẫn là một công
cụ truyền thống và phổ biến trong công tác huy động vốn của ngân hàng.
Đây là hình thức huy động khơng chỉ riêng SGD-NHĐT&PTVN quan tâm
mà tất cả các ngân hàng khác đều muốn thu hút vì thực tế hiện nay, nguồn
tiền nhàn rỗi trong tay dân cư là rất lớn, tiềm năng lớn hơn nhiều so với số
tiền hiện đang gửi trong các ngân hàng, lại là nguồn tương đối ổn định. Đặc
biệt tại các thành phố lớn, tập trung dân cư đông đúc và mức sống tương đối
cao thì ngân hàng càng phải chú trọng đến công tác huy động nguồn vốn nợ
này.
Bảng 2.11: Cơ cấu loại tiền trong tiền gửi tiết kiệm của dân cư.



Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
VNĐ
Ngoại tệ
Tổng cộng

Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
1,374 (62.2%)
1,416 (65.3%)
1,546 (67.5%)
835 (37.8%)
752 (34.7%)
744 (32.5%)
2,209 (100%)
2,168 (100%)
2,290 ( 100%)
(Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn SGD-NHĐT&PTVN)

Vốn huy động từ tiền gửi của dân cư qua các năm tuy có những biến động
tăng giảm nhưng không quá lớn. Năm 2005 tổng tiền gửi tiết kiệm đạt 2,168
tỷ đồng giảm khoảng 2% so với năm 2004 (2,209 tỷ đồng), tuy nhiên sang
năm 2006 lại tăng trở lại đạt mức 2,290 tỷ đồng. Cơ cấu loại tiền theo xu
hướng tỷ trọng tiền gửi VNĐ tăng dần qua các năm và thường chiếm khoảng
hơn 60% trong tổng lượng tiền gửi tiết kiệm của dân cư, trong khi đó tỷ
trọng tiền gửi ngoại tệ giảm dần từ 37.7% năm 2004 cho đến năm 2006 chỉ
còn khoảng 32.5% . Nguyên nhân là do tỷ giá đồng VN so với đồng ngoại tệ
trong khoảng thời gian từ 2004 đến nay là khơng có q nhiều biến động mà

mức lãi suất cho tiền gửi VNĐ lại cao hơn tiền gửi ngoại tệ nên dân cư ưa
thích gửi tiết kiệm bằng VNĐ hơn.
SGD-NHĐT&PTVN cũng tìm nhiều cách để khuyến khích cư dân gửi tiền
vào Ngân hàng mình như việc sử dụng các hình thức tiết kiệm dự thưởng,
tiết kiệm bậc thang, đa dạng hóa kì hạn tiền gửi tiết kiệm, ưu tiên về lãi suất
cho vay hay rút tiền trước hạn …
Phát hành giấy tờ có giá ( kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi)
SGD là đơn vị dẫn đầu trong toàn hệ thống đối với các hoạt động liên quan
đến phát hành các loại giấy tờ có giá bao gồm kỳ phiếu, trái phiếu và chứng
chỉ tiền gửi.
Tuy nhiên, theo số liệu 3 năm trở lại đây thì hoạt động huy động vốn từ kì
phiếu, trái phiếu cũng như chứng chỉ tiền gửi lại có xu hướng giảm, nếu năm
2005, số lượng vốn huy động được theo hình thức này đạt được khoảng 881


tỷ đồng thì đến năm 2006 chỉ cịn 501 tỷ đồng ( giảm 43%), cho đến năm
2007 thì chỉ thu được 164 tỷ đồng từ phát hành giấy tờ có giá (giảm 337 tỷ
đồng).
Biểu đồ 2.2 : Cơ cấu huy động vốn thơng qua phát hành giấy tờ có giá.
Huy động từ kỳ phiếu cũng như trái phiếu và CCTG đều có sự biến động
giảm dần, trong các năm 2006 và 2007, tỷ trọng của nguồn vốn thu được từ
việc phát hành kì phiếu là giảm so với tổng nguồn vốn huy động từ phát
hành giấy tờ có giá.
SGD đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm tăng cường huy động tiền gửi trong
dân cư như việc mở rộng mạng lưới các phòng giao dịch, đưa ra lãi suất hấp
dẫn hơn so với tiết kiệm thông thường cùng kỳ hạn, cho phép thanh toán
trước hạn vẫn được hưởng mức lãi suất tuỳ thuộc vào thời gian thực gửi,
được phép sử dụng để cầm cố, kĩ quỹ bảo lãnh để vay vốn … Tuy nhiên,
vốn huy động từ dân cư (bao gồm cả tiền gửi tiết kiệm và phát hành giấy tờ
có giá) khơng những khơng đạt được tăng trưởng mà cịn có xu hướng giảm

qua các năm. Ngun nhân của tình trạng này có thể giải thích là do chỉ số
giá tiêu dùng trong năm 2007 là quá cao, trung bình cả năm là khoảng 8.3%,
người dân e ngại việc gửi tiền vào ngân hàng, muốn giữ tiền để đề phòng
mất giá và chi tiêu. Bên cạnh đó sự phát triển của thị trường bất động sản, thị
trường chứng khoán, thị trường vàng … đã thu hút một lượng vốn lớn từ dân
cư. Hơn nữa việc ổn định ban đầu sau khi tách chi nhánh, chuyển giao khách
hàng dân cư và quỹ tiết kiệm cũng phần nào gây trở ngại cho Sở trong việc
huy động vốn từ dân cư.
Huy động vốn khác


Chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng,
năm 2005 đạt 113 tỷ đồng nhưng trong 2 năm 2006 và 2007 chỉ dừng ở con
số 35 tỷ đồng.
2.3. Đánh giá công tác huy động vốn tại SGD-NHĐT&PTVN
2.3.1. Kết quả đạt được.
Với nhiều hình thức huy động vốn đa dạng, linh hoạt, hấp dẫn, phù hợp với
nhu cầu của khách hàng gửi tiền và hệ thống công nghệ hiện đại, nguồn vốn
huy động của SGD liên tục tăng trưởng. Số dư huy động tiền gửi của SGD
có xu hướng tăng qua các năm, đặc biệt có sự tăng trưởng rõ rệt trong 3 năm
gần đây, tổng số dư huy động năm 2006 tăng 33,6% so với năm 2005 và
năm 2007 tăng 34,7% so với năm 2006.
Về cơ cấu nguồn vốn huy động của SGD, tuy có sự sụt giảm trong khối
lượng tiền gửi huy động từ dân cư nhưng vẫn có thể nhận thấy rõ sự tăng
mạnh trong khối tiền gửi huy động từ các tổ chức kinh tế (TCKT), trong 2
năm 2006 và 2007, lượng tiền huy động được từ các TCKT đều tăng trên
60% mỗi năm, tính đến cuối năm 2007, lượng vốn huy động được từ phía
các TCKT đã lên tới 11.821 tỷ đồng.
Huy động VND hiện chiếm khoảng 85% tổng nguồn vốn, huy động trung dài
hạn ổn định ở mức khoảng 44% . Sở giao dịch đã cải thiện cơ bản tỷ trọng

tiền gửi thanh tốn trong tổng nguồn vốn, góp phần giảm chi phí huy động,
tăng hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
Cùng với sự tăng trưởng về số lượng vốn huy động, số lượng khách hàng
cũng ngày càng gia tăng. Ngồi việc duy trì mối quan hệ lâu dài bền vững
với các khách hàng truyền thống, Sở giao dịch đẩy mạnh cơng tác tìm kiếm
khách hàng mới thơng qua việc nâng cao uy tín, chất lượng dịch vụ, mở rộng
mạng lưới chi nhánh, hiện đại hóa ngân hàng.


Như vậy, công tác nguồn vốn tại SGD vẫn tiếp tục giữ vững được số dư huy
động cao và có tăng trưởng, đảm bảo thực hiện kế hoạch kinh doanh được
giao. Cơ cấu nguồn vốn nói chung tương đối ổn định, tỷ trọng huy động vố
trung và dài hạn tăng đáp ứng được nhu cầu cho vay và đầu tư.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan đã được phân tích trên, vẫn cịn
một số hạn chế trong cơng tác huy động vốn của Sở.

2.3.2. Hạn chế.
Tốc độ tăng trưởng huy động vốn là khá đồng đều xét về mặt tổng thể, tuy
nhiên cơ cấu huy động lại có những biến động chưa hợp lý. Cụ thể, trong khi
nguồn vốn huy động trung và dài hạn có xu hướng giảm cịn nguồn vốn ngắn
hạn tăng, trong khi đó nhu cầu tín dụng trung và dài hạn lại rất lớn. Nếu xem
xét kĩ có thể nhận thấy phần lớn nguồn vốn huy động được sử dụng để tài trợ
cho các dự án trung và dài hạn, do đó sự gia tăng quá lớn của nguồn vốn
ngắn hạn sẽ ảnh hưởng tới khả năng cho vay của Ngân hàng.
Thực tế cho thấy hoạt động huy động vốn từ dân cư của Sở là chưa hoàn
toàn hiệu quả, dường như đang trên đà giảm sút. Mạng lưới hoạt động trên
địa bàn Hà Nội vẫn cịn ít so với hệ thống các Ngân hàng khác như Ngân
hàng Nông Nghiệp và phát triển nông thông Việt Nam, Ngân hàng Công
thương Việt Nam và nhiều ngân hàng thương mại cổ phần khác. Nguồn vốn
huy động từ dân cư giảm mặc dù Sở giao dịch đã nỗ lực trong việc thực thi

các chính sách thu hút khách hàng. Rõ ràng, trong một môi trường như hiện
nay, việc cạnh tranh bằng lãi suất vẫn còn phổ biến, nhưng khi Ngân hàng
Nhà nước đã giới hạn lãi suất trần đối với tiền gửi thì việc sử dụng lãi suất
như một công cụ để thu hút người dân đến với ngân hàng là chưa đủ. Hoạt
động Marketing của Ngân hàng chưa được chú trọng, chưa thực sự trở thành
công cụ hiệu quả để khuyếch trương hình ảnh và các hoạt động của ngân
hàng.


Một điều khác nữa cũng khơng nên bỏ qua đó là trình độ và thái độ của nhân
viên ngân hàng đối với khách hàng khi hướng dẫn các dịch vụ cũng ảnh
hưởng đến việc khách hàng có quyết định kí hợp đồng với ngân hàng hay
không.
2.3.3. Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ quan:


Các hình thức huy động vốn cịn nghèo nàn đơn điệu, tuy Sở giao dịch
không ngừng nghiên cứu, phát triển các sản phẩm tiền gửi ngắn hạn và dài
hạn nhưng các sản phẩm vẫn chưa thực sự thể hiện rõ các tính năng nổi trội
về tiện ích , chưa nói đến việc so sánh trên thị trường quốc tế, ngay cả so với
một số Ngân hàng nội địa như Ngân hàng Ngoại thương Vietcombank, Ngân
hàng Kỹ thương Techcombank, Ngân hàng Á Châu ACB cũng khó mà cạnh
tranh nổi. Mặc dù khơng thể phủ nhận BIDV có thế mạnh rất lớn về hoạt
động tín dụng đặc biệt là với rất nhiều tổ chức kinh tế lớn trên thị trường
nhưng nếu không huy động được nguồn vốn lâu dài và hiệu quả, BIDV nói
chung và Sở giao dịch nói riêng sẽ khó đạt được mục tiêu kinh doanh đã đề
ra.




Lãi suất huy động vốn cịn chưa hợp lý, khơng những khơng có sự chênh
lệch đáng kể so với các Ngân hàng thương mại nhà nước khác mà còn thấp
hơn so với nhiều ngân hàng thương mại cổ phần. Chính sách lãi suất của Sở
giao dịch còn chưa linh hoạt, chưa bám sát kịp thời với những thay đổi của
thị trường, chủ yếu phụ thuộc và mức lãi suất do Hội sở chính đưa ra.



Cơng nghệ ngân hàng cịn chưa xứng với tiềm năng và quy mô hoạt động
của ngân hàng.Việc tập hợp, khai thác sử dụng và bác cáo số liệu còn gặp
nhiều khó khăn. Cơng nghệ thơng tin lạc hậu dẫn đến việc tiếp nhận và quản
lý thơng tin cịn chậm chạp, lúng túng trong xử lý, ảnh hưởng đến kết quả
kinh doanh. Hoạt động thanh toán cũng chưa thực sự mạnh, chưa thực sự
thuận tiện và nhanh chóng như nhu cầu của khách hàng.




Thái độ của nhân viên còn nhiều điểm chưa tốt. Rất nhiều khách hàng phàn
nàn về thái độ kém niềm nở và thân thiện của nhân viên giao dịch với khách
hàng. Có thể nhiều nhân viên cịn chưa nhận thức rằng ngân hàng là một
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và cần đến khách hàng chứ không phải khách
hàng cần thiết phải đến với ngân hàng. Trong điều kiện khách hàng có rất
nhiều lựa chọn, các ngân hàng thương mại cổ phần thậm chí coi khách hàng
là thượng đế, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng cho dù có thể ảnh
hưởng chút ít đến lợi ích của mình, thì giữ thái độ phục vụ như thế có lẽ là
không phù hợp với khách hàng. Cán bộ ngân hàng nhất là các cán bộ có trình
độ nghiệp vụ cịn thiếu nhiều.




Hoạt động Marketing chưa chuyên nghiệp và hiệu quả. Hoạt động nghiên
cứu thị trường trước khi đưa ra sản phẩm mới là hồn tồn khơng có hoặc
tiến hành rất sơ sài. Các sản phẩm đưa ra do đó đơn điệu và khơng có nét
mới so với sản phẩm của các Ngân hàng khác.



Chi phí huy động vốn cịn lớn, đặc biệt là trong các khâu quản lý và tiến
hành các thủ tục, do đó hạn chế trong việc nâng lãi suất huy động để cạnh
tranh thu hút khách hàng.
Nguyên nhân khách quan.



Thị trường tài chính trong vài năm trở lại đây cũng có những diễn biến tương
đối phức tạp. Sự phát triển của thị trường bất động sản và thị trường chứng
khoán trong nước đã thu hút một lượng vốn lớn. Bên cạnh đó, do CPI tăng
nhanh dẫn đến lãi suất cũng tăng cao. Cuối năm 2007, nhu cầu sử dụng vốn
của nền kinh tế tăng cao, các ngân hàng không thể đáp ứng hết, dẫn đến cuộc
chạy đua lãi suất của các ngân hàng, đẩy lãi suất lên rất cao, buộc Ngân hàng
nhà nước phải đưa ra trần lãi suất huy động ở mức 12% để ngăn cuộc chạy
đua lãi suất này. Hơn nữa, thị trường liên ngân hàng còn chưa thực sự hiệu
quả, dẫn đến hậu quả là các ngân hàng khó huy động được lượng vốn ngắn
hạn trên thị trường này.





Áp lực cạnh tranh: Thời điểm hiện nay, sự gia nhập thị trường của các ngân
hàng nước ngồi uy tín lớn, có kinh nghiệm, có tiềm lực về vốn cũng như
cơng nghệ, sự phục hồi và phát triển nhanh chóng của 1 loạt các ngân hàng
thương mại cổ phần về mạng lưới và lĩnh vực hoạt động đạt hiệu quả cao,
các tổng cơng ty và tập đồn lớn đang tiến hàng phát hành trái phiếu, cổ
phiếu là những yếu tố ảnh hưởng nhiều đến hoạt động huy động vốn của Sở
giao dịch.



×