Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

NHỮNG VẪN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.28 KB, 29 trang )

NHỮNG VẪN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ
HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về NHTM
1.1.1. Khái niệm NHTM
NHTM xuất hiện từ rất lâu đời trên thế giới, bắt nguồn từ nhu cầu gửi tiền
của các nhà buôn và khả năng bảo quản tiền của những người thợ vàng. Những
nhà buôn giàu có với gia sản khổng lồ thường tích trữ của cải bằng vàng và gửi
gắm ở những người thợ vàng, đồng thời những người kinh doanh nhỏ lẻ lại rất
cần tiền để kinh doanh buôn bán. Bên cạnh những người thợ vàng nhanh nhạy,
một số nhà quý tộc khác cũng nhận ra tính vô danh của tiền, có thể dùng tiền
gửi của người này để cho vay lấy lãi đối với người khác, sau đó đến hạn thanh
toán cho người gửi sẽ thu hồi tiền trở lại. Từ đó những người thợ vàng trở nên
giàu có, và hình thức đầu tiên của NHTM đã ra đời.
Ngày nay, với sự phát triển chóng mặt của nền kinh tế thế giới, hệ thống
NHTM ngày càng đóng vai trò quan trọng. Mạng lưới NHTM không chỉ nằm
trong lãnh thổ nội địa, mà còn mở rộng ra khu vực và quốc tế, phục vụ nhu cầu
xuất nhập khẩu và giao thương giữa các nước. NHTM là thành phần không thể
thiếu trong mọi hoạt động kinh doanh của mỗi quốc gia.
Về định nghĩa NHTM, đã có nhiều quan điểm cũng như định nghĩa khác
nhau, nhưng nhìn chung đều xem xét NHTM với vai trò là một trung gian tài
chính trong nền kinh tế thị trường.
Tại Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 định nghĩa NHTM là
một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động
khác có liên quan. Luật này còn định nghĩa TCTD là loại hình doanh nghiệp
được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật
để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền
gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Theo định nghĩa trên, TCTD bao gồm các NHTM và các tổ chức tín dụng
phi ngân hàng. Tuy nhiên NHTM khác với các TCTD phi ngân hàng ở chỗ,
NHTM được thực hiện toàn bô hoạt động ngân hàng, là tổ chức nhận tiền gửi và


thực hiện các hoạt động thanh toán. Còn các TCTD phi ngân hàng chỉ được
thực hiện một số hoạt động ngân hàng, không được phép nhận tiền gửi cũng
như không cung cấp các dịch vụ thanh toán.
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM đóng vai trò là một trung gian tài
chính, làm nhiệm vụ điều phối lại nguồn vốn trên thị trường nhằm đáp ứng nhu
cầu tiết kiệm và đầu tư của xã hội. Với sự tham gia của NHTM, nền kinh tế trở
nên sôi động hơn, tiết kiệm được thời gian và chi phí, kích thích tăng trưởng và
đầu tư.
Xét trên phương diện là một tổ chức pháp nhân, NHTM cũng hoạt động
như một doanh nghiệp và chịu sự điều chỉnh của các Bộ luật ngoài ngành như
Luật Dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật Đầu tư.,…và bao gồm nhiều loại hình
khác nhau phù hợp với nhu cầu đa dạng của xã hội.
Căn cứ vào hình thức sở hữu có thể chia NHTM thành các loại hình như
sau: Ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần , ngân
hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước
ngoài. Cùng với quá trình mở cửa hội nhập, các NHTM cổ phần ngày càng đóng
vai trò chủ đạo, thúc đẩy cạnh tranh trong toàn bộ hệ thống ngân hàng nói
chung và nền kinh tế nói riêng.
Ngoài ra, người ta có thể phân loại NHTM dựa vào tính chất hoạt động
kinh doanh. Theo tiêu thức này các NHTM bao gồm NH bán buôn, NH bán lẻ,
NH vừa bán buôn vừa bán lẻ…Cùng với sự tham gia của các loại hình NHTM
khác nhau, người tiêu dùng ngày càng có nhiều lựa chọn nhằm tối đa hóa lợi ích
và đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường.
1.1.2. Các hoạt động của NHTM
Xét trên phương diện là một doanh nghiệp, NHTM thực hiện các hoạt
động cơ bản về vốn, hoạt động đầu tư và kinh doanh với mục tiêu nâng cao giá
trị tài sản chủ doanh nghiệp. Như trên đã nêu, NHTM thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan.
Luật các tổ chức tín dụng 1997 cũng nêu ra các hoạt động của NHTM
bao gồm hoạt động huy động vốn, hoạt động cấp tín dụng, hoạt động dịch vụ,

thanh toán và ngân quỹ.
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động cơ bản và thường xuyên nhất của NHTM
nhằm thu hút nguồn vốn phục vụ kinh doanh, giúp cho hoạt động kinh doanh
diễn ra trôi chảy và bảo đảm khả năng thanh toán của ngân hàng.
Vốn huy động chiếm phần lớn trong tổng nguồn vốn và tài trợ cho các
hoạt động chủ yếu của NHTM. NHTM được phép huy động tiền gửi rộng rãi từ
các tổ chức, cá nhân và các TCTD khác dưới hình thức tiền gửi có kì hạn, tiền
gửi không kì hạn và các loại tiền gửi khác. NHTM còn sử dụng các công cụ như
phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá để huy động vốn từ các
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra, NHTM còn có thể vay vốn từ
các TCTD, các NHTM khác, hoặc vay từ NHNN.
Trong hoạt động huy động vốn, NHTM luôn chú trọng xây dựng cơ cấu
vốn hợp lí. Cơ cấu vốn có thể được phân tích dựa trên các tiêu chí theo kì hạn,
theo đối tượng khách hàng,…Việc xem xét cơ cấu vốn dựa trên nhiều tiêu chí
khác nhau cho phép ngân hàng đánh giá toàn diện thực trạng nguồn vốn của
NH. Cơ cấu vốn linh hoạt và hợp lí là mục tiêu các NHTM luôn hướng tới.
Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu tín dụng đa dạng, NHTM có thể huy động
vốn với nhiều thời hạn khác nhau, nhiều đối tượng khách hàng khác nhau với
bảng biểu lãi suất phù hợp. Do đó cơ cấu vốn ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí
vốn, phản ánh việc NH huy động vốn hiệu quả hay không, ảnh hưởng trực tiếp
tới kết quả hoạt động kinh doanh của NH. Vì vậy bên cạnh hoạt động huy động
vốn thì hoạt động quản lý nguồn vốn luôn được các NHTM chú trọng.
Bên cạnh quản lí nguồn vốn và xây dựng một cơ cấu vốn với chi phí hợp
lí, NHTM còn chú trọng phát triển các công cụ nợ, tăng thêm tính đa dạng nhằm
hấp dẫn người gửi tiền, giúp NH chủ động trong việc huy động vốn, bảo đảm
hoạt động kinh doanh.
1.1.2.2. Hoạt động cấp tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động lâu đời nhất và quan trọng nhất của
NHTM. Hoạt động tín dụng đem lại nguồn thu chủ yếu cho NH nhưng đồng

thời cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển
nhượng sử dụng vốn từ NH cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với
một khoản chi phí nhất định. NHTM được cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân
dưới các hình thức cho vay, bảo lãnh, chiết khấu giấy tờ có giá, cho thuê tài
chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN như bao thanh toán, tài
trợ nhập khẩu, tài trợ xuất khẩu, ….Tuy nhiên hoạt động cho vay là cơ bản và
chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau có thể chia hoạt động tín dụng của NH
thành nhiều loại. Thông thường người ta phân loại tín dụng dựa trên tiêu chí
thời hạn cấp tín dụng, theo đó các loại tín dụng bao gồm tín dụng ngắn hạn,
trung và dài hạn. Theo mục đích sử dụng của người đi vay, tín dụng lại được
chia thành cho vay tiêu dùng, cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương
nghiệp, cho vay sản xuất nông nghiệp, cho vay mua bất động sản, cho vay kinh
doanh xuất nhập khẩu…Ngoài ra còn có thể phân loại tín dụng dựa trên tính
chất về TSĐB, các phương thức hoàn trả nợ vay….Việc phân chia dựa trên các
tiêu thức khác nhau giúp NH thuận tiện trong việc quản lý tín dụng và định
hướng phát triển cho mỗi thời kì.
Thông thường khoản mục tín dụng chiếm khoảng 70 % tổng tài sản. Do
đó việc điều chỉnh tỷ trọng tín dụng liên quan tới mọi chiến lược của NH như
dự trữ, cho vay, đầu tư…Các NHTM thường thiên về tín dụng ngắn hạn, bởi
nghiệp vụ này ít rủi ro và đảm bảo tính thanh khoản cho NH. Bên cạnh đó
NHTM thường mở rộng quy mô tín dụng, đẩy mạnh cho vay, gia tăng lợi nhuận
kinh doanh bằng việc đổi mới công nghệ, tích cực tiếp thị tới khách hàng. Tuy
vậy, hoạt động tín dụng luôn chứa đựng nhiều rủi ro, vì vậy công tác phòng
ngừa rủi ro luôn được NH đặc biệt chú trọng
Hoạt động cấp tín dụng của NH là một quá trình bao gồm nhiều bước,
trong đó NH và KH phải làm việc thường xuyên với nhau vào trước, trong và
sau khi đã cấp tín dụng. Việc quản lý và thực hiện mỗi giai đoạn cấp tín dụng
ảnh hưởng trực tiếp kết quả kinh doanh của NH. Vì vậy để hạn chế rủi ro, các
NHTM luôn chú trọng hoàn thiện quy trình tín dụng và chính sách tín dụng.

1.1.2.3. Hoạt động dịch vụ, thanh toán và ngân quỹ
Để đáp ứng nhu cầu lưu chuyển tiền tệ trong nước và quốc tế, các NHTM
còn thực hiện chức năng thanh toán. Hoạt động thanh toán bao gồm thanh toán
giữa NH với khách hàng và giữa các NHTM với nhau thông qua NHNN.
Các NHTM được phép mở tài khoản cho khách hàng, thực hiện các thanh
toán của khách hàng thông qua việc điều chỉnh số dư tài khoản. Hoạt động dịch
vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM bao gồm các hoạt động cung cấp dịch vụ
thanh toán, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng, các
dịch vụ thu hộ và chi hộ, các dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng, đồng
thời NHTM cũng thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế khi NHNN cho phép.
Bên cạnh đó các NHTM được mở tài khoản tại NHNN và tham gia vào hệ
thống thanh toán liên NH trong nước và tham gia hệ thống thanh toán quốc tế
theo quy định của NHNN.
Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM tạo ra sự đa dạng
trong việc phục vụ lợi ích của khách hàng, là động lực nâng cao năng lực canh
tranh giữa các NHTM. Cùng với tốc độ phát triển của nền kinh tế, nhu cầu sử
dụng các dịch vụ NH cũng ngày càng gia tăng và đòi hỏi cao về chất lượng. Do
đó các NHTM luôn chú trọng đảm bảo chất lượng hoạt động dịch vụ thanh toán
và ngân quỹ, giữ gìn uy tín đối với khách hàng. Hệ thống thanh toán giữa các
chi nhánh của NH và giữa các NH trong nước và quốc tế tạo ra sự thông suốt
cho nền kinh tế thị trường, kích thích tốc độ tăng trưởng và đầu tư, đầy mạnh
phát triển kinh tế.
1.2. Hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM
1.2.1. Khái quát hoạt động cho vay của NHTM
Như đã nêu trên, hoạt động cho vay là cơ bản và quan trọng nhất trong
các hoạt động cấp tín dụng của NHTM. Hoạt động cho vay ra đời sớm nhất,
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu nhập của NHTM và quen thuộc nhất với
những người sử dụng vốn vay từ NH. Hoạt động cho vay là hoạt động sinh lời
nhất của ngân hàng, nhưng đồng thời cũng là hoạt động đem lại nhiều rủi ro
nhất. NHTM khi cho khách hàng vay vốn sẽ thu được một khoản lợi nhuận từ

lãi tiền vay mà khách hàng trả. Tuy nhiên, ngân hàng cũng phải đối mặt với
những rủi ro về lãi suất, về thanh khoản, về kỳ hạn… mà nếu không có những
biện pháp quản lý phù hợp, ngân hàng rất có thể sẽ bị phá sản.
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại cho vay sao cho phù hợp với
phương thức quản lí của NHTM. Thông thường có những cách phân loại như
sau:
Sơ đồ 1.1: Phân loại hoạt động cho vay của NHTM
Tiêu chí phân loại hoạt động cho vay
Theo loại khách hàng: Cho vay khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp, khách hàng tổ
chức…
Theo thời hạn vay: Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn
Theo tính chất đảm bảo: Cho vay thế chấp, cầm cố, tín chấp, bảo lãnh của bên thứ 3….
Theo phương pháp cấp tiền vay: Cho vay từng lần, theo hạn mức, luân chuyển, thấu chi….
Theo cách thức trả nợ: Trả một lần cả gốc lẫn lãi, trả lãi và gốc đều nhiều lần trong kỳ, trả lãi
đều, gốc theo thời hạn
Theo tính chất lãi suất: Cho vay lãi suất cố định, lãi suất khả biến, lãi suất linh hoạt….
Theo loại tiền vay: Cho vay bằng nội tệ, ngoại tệ, vàng…
Theo mục đích sử dụng: Cho vay tiêu dùng, cho vay kinh doanh…
Theo số bên tham gia: Cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp thông qua tổ nhóm, thông qua nhà
cung ứng…
(Nguồn: Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, 2006)
Trong các cách phân loại nêu trên, phân loại theo đối tượng khách hàng
tương đối phổ biến tại các NHTM. Trong đó cho vay khách hàng doanh nghiệp
là hoạt động phổ biến, đem lại hiệu quả cao nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn
nhiều rủi ro tín dụng. Đặc biệt hiện nay, với sự gia tăng số lượng và nhu cầu vay
vốn của bộ phận DNVVN, hoạt động cho vay khách hàng DN, đặc biệt là
DNVVN ngày càng được các NHTM đẩy mạnh và xác định là đối tượng KH
tiềm năng.
1.2.2. Cho vay đối với DNVVN của NHTM
1.2.2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của DNVVN

* Khái niệm DNVVN
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” – Theo Luật doanh nghiệp 1999.
Trong Luật này cũng quy định về các loại hình doanh nghiệp bao gồm:
Công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
Đây là cách phân chia dựa trên căn cứ về hình thức sở hữu, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc quản lý hành chính của Nhà nước. Việc thành lập, tổ chức quản lý,
và hoạt động của các loại hình DN này đều được pháp luật quy định rõ.
Để đánh giá mức độ phát triển và tăng cường hỗ trợ cho các DN, người ta
thường chia các loại hình DN dựa theo tiêu thức về quy mô. Theo tiêu thức này,
DN được chia thành DN lớn và DNVVN. Quy mô của DN được đánh giá dựa
trên một hoặc một nhóm tiêu chí như vốn, doanh thu, lao động,…Mỗi quốc gia,
mỗi khu vực có thể lựa chọn một chỉ tiêu hoặc một nhóm các chỉ tiêu khác
nhau, tùy thuộc vào điều kiện, trình độ phát triển và quan điểm riêng của mỗi
nước. Việc đưa ra được tiêu chí xác định phù hợp là rất quan trọng nhằm xây
dựng chính sách hỗ trợ và định hướng phát triển đối với các DN đúng đắn và
hợp lí hơn.
Tại Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ban hành ngày
23/11/2001 quy định DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn kinh doanh không quá 10 tỷ hoặc
số lao động không quá 300 người, bao gồm các DN nhà nước, DN thành lập
theo Luật DN, hợp tác xã, hộ kinh tế cá thể.
Theo khái niệm trên, DNVVN ở Việt Nam là các tổ chức kinh tế kinh
doanh độc lập, được đăng kí kinh doanh tại các cơ quan nhà nước, các DN
thành lập và hoạt động theo Luật DN, các Hợp tác xã thành lập và hoạt động
theo Luật Hợp tác xã, các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/NĐ-
CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. Như vậy, DNVVN
và DN lớn nhìn chung bao gồm các hình thức sở hữu giống nhau, tuy nhiên
khác nhau về quy mô, cụ thể là các chỉ tiêu về lao động và vốn.

Việc đưa ra được tiêu chí đánh giá DNVVN phải dựa trên tình hình thực
tế của đất nước nhằm đánh giá đúng đối tượng, giúp việc hoạch định chính sách
hoàn thiện hơn, kịp thời hỗ trợ hoạt động cho các DN. Đồng thời việc phân loại
hợp lí cũng giúp bản thân DN dễ dàng định hướng phát triển cho mình. Cùng
với quá trình đổi mới của đất nước, mỗi giai đoạn khác nhau có thể căn cứ vào
điều kiện cụ thể để đưa ra tiêu thức xác định DNVVN khác nhau.
* Đặc điểm của DNVVN
DNVVN chiếm đại đa số trong tổng số DN tại các quốc gia và đóng góp
lớn vào việc thực hiện các chính sách về kinh tế-xã hội. Hoạt động của DNVVN
luôn gắn liền với thể chế chính sách và trình độ phát triển của quốc gia đó. Nhìn
chung, các DNVVN ở Việt Nam cũng mang những đặc điểm tương đồng với
DNVVN ở các nước đang phát triển. Những đặc điểm đó là:
Thứ nhất, DNVVN năng động, linh hoạt, dễ thích nghi với sự thay đổi
của thị trường.
Đây là một trong những đặc điểm ưu việt của DNVVN. DNVVN chủ yếu
hoạt động trong các lĩnh vực cung cấp hàng hóa và dịch vụ thiết yếu cho xã hội.
Với mặt hàng phong phú đa dạng, thỏa mãn được nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu
sản xuất kinh doanh của các DN lớn đã giúp cho các DNVVN dễ dàng chiếm
được thị trường. DNVVN luôn phải hướng đến thị hiếu của người tiêu dùng, vì
vậy có thể nói đây là lực lượng phản ánh tín hiệu của thị trường chính xác nhất.
Mặt khác, với số vốn ít, vòng quay vốn của các DNVVN thường là ngắn, các
phương án sản xuất kinh doanh không lâu dài như các DN lớn. Với lợi thế đó,
DNVVN dễ dàng thay đổi quy mô, thay đổi sản phẩm khi có sự thay đổi của thị
trường. So với các DN lớn, DNVVN không gặp nhiều tổn thất khi thị trường
biến động, có thể nói DNVVN là những “thanh giảm xóc” đắc lực cho nền kinh
tế.
Thứ hai, các DNVVN hiện nay đã chú trọng đổi mới công nghệ nhưng
còn tương đối lạc hậu, không đồng bộ và trình độ quản lý còn yếu kém.
Công nghệ tốt giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, sản xuất ra
được các sản phẩm với mức chất lượng phù hợp, đáp ứng được nhu cầu của

người tiêu dùng và giảm bớt chi phí sản xuất, nhờ đó tăng năng lực cạnh tranh.
Ngược lại, công nghệ lạc hậu và chậm đổi mới làm hạn chế khả năng sản xuất,
đa dạng hoá sản phẩm, hạn chế năng suất và sản lượng, chất lượng sản phẩm,
làm tăng chi phí sản xuất, thậm chí ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, đồng
thời làm hạn chế năng lực cạnh tranh của DN.
Đây không chỉ là hạn chế của các DNVVN Việt Nam, mà còn là tình
trạng chung tại các nước đang phát triển. Bản thân DN và Nhà nước đã nhận
thức được tầm quan trọng của việc cải tiến và đổi mới công nghệ, tuy nhiên
chưa đạt hiệu quả cao. Trong những năm gần đây, các DNVVN của Việt Nam
đã tiến hành nhập ngoại nhiều công nghệ hiện đại, nhưng do chưa có nhiều kinh
nghiệm trong việc mua và chuyển giao công nghệ, nên hầu như các máy móc
thiết bị không sử dụng được hoặc sử dụng không đúng năng suất. Thậm chí một
số chủ DN do không có kinh nghiệm nên trở thành nạn nhân của những thương
vụ chuyển giao công nghệ, gây thiệt hài nặng nề cho bản thân DN.
Mặt khác, do chi phí nhập ngoại công nghệ tương đối lớn so với quy mô
vốn nên các DNVVN thường không đủ khả năng để đổi mới một cách đồng bộ.
Nhiều DNVVN đã chọn phương án mỗi kì mua một ít, rồi sau đó mới cải tiến
dần dần. Điều này đã gây ra việc dây chuyền sản xuất không thể khai thác hết
công suất, sản phẩm sản xuất ra không đảm bảo chất lượng, không có sức cạnh
tranh trên thị trường…
Trình độ và năng lực của đội ngũ quản lý DN là một trong những nguyên
nhân chính dẫn đến tình trạng trên. Nhiều chủ DN không nhận thức được tầm
quan trọng của công cuộc đổi mới công nghệ, hoặc nhận thức được nhưng
không đủ nỗ lực và nhạy bén để thực hiện. Qua khảo sát, phần lớn chủ các
DNVVN không được qua các trường lớp đào tạo chính quy, điều này phần nào
hạn chế tầm nhìn chiến lược phát triển lâu dài cho DN. Trình độ và năng lực của
đội ngũ quản lý DNVVN hiện đang là một vấn đề được các nước rất quan tâm
và chú trọng cải thiện.
Thứ ba, DNVVN góp phần giải quyết hiệu quả vấn đề lao động và việc
làm, nhưng phần lớn đội ngũ lao động còn yếu kém.

Khác với các DN và các tập đoàn kinh tế lớn, đội ngũ lao động của
DNVVN có trình độ khá đa dạng. Từ lao động thủ công, lao động có tay nghề
đến lao động có trình độ cao đều có cơ hội làm việc tại các DNVVN, trong đó

×