Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

KHÁI NIỆM HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.88 KB, 29 trang )

KHÁI NIỆM HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
A. KHÁI NIỆM HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
I. Khái niệm
Theo điều 571 Bộ Luật dân sự Việt Nam 1996 thì hợp đồng bảo hiểm được
định nghĩa là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng
phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được
bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm hiểu theo
nghĩa chủ quan đó là một quan hệ xã hội được hình thành từ sự thoả thuận của
các bên. Nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên kia
chấp nhận cũng không thể hình thành một quan hệ hợp đồng được. Do đó, chỉ
khi nào có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên thì hợp đồng bảo hiểm
mới hình thành. Cơ sở đầu tiên để hình thành hợp đồng bảo hiểm là việc thoả
thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên. Tuy nhiên hợp đồng đó chỉ có hiệu lực
pháp luật (chỉ được pháp luật công nhận và bảo vệ) khi ý chí của các bên phù
hợp với ý chí của Nhà nước. Các bên được tự do thoả thuận để thiết lập hợp
đồng, nhưng sự “tự do” ấy phải được đặt trong giới hạn bởi lợi ích của người
khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng.
Thông thường trong hợp đồng bảo hiểm có hai bên tham gia: bên bảo hiểm
và bên tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm) cũng là bên được bảo hiểm. Còn
trường hợp khác có ba bên tham gia khi hợp đồng được kí kết vì lợi ích của
người thứ ba. Khi đó có bên bảo hiểm - bên tham gia bảo hiểm (bên mua bảo
hiểm) - người thứ ba (bên được bảo hiểm). Người thứ ba có các quyền và nghĩa
vụ của người được bảo hiểm, trừ nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm. Hợp đồng bảo
hiểm gồm bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc.
Với hợp đồng bảo hiểm tự nguyện, các bên tự do thoả thuận về các điều
kiện bảo hiểm và mức phí bảo hiểm. Có thể nói đây là loại hình bảo hiểm mà ý
chí của các bên có quyền định đoạt cao. Còn đối với hợp đồng bảo hiểm bắt
buộc, các điều kiện bảo hiểm và mức phí bảo hiểm do pháp luật qui định.
II. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm


1. Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng có phát sinh nghĩa vụ có điều kiện
Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng phát sinh hay chấm dứt hậu quả pháp
lý phụ thuộc vào sự kiện là điều kiện của hợp đồng. Khi sự kiện đó xảy ra thì
hợp đồng phát sinh hay chấm dứt hiệu lực. Sự kiện được coi là điều kiện của
hợp đồng do các bên thoả thuận khi xác lập hợp đồng. Nó phải là sự kiện có thể
xảy ra nhưng không chắc chắn phải xảy ra trong tương lai. Điều kiện làm phát
sinh hay chấm dứt hợp đồng phải hợp pháp. Có hai loại hợp đồng có điều kiện:
loại thứ nhất là hợp đồng có điều kiện phát sinh là hợp đồng đã được xác lập
nhưng chỉ phát sinh hiệu lực thật sự khi có sự kiện được coi là điều kiện xảy ra.
Hay nói cách khác hợp đồng đã được kí kết nhưng chưa thực hiện mới hoặc chỉ
có một bên phải thực hiện, nếu xuất hiện điều kiện mà các bên thoả thuận thì
hợp đồng mới bắt đầu được thực hiện hoặc bên chưa phải thực hiện nghĩa vụ sẽ
phải thực hiện, nếu trong thời hạn của hợp đồng mà không xuất hiện điều kiện
thì hợp đồng đương nhiên chấm dứt. Loại thứ hai là hợp đồng có điều kiện huỷ
bỏ. Ở đây hợp đồng đã được xác lập và phát sinh hiệu lực, đang được thực hiện
nhưng khi có sự kiện là điều kiện xảy ra thì hợp đồng bị đình chỉ hiệu lực, các
quyền và nghĩa vụ của các bên chấm dứt. Hợp đồng bảo hiểm thuộc loại thứ
nhất, có nghĩa là chỉ khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra gây thiệt hại cho đối tượng
bảo hiểm thì hợp đồng mới được thực hiện.
Do đó, hợp đồng bảo hiểm có thời điểm hiệu lực có sự khác biệt so với các
hợp đồng dân sự thông thường khác ở chỗ nó có hiệu lực từ khi được kí kết
nhưng chỉ có ý nghĩa về mặt hình thức vì mới chỉ có bên mua bảo hiểm phải
thực hiện hợp đồng. Mà hiệu lực này chỉ có ý nghĩa rằng hợp đồng đã được xác
lập và các bên đều sẽ phải có trách nhiệm với hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm
còn có thời điểm hiệu lực khác mang ý nghĩa thực tế của việc thực hiện hợp
đồng. Đó chính là thời điểm mà xuất hiện sự kiện bảo hiểm và lúc này người
bảo hiểm bắt đầu có trách nhiệm vật chất đối với người được bảo hiểm.
2. Hợp đồng bảo hiểm cũng có thể được coi là hợp đồng có lợi cho người
thứ ba.
Không phải hợp đồng bảo hiểm lúc nào cũng có lợi cho người thứ ba mà

chỉ khi hợp đồng có ba bên liên quan đến hợp đồng: bên bảo hiểm - bên mua
bảo hiểm - bên thứ ba (bên được bảo hiểm). Ở đây việc kí kết hợp đồng chỉ diễn
ra giữa hai bên: bên bảo hiểm và bên mua bảo hiểm và việc kí kết chỉ ra rằng
khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm thì người
thứ ba sẽ là người được bảo hiểm chứ không phải là bên mua bảo hiểm. Bên
mua bảo hiểm tham gia bảo hiểm không phải vì lợi ích của mình mà vì lợi ích
của người khác (người thứ ba). Ví dụ: với loại hình bảo hiểm tiền gửi, tổ chức
tín dụng là bên tham gia bảo hiểm, kí kết hợp đồng bảo hiểm với bên bảo hiểm
để bảo hiểm cho số tiền gửi của khách hàng tại tổ chức mình. Khi có sự kiện
bảo hiểm thì người được bảo hiểm chính là các khách hàng của tổ chức tín dụng
đó.
Người được bảo hiểm thường có mối quan hệ với bên mua bảo hiểm chính
vì vậy mà họ được người mua bảo hiểm tham gia bảo hiểm vì lợi ích của mình.
Nhưng giữa người được bảo hiểm và bên bảo hiểm lại gần như không có mối
quan hệ nào hoặc là có nhưng rất ít. Quan hệ giữa họ với bên bảo hiểm thường
bắt đầu khi bên bảo hiểm thực hiện trách nhiệm vật chất và kết thúc khi bảo
hiểm thanh toán bồi thường xong cho người được bảo hiểm.
B. CHỦ THỂ CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
Đối với hợp đồng dân sự chủ thể của hợp đồng là những “người” tham gia
vào quan hệ hợp đồng đó. Phạm vi “người” tham gia vào hợp đồng bao gồm: cá
nhân (công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch), pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và trong trường hợp đặc biệt là Nhà nước.
Hợp đồng bảo hiểm gồm có hai chủ thể là bên bảo hiểm và người tham gia
bảo hiểm (người mua bảo hiểm) cũng đồng thời là người được bảo hiểm. Trong
trường hợp hợp đồng được kí kết vì lợi ích của người thứ ba thì có ba bên tham
gia hợp đồng là: bên bảo hiểm - người tham gia bảo hiểm (người mua bảo hiểm)
và người thứ ba (người được bảo hiểm).
I. Bên bảo hiểm
Bên bảo hiểm là tổ chức tham gia hợp đồng bảo hiểm thu phí bảo hiểm
đồng thời chịu trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm khi có sự kiện

bảo hiểm xảy ra gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm.
Sự phát triển của bảo hiểm ở Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay gắn chặt
với sự lớn mạnh của công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Từ trước cho đến
năm 1993 Bảo Việt được biết đến là bên bảo hiểm duy nhất, là người độc quyền
về kinh doanh bảo hiểm. Công ty bảo hiểm Việt Nam - tiền thân của Tổng công
ty bảo hiểm Việt Nam ngày nay ra đời ngày 17 tháng 12 năm 1964 và chính
thức đi vào hoạt động ngày 15/1/1965. Ngày đầu Bảo Việt có trụ sở chính tại Hà
Nội và một chi nhánh ở Hải Phòng. Công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực
bảo hiểm hàng hoá xuất - nhập khẩu, bảo hiểm tàu biển, làm đại lý giám định và
xét bồi thường cho các công ty bảo hiểm nước ngoài về hàng hoá xuất - nhập
khẩu.
Từ năm 1975, Bảo Việt bắt đầu mở rộng phạm vi hoạt động xuất các tỉnh,
thành phố phía Nam.
Trong những năm 80, Bảo Việt chính thức có mạng lưới cung cấp dịch vụ
trên khắp cả nước, triển khai các nghiệp vụ mới. Đây cũng là thời kì Bảo Việt
bắt đầu cung cấp dịch vụ bảo hiểm hành khách và bảo hiểm trách nhiệm dân sự
cho chủ xe cơ giới. Năm 1982, Bảo Việt triển khai thí điểm bảo hiểm cây lúa,
đáp ứng cả yêu cầu kinh tế và nhiệm vụ chính trị.
Cuối năm 1988 cơ cấu tổ chức của Bảo Việt gồm một văn phòng công ty
với 12 phòng chức năng, 12 chi nhánh bảo hiểm địa phương. Đầu năm 1989,
theo Quyết định của Bộ Tài chính, công ty bảo hiểm Việt Nam được đổi thành
Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam như ngày nay theo Nghị định số 195/HĐBT
ngày 15/10/1989. Cơ cấu ngành cũng thay đổi: các cơ quan đại diện của Bảo
Việt tại các tỉnh chuyển thành các công ty bảo hiểm tỉnh, Bảo Việt được Nhà
nước xếp loại “Doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt”, trở thành một trong 25
doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam.
Hiện tại, Bảo Việt có 92 đơn vị thành viên, trong đó có 29 công ty bảo
hiểm nhân thọ, 61 công ty bảo hiểm phi nhân thọ, 1 trung tâm đào tạo, 1 đại lý ở
Anh quốc và có gần 300 phòng bảo hiểm khu vực. Bảo Việt có số vốn nhiều gấp
hơn hai lần tổng số vốn của tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm khác ở Việt Nam

cộng lại, số quĩ dự phòng bảo hiểm trên 1.600 tỷ đồng, với số nhân viên chiếm
khoảng 70% tổng số lao động toàn ngành. Bảo Việt luôn là doanh nghiệp dẫn
đầu thị trường, với thị phần toàn quốc hiện tại là 66,9%.
Trong giai đoạn hiện nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã khá phát triển
với sự đa dạng về các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Đó là
điều tất yếu của nền kinh tế thị trường, xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, nó tạo
ra môi trường khuyến khích và cởi mở đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các
vấn đề hỗ trợ đào tạo và chuyển giao công nghệ cũng như việc tiếp thu kinh
nghiệm quản lý của nước ngoài đang là đòi hỏi đối với sự phát triển của bảo
hiểm Việt Nam. Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật tạo nên cơ
chế pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Ngày 18/12/1993 Chính phủ
ban hành Nghị định 100/CP, văn bản này đánh dấu cho sự ra đời một thị trường
bảo hiểm hoạt động theo cơ chế thị trường, thay cho sự độc quyền của Bảo Việt
là sự cạnh tranh gay gắt giữa nhiều chủ thể.
Các chủ thể được phép tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo Nghị
định này bao gồm:
- Các doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ
phần, công ty bảo hiểm tương hỗ, công ty liên doanh bảo hiểm, chi nhánh của tổ
chức bảo hiểm nước ngoài, công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài hoạt động
trên lãnh thổ Việt Nam.
- Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) là doanh nghiệp Nhà
nước, có tư cách pháp nhân, có chức năng chuyên kinh doanh tái bảo hiểm.
- Tổ chức môi giới bảo hiểm.
- Đại lý bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức môi giới bảo hiểm muốn tiến hành hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, phải được Bộ Tài chính cấp giấy chứng nhận đủ tiêu
chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Thống kê về các công ty bảo hiểm tại Việt Nam:
- Từ 1965 đến hết 1993, Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất tại
Việt Nam.

- Năm 1995 công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh và công ty tái bảo
hiểm quốc gia được thành lập, thị trường bảo hiểm Việt Nam bắt đầu có cạnh
tranh.
- Từ 1996-1998 có thêm 7 công ty bảo hiểm và môi giới khác được thành
lập, trong đó có 3 công ty liên doanh bảo hiểm với nước ngoài.
- Năm 1999, Việt Nam chính thức mở cửa thị trường bảo hiểm cho các
công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Đã có 5 công
ty bảo hiểm mới được thành lập trong đó có 3 công ty 100% vốn nước ngoài, 2
công ty liên doanh.
- Đến hết tháng 6 năm 2000, có tất cả 16 doanh nghiệp bảo hiểm tại thị
trường Việt Nam (trong đó có 5 công ty hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân
thọ (trong đó Bảo Việt hoạt động trong cả hai lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và
bảo hiểm phi nhân thọ), 1 công ty tái bảo hiểm, 1 công ty môi giới và 10 công ty
bảo hiểm phi nhân thọ):
+ 4 doanh nghiệp Nhà nước: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt),
công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh), công ty bảo hiểm dầu
khí (PVIC) và công ty tái bảo hiểm quốc gia (VINARE).
+ 4 công ty cổ phần trong nước: công ty cổ phần bảo hiểm Nhà nước (Bảo
Long), công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), công ty bảo hiểm cổ
phần liên hiệp (VIC), công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI).
+ 4 công ty liên doanh với nước ngoài: công ty liên doanh bảo hiểm quốc
tế Việt Nam (V.I.A), công ty tư vấn dịch vụ bảo hiểm A
0
N - INCHINBROK
(AIB), công ty liên doanh bảo hiểm Việt - Úc (BIDV - QBE), công ty liên doanh
bảo hiểm Bảo Minh - CMG.
+ 4 công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài mới được thành lập là: Alliauz
- AGF (bảo hiểm phi nhân thọ), Chinfon - Munulife (bảo hiểm nhân thọ) và
Prudential (bảo hiểm nhân thọ), AIA (bảo hiểm nhân thọ).
II. Người tham gia bảo hiểm

Người tham gia bảo hiểm là các tổ chức và cá nhân mua bảo hiểm do có
nhu cầu bảo hiểm hoặc có nghĩa vụ tham gia bảo hiểm theo qui định của pháp
luật, là người trực tiếp ký kết hợp đồng bảo hiểm với bên bảo hiểm nhằm đảm
bảo sự an toàn cho các đối tượng là tài sản, tính mạng, sức khoẻ của mình hay
của người khác.
Trong xã hội có nhiều loại hình tổ chức như: doanh nghiệp, cơ quan Nhà
nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị,... tất cả các tổ chức này
đều có thể trở thành chủ thể tham gia bảo hiểm mà không phụ thuộc họ có tư
cách pháp nhân hay không, là tổ chức trong nước hay tổ chức nước ngoài.
Đối với cá nhân để trở thành một bên chủ thể của hợp đồng bảo hiểm thì
phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự và phải thoả mãn các điều
kiện được qui định trong từng chế độ bảo hiểm cụ thể. Cá nhân là chủ thể giao
kết hợp đồng bảo hiểm có thể là người Việt Nam hoặc người nước ngoài.
Đối với hợp đồng mà người tham gia bảo hiểm kí kết nhằm bảo vệ lợi ích
của bản thân thì người tham gia bảo hiểm cũng đồng thời là người được bảo
hiểm, còn đối với hợp đồng được kí kết vì lợi ích của người thứ ba thì người
được bảo hiểm là người thứ ba.
III. Người thứ ba trong hợp đồng bảo hiểm
Khái niệm người thứ ba trong hợp đồng bảo hiểm xuất hiện khi hợp đồng
bảo hiểm được kí kết vì lợi ích của người thứ ba.
Người thứ ba trong hợp đồng bảo hiểm là người vì lợi ích, quyền lợi của
người đó khiến người tham gia bảo hiểm kí kết hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng tạo ra hai mối quan hệ pháp lý: thứ nhất giữa người tham gia
bảo hiểm và bên bảo hiểm, thứ hai giữa bên bảo hiểm và người thứ ba.
Giao kết hợp đồng bảo hiểm vì lợi ích của người thứ ba phải đáp ứng một
số điều kiện khi thì liên quan đến các bên giao kết, khi thì liên quan đến người
thứ ba.
Trước hết, giữa các bên giao kết phải có một hợp đồng, trong đó bên tham
gia bảo hiểm đã chuyển tất cả các quyền lợi của mình do hợp đồng mang lại cho
người thứ ba.

Đối với người thứ ba có hai vấn đề đặt ra:
- Có thể giao kết cho một người không xác định được không? Trường hợp
này có thể được chấp nhận với điều kiện là người thứ ba hưởng lợi phải có thể
xác định được vào ngày mà sự thực hiện hợp đồng có hiệu lực đối với họ. Vậy
điều trở ngại cho sự hữu hiệu của việc giao kết hợp đồng bảo hiểm vì lợi ích của
người thứ ba không phải là người thứ ba không được xác định trong hiện tại mà
vì người đó không thể xác định trong tương lai, hay nói cách khác đi không bao
giờ có thể xác định được. Ví dụ: một tổ chức xuất khẩu hàng hoá đem bảo hiểm
hàng hoá gửi đi cho một thương gia, nhưng thay vì ghi người được bảo hiểm là
thương gia nọ, tổ chức này lại ghi rằng người được bảo hiểm là chủ sở hữu cuối
cùng của hàng hoá với mục đích là để đề phòng khi hàng hoá bị mất hay hư hao
dọc đường thì người mua lại hàng hoá đó có thể được hưởng tiền bồi thường
của hãng bảo hiểm.
- Có thể thực hiện hợp đồng cho một người chưa sinh ra đời không?
Sự giao kết cho một người thứ bao tương lai phải coi là sự hữu hiệu nhưng
hiệu lực của sự giao kết bị đình chỉ cho tới khi người thứ ba ra đời. Trong hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ người ta có thể giao kết vì quyền lợi của con cháu đã
sinh hay sắp sinh ra.
C. SỰ KIỆN BẢO HIỂM
Bên bảo hiểm chỉ phải thực hiện hợp đồng bảo hiểm tức là thực hiện trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm.
Sự kiện bảo hiểm có thể hiểu là những rủi ro gây ra tổn thất thiệt hại cho đối
tượng được bảo hiểm đã được các bên kí kết hợp đồng bảo hiểm thoả thuận.
Điều 575 Luật dân sự định nghĩa: Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan
do các bên thoả thuận hoặc pháp luật qui định mà khi có sự kiện đó xảy ra thì
bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm.
I. Rủi ro bảo hiểm.
Rủi ro là khả năng có thể gây ra hư hỏng, thiệt hại hoặc huỷ hoại cho đối
tượng được bảo hiểm. Rủi ro được bảo hiểm có thể do thiên tai hoặc do con
người gây ra và rủi ro đó phải có khả năng gây ra thiệt hại. Các bên tham gia

hợp đồng bảo hiểm bao giờ cũng đặc biệt quan tâm đến thoả thuận về sự kiện
bảo hiểm trong đó có rủi ro được bảo hiểm vì nó có ý nghĩa quyết định cho vấn
đề có bồi thường hay không bồi thường. Quá trình lịch sử phát triển của bảo
hiểm đã ngày càng hoàn thiện những nguyên tắc của hoạt động bảo hiểm trong
đó việc xác định những rủi ro được bảo hiểm cho từng nghiệp vụ bảo hiểm có ý
nghĩa rất quan trọng vì nó phải làm sao bảo đảm lợi ích của khách hàng mà lại
đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của bên bảo hiểm. Xin được nêu ra một số
nguyên tắc bảo hiểm mà được coi là nền tảng của hoạt động bảo hiểm:
- Nguyên tắc bảo hiểm đối với rủi ro khách quan: theo nguyên tắc này, chỉ
những rủi ro tham gia bảo hiểm mới có thể được bảo hiểm. Những rủi ro do
người được bảo hiểm cố ý gây ra không thuộc sự kiện bảo hiểm vì rõ ràng hành
vi cố ý đó là một sự gây thiệt hại cho xã hội không đúng với mục đích, ý nghĩa
của bảo hiểm. Đây là một nguyên tắc mà nghiệp vụ bảo hiểm nào cũng ghi
nhận. Điều 5 khoản 1 - Qui tắc bảo hiểm tai nạn con người (ban hành kèm theo
Quyết định số 391/TCBH ngày 20/9/1991) qui định: “Hành động cố ý tự gây ra
tai nạn của người được bảo hiểm hoặc của người thừa kế hợp pháp đều không
thuộc phạm vi bảo hiểm”. Và ở Điều 11 - Qui tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự
đối với người thứ ba cũng qui định: “Bảo Việt sẽ không bồi thường cho người
được bảo hiểm các tổn thất liên quan đến hành động cố ý của người được bảo
hiểm hay người đại diện của họ”. Cần hiểu rằng không phải mọi trách nhiệm
đều đổ hết lên công ty bảo hiểm mà người tham gia bảo hiểm cũng phải có trách
nhiệm trong việc không để xảy ra rủi ro hoặc hạn chế hậu quả của rủi ro trong
phạm vi khả năng của mình do đó khi họ cố ý gây ra rủi ro để hưởng bảo hiểm
thì đó là hành vi trục lợi và họ đã không thực hiện trách nhiệm của mình do vậy
mà chính họ phải gánh chịu rủi ro đó.
- Nguyên tắc bảo hiểm đối với rủi ro có tính ngẫu nhiên: điều đó có nghĩa là
những rủi ro được bảo hiểm không phải là những rủi ro xảy ra có tính tất yếu
trên thực tế. Những rủi ro đã biết trước chắc chắn sẽ gây ra thiệt hại không
thuộc sự kiện bảo hiểm vì bảo hiểm chỉ có thể nhận bảo hiểm những rủi ro
mang tính chất bất ngờ không lường trước được. Điều 6 - Qui tắc bảo hiểm thân

tàu và trách nhiệm dân sự chủ tàu đối với tàu thuyền hoạt động trên sông hồ,
vùng nội thuỷ (ban hành kèm theo Quyết định 254/TCQD ngày 25/5/1990 của
Bộ Tài chính) có qui định: “Bảo Việt không chịu trách nhiệm bồi thường nếu tổn
thất xảy ra do nguyên nhân tàu không đủ khả năng hoạt động”.
Trên thực tế nếu rủi ro phát sinh do hành vi của chính người tham gia bảo
hiểm thực hiện thì rủi ro đó phải được xem xét trong mối liên hệ với lỗi và động
cơ của người thực hiện hành vi mới được coi là rủi ro được bảo hiểm. Ví dụ,
trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thì Bảo Việt sẽ
không chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất xảy ra do chủ xe (lái xe) vi
phạm nghiêm trọng điều lệ giao thông đường bộ như: xe không có giấy phép
lưu hành; lái xe không có bằng lái hoặc có bằng lái không hợp lệ; lái xe uống
rượu bia, sử dụng ma tuý hoặc các chất kích thích khác trong khi điều khiển xe;
xe chở chất cháy, chất nổ trái phép; xe chở quá trọng tải hoặc số hành khách qui
định; xe đi vào đường cấm hoặc đi đêm không có đèn (theo qui tắc bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ban hành kèm theo Quyết định
504/TCBH ngày 20/11/1991 của Bộ trưởng Bộ Tài chính). Chỉ trong một số loại
bảo hiểm cá biệt, bên bảo hiểm mới chịu trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho
người được bảo hiểm khi rủi ro do chính hành vi của họ gây ra với lỗi cố ý.
Điều này được qui định rõ trong từng hợp đồng bảo hiểm cụ thể, căn cứ vào đặc
điểm của loại bảo hiểm đó, đặc điểm của đối tượng bảo hiểm. Ví dụ: theo chế
độ bảo hiểm nhân thọ thời hạn 5 năm và 10 năm thì đối với trường hợp người
được bảo hiểm chết do tự tử, nhiễm vi rút HIV, nếu hợp đồng bảo hiểm đã có
hiệu lực từ 2 năm trở lên thì bên bảo hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm theo mức qui
định.
Sự kiện bảo hiểm là một yếu tố không thể thiếu của hợp đồng bảo hiểm và
do tính chất quan trọng của nó mà các công ty bảo hiểm thường xây dựng các
qui tắc bảo hiểm cho từng nghiệp vụ bảo hiểm trong đó có hai vấn đề then chốt
là phạm vi bảo hiểm và các điểm loại trừ bảo hiểm. Các khách hàng cũng có thể
thoả thuận cùng doanh nghiệp bảo hiểm về những điểm riêng biệt để đáp ứng
nhu cầu đa dạng của mình.

Phạm vi của bảo hiểm chính là những sự kiện được bên bảo hiểm chấp
nhận bảo hiểm. Bên bảo hiểm chỉ chấp nhận bảo hiểm khi và chỉ khi rủi ro xảy
ra đó thuộc phạm vi bảo hiểm. Hay nói đúng hơn là có sự lựa chọn nguyên nhân
dẫn đến rủi ro. Không phải mọi nguyên nhân gây ra rủi ro đều được bảo hiểm
mà chỉ một số nguyên nhân nhất định mà gây ra rủi ro mới được bên bảo hiểm
bồi thường. Ví dụ phạm vi bảo hiểm trong bảo hiểm tai nạn con người là những
trường hợp người được bảo hiểm bị chết hay thương tật do tai nạn bất ngờ hoặc
do có hành vi cứu người, tài sản của Nhà nước, của cá nhân hoặc tham gia
chống các hành động phạm pháp. Trong bảo hiểm hoả hoạn bên bảo hiểm chỉ
chịu trách nhiệm bồi thường nếu tài sản được bảo hiểm bị hư hỏng hoặc huỷ
hoại do bị cháy. Nếu do những nguyên nhân khác thì bảo hiểm sẽ không chịu
trách nhiệm.
Các điểm loại trừ bảo hiểm (hay còn gọi là những sự kiện không thuộc sự
kiện bảo hiểm) cũng được qui định cụ thể trong hợp đồng bảo hiểm nhằm làm
rõ ràng hơn ranh giới trách nhiệm của bên bảo hiểm và để giúp khách hàng hiểu
rõ được phạm vi quyền lợi của mình. Nó sẽ chỉ ra những thiệt hại, những
nguyên nhân, những lĩnh vực hoạt động, những vùng địa lý,... mà công ty bảo
hiểm không nhận bảo hiểm. Bởi lẽ những điều này trước hết để đảm bảo an toàn
cho hoạt động quá lớn vượt quá khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm, hay
những nguyên nhân mà làm mất đi nguyên tắc bảo hiểm khách quan, ngẫu
nhiên,... Bên cạnh đó nó còn có mục đích nhằm hạn chế bớt những rủi ro tương
đối rộng có thể xảy ra cho đối tượng bảo hiểm từ đó mà giữ được phí bảo hiểm
ở mức hợp lý. Bởi lẽ công ty bảo hiểm khi đưa ra mức phí bảo hiểm bao giờ
cũng phải tính toán trên cơ sở xác suất xảy ra rủi ro. Nếu rủi ro càng cao thì phí
bảo hiểm càng lớn và khi đó sẽ có rất ít người chịu được mức phí cao như vậy.
Những điểm loại trừ làm giảm khả năng xảy ra rủi ro nên tất nhiên phí bảo hiểm
cũng được giảm xuống. Trong các hợp đồng bảo hiểm, những rủi ro xảy ra do
các nguyên nhân chiến tranh, bạo loạn thường được liệt vào những điểm loại trừ
vì những rủi ro này có tính chất thảm hoạ tàn khốc và hậu quả rất lớn mà một
mình công ty bảo hiểm không thể gánh chịu (riêng đối với bảo hiểm hàng hải có

ngoại lệ là các rủi ro trên có thể trở thành rủi ro được bảo hiểm nếu người tham
gia bảo hiểm có thoả thuận bảo hiểm thêm những rủi ro này).
II. Tổn thất
Nhìn chung những rủi ro khi xảy ra đều gây tổn thất nhưng cũng có khi rủi
ro lại không dẫn đến tổn thất. Sự kiện bảo hiểm là những rủi ro gây tổn thất cho
đối tượng bảo hiểm. Hơn nữa, tổn thất đó phải là hậu quả của rủi ro, rủi ro là
nguyên nhân chính, trực tiếp của tổn thất.
Tổn thất có thể hiểu là những thiệt hại, sự biến đổi theo chiều hướng tiêu
cực của đối tượng bảo hiểm. Một tổn thất khi muốn được bảo hiểm thì phải thoả
mãn những điều kiện chính: sự thiệt hại phải chắc chắn, phải chưa được bồi
thường và phải là hậu quả trực tiếp của các rủi ro được bảo hiểm.
Sự thiệt hại phải chắc chắn: điều đó không có nghĩa là bắt buộc thiệt hại đó
phải đã xảy ra, một sự thiệt hại tương lai cũng có tính chắc chắn nếu nhất định
sẽ xảy ra và có thể ước lượng được. Trái lại một sự thiệt hại không chắc chắn sẽ
xảy ra hoặc chỉ có tính cách giả định thì không thể được bồi thường. Ví dụ một
người kí hợp đồng bảo hiểm để bảo hiểm tính mạng của mình, khi người này bị
tai nạn nhưng không chết ngay mà theo kết quả giám định do công ty bảo hiểm
tiến hành thì sau một tháng nữa người đó chắc chắn sẽ chết. Trường hợp này
thiệt hại (tính mạng) chưa xảy ra nhưng cũng chắc chắn và như vậy phải được
bồi thường.
Sự thiệt hại phải chưa được bồi thường hoặc bồi thường chưa đủ. Có ba
loại bảo hiểm là bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm con người và bảo hiểm tài sản.
Đối với bảo hiểm trách nhiệm, dĩ nhiên nạn nhân đã được công ty bảo hiểm bồi
thường thì không thể kiện người gây ra tai nạn để đòi bồi thường thêm một lần
thứ hai, vì khi bồi thường cho nạn nhân, công ty bảo hiểm đã đại diện cho người
gây ra tai nạn. Hoặc khi người gây ra tai nạn đã bồi thường đầy đủ cho nạn nhân
thì nạn nhân cũng không có quyền đòi công ty bảo hiểm bồi thường nữa.
Sự thiệt hại phải là hậu quả trực tiếp của rủi ro được bảo hiểm. Nếu thiệt
hại là do những nguyên nhân khác thì cũng không được bảo hiểm. Ví dụ: một
chủ tàu bảo hiểm cho tàu của mình, khi đi trên biển gặp bão và tàu bị đắm

nhưng thiệt hại này không phải do bão gây ra mà là do tàu đã quá cũ không còn
khả năng đi biển do vậy sẽ không được bồi thường.
Việc tính toán mức tổn thất đều phải dựa vào giá trị thiệt hại thực tế của tai
nạn, tổn thất. Trong một số hợp đồng bảo hiểm tài sản, đặc biệt là bảo hiểm
hàng hải người ta còn phân biệt tổn thất chung, tổn thất riêng, tổn thất toàn bộ,
tổn thất bộ phận. Việc phân biệt này có ý nghĩa trong giải quyết bồi thường khi
có sự kiện bảo hiểm xảy ra.
- Căn cứ vào qui mô và mức độ tổn thất: tổn thất được chia thành tổn thất
toàn bộ và tổn thất bộ phận.
+ Tổn thất bộ phận: là việc hàng hoá bị mất mát hoặc giảm giá trị và giá trị
sử dụng ở một mức độ nhất định. Các trường hợp hàng hoá bị mất mát thì dễ
xác định giá trị tổn thất còn sẽ rất khó xác định chính xác đối với hàng hoá bị
giảm giá trị và giá trị sử dụng. Cũng cần phân biệt tổn thất bộ phận với sự hao
hụt tự nhiên của hàng hoá. Có nhiều hàng hoá có đặc tính bị hao hụt một cách tự
nhiên. Ví dụ: xăng có thể bị bay hơi, muối có thể bị chảy nước,... đó hoàn toàn
là do đặc tính tự nhiên của hàng hoá không phải là rủi ro và do đó không được
tính số hao hụt tự nhiên vào tổng số tổn thất để đòi bảo hiểm bồi thường. Các
bên khi bảo hiểm hàng hoá có hao hụt tự nhiên thường thoả thuận khấu trừ theo
một tỷ lệ nào đó để loại trừ hao hụt tự nhiên ra khỏi tổn thất được bồi thường.
+ Tổn thất toàn bộ: là hàng hoá bị mất hết hoặc bị phá huỷ hoàn toàn làm
cho mất hẳn giá trị sử dụng. Tổn thất ở đây là mức độ lớn nhất không có khả
năng khôi phục lại. Tổn thất toàn bộ khác tổn thất toàn bộ ước tính. Tổn thất
toàn bộ ước tính là dạng tổn thất không thể tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực tế
hay vì chi phí cứu hàng, tu bổ lại hàng hoá, tài sản có thể vượt quá giá trị bảo
hiểm (giá trị của tài sản, hàng hoá đó). Trong trường hợp xác định tổn thất toàn
bộ ước tính thì chủ hàng (người được bảo hiểm) có quyền tuyên bố từ bỏ hàng
để được bồi thường như tổn thất toàn bộ. Người bảo hiểm phải bồi thường toàn
bộ giá trị tài sản, hàng hoá đồng thời được quyền sở hữu hàng hoá đó.
- Căn cứ vào các quyền lợi có mặt: có hai loại là tổn thất riêng và tổn thất
chung.

+ Tổn thất riêng: là tổn thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ ngẫu nhiên gây ra
chỉ liên quan đến từng quyền lợi bảo hiểm riêng biệt. Tổn thất riêng chỉ gây ra
thiệt hại cho quyền lợi của một vài chủ hàng, chủ tài sản trong số rất nhiều chủ
hàng, chủ tài sản. Tổn thất riêng có thể là tổn thất bộ phận, có thể là tổn thất
toàn bộ. Tổn thất riêng rơi vào chủ hàng nào thì chủ hàng đó phải gánh chịu.
Tổn thất riêng có thể được bảo hiểm hoặc không được bảo hiểm tuỳ thuộc vào
điều kiện bảo hiểm.
+ Tổn thất chung là những tổn thất về tài sản vật chất và những chi phí
phát sinh do hành động bảo vệ lợi ích chung của con người trong những tình
huống, điều kiện cấp bách để cứu tàu và hàng hoá. Tổn thất chung được phân bổ
cho tất cả các quyền lợi có mặt cùng gánh chịu bao gồm thiệt hại về vật chất và
các chi phí có liên quan.
Các yếu tố xác định tổn thất chung:
• Tình huống phải đặc biệt cấp bách, có nguy cơ thực sự đe doạ chuyến
hàng.

×