Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phần thứ nhất DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.25 KB, 13 trang )

Phần thứ nhất DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ
SẢN PHẨM
CỦA DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP TRONG
CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
I-/ CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm về thị trường.
Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản
xuất hàng hoá. Từ khi xuất hiện thị trường đến nay, nền sản xuất hàng hoá đã
phát triển và trải qua nhiều thế kỉ. Nên khái niệm về thị trường được hiểu theo
nhiều cách.
Thị trường theo cách cổ điển: là nơi diễn ra các quá trình trao đổi và buôn
bán.Trong thuật ngữ kinh tế hiện đạI, thị trường còn bapo gồm cả các hội chợ,
cũng như các địa dư hoặc các khu vực tiêu thụ, theo mặt hàng hoặc ngành
hàng.
Thị trường theo quan điểm kinh tế: là lĩnh vực trao đổi mua bán mà ở đó
các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hoá, dịch vụ và
thị phần.
Theo quan điểm của Marketing: Thị trường là tổng hợp nhu cầu hoặc tập
hợp nhu cầu về một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó, là nơi diễn ra các hành vi
mua bán, trao đổi bằng tiền tệ.
Như vậy thị trường có thể ở bất kì chỗ nào, khi có một hoặc nhiều người
mua, người bán trở lên. Thị trường là một phạm trù riêng của nến sản xuất hàng
hoá.Hoạt động cơ bản của thị trường được thể hiện qua ba nhân tố có mối quan
hệ hữu cơ mật thiết với nhau: nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ, cung ứng hàng
hoá và dịch vụ, giá cả hàng hoá và dịch vụ. Qua thị trường chúng ta có thể xác
định được mối quan hệ giữa cung và cầu về hàng hoá dịch vụ, Hiểu được phạm
vi và qui mô của việc thực hiện cung cầu dưới hình thức mua bán hàng hoá dịch
vụ trên thị trường. Thấy rõ thị trường còn là nơi kiểm nghiệm giá trị của hàng
hoá dịch vụ và ngược lại hàng hoá dịch vụ phải đáp ứng được nhu câù của thị
trường ( thị trường chấp nhận ). Do vậy các yếu tố liên quan đến hàng hoá dịch
vụ đều phải tham gia vào thị trường.Với nội dung trên, điều quan tâm của doanh


nghiệp ( DN) là phải tìm ra thị trường, tìm ra nhu cầu và khả năng tính toán của
hàng hoá dịch vụ mà nhà sản xuất định cung ứng.Ngược lại đối với người tiêu
dùng họ lại phải quan tâm đến việc so sánh những sản phẩm mà nhà sản xuất
cung ứng ra trên thị trường có thoả mãn với nhu cầu và khả năng thanh toán của
họ đến đâu.
2. Chức năng và vai trò của thị trường.
2.1 Chức năng của thị trường:
Thị trường được coi là một phạm trù trung tâm, thị trường có vai trò cực
kì quan trọng trong việc điều tiết và lưu thông hàng hoá. Thị trường tồn tại
khách quan, từng DN chỉ có thể hoạt động khi nó thích ứng với một thị trường
mỗi DN trên cơ sở nhận biết nhu cầu của thị trường, xã hội cũng như thế mạnh
của mình trong sản xuất kinh doanh để có chiến lược, kế hoạch và phương án
kinh doanh phù hợp với sự đòi hỏi của thị trường và xã hội.
Thị trường có những chức năng sau:
a, Chức năng thừa nhận của thị trường: nó được thể hiện ở chỗ hàng hoá
hay dịch vụ của DN có bán được hay không. Nếu bán được có nghĩa là thị
trường chấp nhận. Hàng hoá, dịch vụ được thị trường thừa nhận có nghĩa là
người mua chấp nhận và quá trình tái sản xuất của DN được thực hiện. Thị
trường thừa nhận khối lượng hàng hoá và dịch vụ đưa ra thị trường tức là thừa
nhận giá trị sử dụng của hàng hoá dịch vụ đó.
b, Chức năng thực hiện của thị trường: nó được thể hiện ở chỗ thị trường là
nơi diễn ra các hành vi mua bán hàng hoá dịchvụ. Người bán cần giá trị của
hàng hoá, còn người mua lại cần giá trị dụngcủa hàng hoá đó, nhưng theo trình
tự thì việc thực hiện về giá trị chỉ xảy ra khi nào thực hiện được giá trị sử dụng.
c, Chức năng điều tiết và kích thích của thị trường:
Chức năng điều tiết: thông qua nhu cầu thị trường người sản xuất sẽ chủ
động di chuyển hàng hoá, tiền vốn, vật tư... từ lĩnh vực này, thị trường này sang
lĩnh vực và thị trường khác nhằm đem lại lợi nhuận cao hơn. Chính vì vậy
người sản xuất sẽ củng cố địa vị của DN mình trong sản xuất kinh doanh nhằm
nâng cao sức mạnh của DN trong cạnh tranh.

Chức năng kích thích: thể hiện ở chỗ thị trường chỉ chấp nhận những hàng
hoá dịch vụ với những chi phí sản xuất lưu thông dưới hoặc bằng với mức trung
bình, nhằm khuyến khích các DN ra sức giảm chi phí sản xuất để hạ giá thành
sản phẩm. Ngày nay cuộc cạnh tranh bằng giá cả và chất lượng đang là cuộc
chạy đua không ngừng giữa các nhà sản xuất và cung ứng.
d, Chức năng thông tin của thị trường: thị trường chỉ ra cho người ssản
xuất biết họ nên sản xuất cái gì với khối lượng bao nhiêu, bán ở đâu,vào thời
điểm nào và với giá là bao nhiêu là thích hợp nhất và có lợi nhất. Thị trường
cũng chỉ cho người tiêu dùng nên mua những gì và ở đâu là phù hợp và tin
tưởng nhất.
Chức năng này rất quan trọng nó chứa đựng những thông tin về: tổng số
cung, tổng số cầu, cơ cấu của cung và cầu, quan hệ giữa chúng đối với từng
loại.hàng hoá dịch vụ, chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, các điều kiệnb
tìm kiếm hàng hoá dịch vụ.
2.2 Vai trò của thị trường đối sự phát triển của DN
Thị trường giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá. ở nước ta,
trong điều kiện hiện nay “ thị trường vừa là mục tiêu, vừa là căn cứ của kế
hoạch hoá “. Đối với các DN, thị trường là bộ phận chủ yếu trong môi trường
kinh tế, xã hội. Hoạt động hướng ra bên ngoài của các DN dược tiến hành trong
môi môi trường phức tạp, bao gồm nhiều bộ phận khác nhau như: môi trường
dân cư, môi trường chính trị, môi trường văn hoá, thể chế chính trị, môi trường
công nghệ. Thị trường chính là nơi hình thành và thực hiện các mối quan hệ
kinh tế giữa DN với môi trường bên ngoài. Thị trường như một cầu nối nhờ đó
mà DN mới thực hiện được các mối quan hệ với dân cư, với các đơn vị kinh tế
khác, vơí hệ thống kinh tế quốc dâncũng như các bộ phận, các tổ chức khác của
xã hội.
Thị trường còn đảm bảo các hoạt động bình thường của quá trình sản xuất
và tái sản xuất của DN. Trao đổi là một khâu quan trọng và phức tạp của quá
trình tái sản xuất diễn ra trên thị trường. Hoạt động của các DN trên thị trường
tốt giúp cho việc trao đổi hàng hoá dịch vụ được tiến hành nhanh chóng, đều

đặn, làm cho quá trình tái sản xuất được tiến hành tốt hơn.
Ngược lại khi thị trường không ổn định, hoạt động trao đổi bị trì trệ hoặc
không thực hiện được sẽ ảnh hưởng xấu đến sản xuất và tái sản xuất của
DN.
3. Các đặc trưng của cơ chế thị trường :
Cơ chế thị trường được hình thành với sự tác động tổng hợp của của các
qui luật sản xuất và lưu thông hàng hoá trên thị trường. Đó là các qui luật giá trị,
qui luật cung - cầu, qui luật giá trị giá trị thặng dư, qui luật cạnh tranh, qui luật
tỉ suất lợi nhuận bình quân, qui luật lưu thông tiền tệ... các qui luật này tạo
thành hệ thống qui luật thống nhất và hệ thống này tạo ra cơ ché thị trường.
Cơ chế thị trường có những nét đặc trưng sau:
+ Thị trường vừa được coi là yếu tố quyết định của quá trình tái sản xuất
hàng hoá dịch vụ, vừa được coi là mục tiêu, khâu kết thúc của quá trình tái sản
xuất.
+ Thị trường điều tiết nền kinh tế xã hội thông qua việc đáp ứng các nhu
cầu của thị trường và xã hội về hàng hoá dịch vụ, do đó sản xuất được khuyến
khích, tiêu dùng có sự chỉ dẫn.
+ Lợi nhuận tối đa được coi là động lực, còn cạnh tranh là phương thức
hoạt động của thị trường. Sự điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh trong
cơ chế thị trường dưới tác động của qui luật của kinh tế đã mang lại những đóng
góp tích cực, do đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, thúc đẩy sự tiến bộ của
khoa học kĩ thuật. Tuy nhiên cần phải thấy rằng sự điều tiết tự động của thị
trường diễn ra khi mọi hiện tượng kinh tế đã bộc lộ, nên chính cơ chế thị
trường đã dẫn đến những hậu quả và sự lãng phí cho xã hội. Để khấc phục
những nhược điểm, một mặt phải triệt để những mặt tích cực của nó, mặt khác
phải sử dụng các đòn bảy kinh tế và những chế định pháp luật trong tay nhà
nước để can thiệp vào thị trường nhằm đảm bảo lợi ích cho ngươì tiêu dùng thúc
đẩy sản xuất phát triển.
+ Trong cơ chế thị trường thì thị trường giữ vai trò quan trọng, thị trường
là sự sống còn của các DN, nhiệm vụ của các DN trong cơ chế thị trường đó là:

Sản xuất phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường, các DN phải tìm mọi cách
để duy trì và mở rộng thị trường thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm,
đổi mới mặt hàng, đổi mơí phương thức bán hàng, phương thức thanh toán...
có như vậy mơí tạo điều kiện cho các DN tăng trưởng và phát triển trong cơ chế
thị trường.
4. Nghiên cứu thị trường:
Đây là một việc làm hết sức quan trọng ; nó bao hàm cả việc phân tích,
đánh giá về thị trường như: Phân tích và đánh giá về đối thủ cạnh tranh, sức
mạnh, vị thế của đối thủ từ đó có những kế sách thích hợp để ứng phó. Với các
DN mới tham gia vào thị trường hoặc đã tham gia, bây giờ muốn tung ra thị
trường loại sản phẩm mới thì cần phải có thông tin để phân tích thị trường xem
có thể bán loại hàng hoá mình sắp đưa ra hay không, nếu có thể thì bán được
bao nhiêu, ở mức giá nào, có vấp phải sự cạnh tranh của hàng hoá cùng loại hay
hàng hoá thay thế không.
Cũng qua nghiên cứu thị trường mà DN sẽ xác định được đâu là thị trường
chính, đâu là thị trường tiềm năng. Và loại sản phẩm của DN mình và thế mạnh
của DN trên thương trường.
Việc nghiên cứu thị trường không thể không biết đến các qui luật của cơ
chế thị trường. Các qui luật này là không thể phá vỡ:
Qui luật giá trị: Là qui luật cơ bản của nền sản xuất hàng hoá, căn cứ vào
đó mà hàng hoá được trao đổi theo số lượng lao động xã hội cần thiết để hao phí
sản,xuất ra hàng hoá. Qui luật này kích thích các nhà sản xuất phải chú ý tới hao
phí lao động cần thiết và ra sức giảm hao phí lao động cá biệt xuống càng thấp
càng tốt. Qui luật này còn điều tiết sự phân phối lao động xã hội và tư liệu sản
xuất giữa các ngành thông qua cơ cấu giá cả thị trường.
Qui luật cung- cầu: Biểu hiện quan hệ kinh tế lớn nhất của thị trường.
Cầu là một lượng mặt hàng mà người mua muốn mua tại mỗi mức giá.
Nừu các yếu tố khác giữ nguyên, khi giá càng thấp thì lư ợng câpù càng lớn và
ngược lại.
Cung là lượng của một mặt hàng mà người bán muốn bán ở mỗi mức giá.

Nừu các yếu tố khác giữ nguyên khi giá càng cao thì cung càng nhiều.
Với người mua ( lượng cầu ) họ chỉ châp nhận mua khi thực sự cần thiết
hoặc khi giá cả của loại hàng hoá đó phù hợp với khả năng thanh toán.
Với người bán thì số tiền thu được từ việc bán sản phẩm hàng hoá phải bù
đắp được chi phí đã bỏ ra và cộng thêm khoản lợi nhuận.
Với một mức giá không thay đổi thì khi người mua không còn mua thêm
nữa đó là sản lượng cân bằng của sản phẩm nếu nhiều hơn số đó tứcc là cung
thừa, ngược lại sẽ là cầu về hàng hoá đó thiếu. Do vậy các DN muốn tung ra thị
trường loại hàng hoá gì với giá cả và khối lượng bao nhiêu cần phải nghiên cứu
thị trường này thật kĩ về mặt cung cầu.
Qui luật cạnh tranh: là cơ chế vận động của thị trường, có thể nói “ thị
trường là vũ đàI của cạnh tranh”, “Thương trường là chiến trường ”, là nơi gặp
gỡ của các đối thủ cạnh tranh. Có ba loại cạnh tranh: cạnh tranh giữa người
bán với người mua, cạnh tranh giữa người bán với người bán, cạnh tranh giữa
người mua với người mua.
Cạnh tranh giữa người bán với người mua là cuộc cạnh tranh diễn ra theo
xu hướng muốn mua rẻ - bán đắt. Sự cạnh tranh này được thực hiện trong quá
trình mặc cả và cuối cùng giá cả được hình thành hành động tiến hành mua bán
do thoả thuận của hai bên.
Sự cạnh tranh giữa người mua với nhau là sự cạnh tranh trên cơ sở qui luật
cung cầu. Khi loại hàng hoá, dịch vụ nào đó có cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh
tranh này trở nên gay gắt. Và kết quả giá cả loại mặt hàng, dịch vụ đó tăng lên.
Vậy là người mua tự làm hại mình.
Cạnh tranh giữa người bán với nhau là cuộc cạnh tranh chính trên thị
trường, là cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất. Là cạnh tranh giữa các nhà sản xuất
nhằm dành điều kiên sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có lợi hơn. Sản xuất hàng
hoá càng phát triển, số lượng hàng hoá cung ứng ra trên thị trường ngày càng
nhiều thì cạnh tranh ngày một quyết liệt. Một điều tất yếu đã xảy ra “ ăn ra làm
nên” vì thắng thế trong cạnh tranh, những người khác bị đẩy xuống tình trạng
thua lỗ hoặc phá sản.

×