Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ CÁC BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ TĂNG DTTT TẠI CÔNG TY VẬT TƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.57 KB, 29 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ CÁC BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY
TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ TĂNG DTTT TẠI CÔNG TY VẬT TƯ-
VẬN TẢI- XI MĂNG
3.1. ĐỊNH HƯỚNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN TRONG NĂM 2002 VÀ
NHỮNG NĂM TỚI.
3.1.1.Đặc điểm tình hình tiêu thụ trong những năm tới.
- Về tổng cung xi măng trong cả nước:
Tổng cung xi măng trong những năm tới sẽ có sự gia tăng tương đối
nhanh chóng do hàng loạt các NMXM sẽ lần lượt ra đời có sản phẩm tham
gia vào thị trường trong đó có xi măng liên doanh Nghi Sơn đang phấn đấu
đạt công suất thiết kế vào năm 2002, hơn nữa, TCTXMVN đang có kế hoạch
khẩn trương triển khai đầu tư mới và cải tạo một số NMXM, cụ thể như hoàn
thành xây dựng đưa vào sản xuất NMXM Hải Phòng mới vào năm 2002; có
công suất 1,4 triệu tấn/ năm; hoàn thành công tác cải tạo và hiện đại hoá
dây chuyền số 2 của NMXM Bỉm Sơn, tăng công suất nhà máy này lên 1,8
triệu tấn/ năm.... Như vậy, khối lượng cung ứng xi măng trong những năm
sẽ là rất lớn, ước tính riêng sản lượng xi măng sản xuất trong nước có khả
năng đạt trên 85 triệu tấn( giai đoạn 2002-2005).
- Về tổng cầu xi măng trong cả nước:
Từ năm 2002 đến năm 2005 dự doán nhu cầu xi măng vào khoảng 80-
85 triệu tấn, tăng 50-60% so với thời kỳ 1998-2001. Bình quân mỗi năm nhu
cầu tiêu dùng khoảng 16-17 triệu tấn, riêng năm 2005 là 18-19 triệu tấn.
Giai đoạn 2006-2010, với sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế các
nước trong khu vực đồng thời Việt nam đã thực hiện đầy đủ lộ trình để tham
gia khu vực mậu dịch tự do(AFTA) và dần dần hội nhập quốc tế sẽ tạo đà cho
kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ cao(dự kiến GDP hàng năm của giai
đoạn này vào khoảng 8-10%). Nhu cầu đầu tư và phát triển hạ tầng sẽ kích
thích tiêu thụ xi măng với khối lượng lớn hơn. Dự báo ở mức trung bình thì
1
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhu cầu tiêu thụ xi măng nội địa 2006-2010 có mức tăng hàng năm là 10-
15%/năm.
Như vậy, xét về nhu cầu xi măng trong những năm tới cũng sẽ có sự gia
tăng mạnh. Song xét tương quan giữa tổng cung và tổng cầu trong những
năm tới có thể thấy tổng cung xi măng sẽ lơns hơn tổng cầu xi măng rất
nhiều. Vì vậy, cái khó của ngành xi măng trong giai đoạn này là thị trường
tiêu thụ. Xét về năng lực cạnh tranh trên thị trường thì các doanh nghiệp xi
măng nội địa mà trước hết là các công ty xi măng thuộc TCTXMVN được
đánh giá là yếu kém hơn các NMXM liên doanh về nhiều mặt: vốn, công nghệ,
kỹ thuật, trình độ quản lý và đặc biệt là kinh nghiệm hoạt động thị trường.
Hơn nữa, ngành xi măng sẽ phải đối mặt với sức ép của mặt hàng này từ các
nước láng giềng. Theo lịch trình giảm thuế của Việt Nam để thực hiện AFTA,
xi măng Việt nam được cắt giảm thuế suất từ 15% xuống còn 5% vào năm
2006. Đối với một số nước ASEAN sẽ thực hiện lịch trình giảm thuế này từ
25% xuống 5% vào năm 2003. Như vậy, từ sau năm 2003 các nước trong
khu vực giảm 20% thuế suất mặt hàng xi măng khi hoà nhập vào thị trường
các nước trong khối. Năm 2006 khi tham gia vào thị trường Việt nam có thể
hạ 10% so với trước, theo ước tính khi hoà nhập giá có thể dưới 55USD/tấn
xi măng lò ngang và dưới 44 USD/tấn xi măng lò đứng, đây là mức giá gây
ra nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh của sản phẩm xi măng Việt nam.
Vậy vấn đề đặt ra là: làm thế nào để các doanh nghiệp thuộc TCTXMVN có
thể cạnh tranh được với các công ty xi măng liên doanh được đánh giá là
mạnh hơn rất nhiều. Và bằng cách nào để tạo ra lợi thế cạnh tranh bằng giá
cả của xi măng Việt nam với của các nước trong khu vực? Nếu không có
hướng đi đúng, các doanh nghiệp xi măng của ta sẽ có thể gặp nguy cơ bị thu
hẹp thị phần, thậm chí mất dần tính chủ đạo của một công ty Nhà nước trên
thị trường.
Với tình hình cung cầu trên thị trường xi măng như trên và những khó
khăn mà ngành xi măng nói chung. TCTXMVN nói riêng đang gặp phải thì

Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng - với tư cách là một thành viên trong
TCTXMVN thực hiện chức năng cung ứng vật tư và dich vụ vận tải phục vụ
sản xuất xi măng - khi tham gia vào thị trường cũng phải đương đầu với
những khó khăn nhất định theo tình hình chung đó.
2
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bên cạnh đó, bản thân Công ty cũng còn phải đối mặt với một ssó khăn
khác như:
+ Hiện nay, NMXM đang có xu hướng muốn mua than trực tiếp của các
nhà cung cấp và TCTthan Việt nam cũng đang theo đuổi mục tiêu bán than
trực tiếp cuối nguồn cho các NMXM với giá bán rất cạnh tranh. Bên cạnh đó,
lĩnh vực vận chuyển clinker cũng đang gặp phải bất lợi này. Các NMXM luôn
đặt ra tình huống để tự đảm nhận vận chuyển một phần khối lượng clinker,
và liên tục đề nghị giảm cước vận chuyển.
+ Công ty đang còn chịu tác động mạnh từ phía TCTXMVN do vậy hoạt
động còn nhiều bị động....
Với những vấn đề trên đòi hỏi Công ty phải có định hướng phát triển
phù hợp, đúng hướng để góp phần mang lại hiệu quả hoạt động kinh doanh
cao, đảm bảo lợi nhuận, từ đó để đứng vững và khẳng định vị thế của mình
trong cơ chế thị trường hiện nay.
3.1.2. Định hướng kế hoạch phát triển của Công ty trong năm 2002
và những năm tới.
- Chủ động điều hành để nắm vững thị phần, đảm bảo thị trường các
mặt hàng vật tư đầu vào phục vụ cho các NMXM, kết hợp với những kinh
nghiệm có tính truyền thống và những đòi hỏi của thị trường trong sự diều
tiết của TCTXMVN trên cơ sử các HĐKT đã ký kết với các NMXM.
- Mở rộng thị trường phụ gia phục vụ sản xuất xi măng : Xỉ pyrit, Xỉ Phả
Lại, quặng sắt Quảng Ninh, đá bô xít Lạng Sơn, đá đen Mạo Khê và các loại
phụ gia khác theo yêu cầu của các NMXM kể cả xi măng liên doanh(đã ký kết

được hợp đồng bán Xỉ pyrit cho NMXM Nghi sơn); phấn đấu phục vụ tối đa
nhu cầu phụ gia cho sản xuất xi măng.
- Tiếp tục nhận nhiệm vụ vận chuyển clinker Bắc - Nam, duy trì việc vận
chuyển than, vận chuyển xi măng đi miền Trung theo yêu cầu của các NMXM,
tìm kiếm nguồn hàng vận chuyển của mọi khách hàng khác ngoài TCTXMVN.
- Tăng cường đầu tư cho các đoàn xà lan của Công ty, trước mắt năm
2002 trình TCTXMVN xin đầu tư thêm hai đoàn xà lan để vận hành ngày
càng có hiệu quả hơn. Đề xuất việc liên kết các công ty vận tải biển,
TCTđường sông trong nước để điều hành tham gia vận chuyển clinker nhập
khẩu từ nước ngoài về các NMXM theo định hướng của TCTXMVN.
3
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Tổ chức lại các cơ sử sản xuất công nghiệp. Tuyển Xỉ Phả Lạitiếp tục
sản xuất để tiêu thụ phụ gia cho các NMXM, các công trình xây dựng thuỷ lợi.
Chuẩn bị phương án tiếp nhận vận chuyển nguồn tro bay chất lượng tốt
(không phải tuyển) để cung ứng cho nhu cầu pha phụ gia của các NMXM.
Chuẩn bị cung ứng than cám Quảng Ninh cho NMXM Hà Tiên II sau khi
nhà máy đầu tư cải tiến từ sử dụng dầu sang nhiên liệu than.
- Lập các phương án cung ứng, vận tải đầu vào (than cám, Xỉ pyrit, phụ
gia...) cho NMXM Hoàng Mai (Nghệ An), trước mắt Công ty Vật tư- Vận tải- xi
măng đã chuẩn bị về nguồn hàng, vận tải, bốc dỡ... để thực hiện việc cung
ứng phục vụ sản xuất thử của nhà máy trong năm 2002.
Kế hoạch kinh doanh vật tư của Công ty trong năm 2002 được lập cụ
thể như sau:
Bảng 9 :Kế hoạch kinh doanh vật tư của Công ty năm 2002
Mặt hàng Sản Đơn giá bình Doanh thu
1.Than cám: 580.000
- Bỉm sơn 140.000 417.723 58.481.220
- Hoàng thạch 135.000 355.238 47.957.130

- Hải phòng 78.000 331.429 25.851.426
- Bút sơn 125.000 384.000 48.000.000
- Nghệ an 30.000 397.143 11.214.285
2. Xỉ Lâm thao 17.300 2.539.380
- Bỉm sơn 6.000 100.372 602.232
- Nghi sơn 11.300 171.429 1.937.148
3. Đá bô xít 15.000 186.364 2.795.460
4. Quặng sắt 15.000 101.363 1.520.445
5. Kinh doanh 56.647.338
Tổng 255.066.720
4
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN THÚC ĐẨY TIÊU THỤ HÀNG HOÁ,
DỊCH VỤ VÀ TĂNG DTTT TRONG THƠÌ GIAN TỚI TẠI CÔNG TY
VẬT TƯ- VẬN TẢI - XI MĂNG
Xét đến cùng, mọi doanh nghiệp khi tiến hành mọi hoạt động SXKD đều
nhằm mục tiêu là tăng được doanh thu để thu được lợi nhuận tối đa. Qua
nghiên cứu tình hình tiêu thụ của Công ty Vật tư- Vận tải - Xi măng trong
năm 2001, ta thấy công tác tiêu thụ hàng hoá dich vụ của công ty nhìn chung
tương đối hiệu quả, doanh số tăng mặn ở một số mặt hàng chủ yếu như than
cám, kinh doanh vận chuyển. Qua xem xét cũng thấy được những biện pháp
mà công ty đã áp dụng để góp phần thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá, dich vụ, tăng
DTTT như: đảmm bảo và nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ cung cấp;
đa dạng hoá các hình thức tiêu thụ và phương thức thanh toán; và một số
giải pháp mang tính chất đòn bẩy tài chính, cũng như một số giải pháp tạo
điều kiện để thực hiện khác. Tuy nhiên, bên cạnh những vấn đề làm được đó,
vẫn còn những tồn tại chưa tạo ra sự thúc đẩy tiêu thụ và tăng doanh thu
như: hoạt động nghiên cứu mở rộng thị trường chưa được sâu rộng, quan
tâm triệt để; tính cạnh tranh của hàng hoá, dich vụ cung cấp chưa cao, đặc

biệt là cạnh tranh về giá cả; chưa thực sự chú trong đầu tư, đổi mới để phục
vụ cho công tác tiêu thụ...
Trên cơ sở những định hướng kế hoạch phát triển công ty trong năm
2002 và những năm tới, cũng như xem xét những mặt tồn tại của công ty,
mặc dù thời gian có hạn và kiến thức còn hạn chế nhưng em cũng xin mạnh
dạn đưa ra một số biện pháp góp phần thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ
và tăng doanh thu của công ty như sau:
Thứ nhất: Tăng cường công tác điều tra, nghiên cứu mở rộng thị
trường tiêu thụ.
Nghiên cứu thị trường thực chất là nghiên cứu nơi mà công ty sẽ mua
hoặc bán những sản phẩm, hàng hoá của mình. Đối với việc nghiên cứu thị
trường tiêu thụ, đó là việc xác định khả năng tiêu thụ hay bán một mặt hàng,
một nhóm hàng của công ty, trên cơ sở đó nâng cao được khả năng thích
ứng với thị trường, chỉ kinh doanh và tiêu thụ những mặt hàng mà thị
trường đòi hỏi.
Trong thời gian qua, công tác điều tra ngiên cứu thị trường của Công ty
Vật tư- Vận tải- xi măng tuy có được đề cập đến song thực hiện chưa sâu và
5
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
còn nhiều bị động trong việc tìm kiếm, mở rộng khách hàng tiêu thụ. Thông
tin về khách hàng mới chỉ được thu thập thông qua các đợt đi thanh toán
tiền hàng và thông qua sự phản hồi thông tin từ phía TCTXMVN. Công ty
chưa thực sự chú trọng và chủ động trong vấn đề này.
Với mục tiêu, phương hướng đặt ra trong những năm tới và trong năm
2002 là mở rộng khối lượng cung ứng vật tư phục vụ sản xuất xi măng, phấn
đấu phục vụ tối đa nhu cầu phụ gia cho sản xuất xi măng của các NMXM;
chuẩn bị cung ứng than cám Quảng Ninh cho NMXM Hà Tiên II sau khi nhà
máy này đầu tư cải tiến từ sử dụng dầu sang sử dụng nhiên liệu than. Ngoài
mục tiêu trên thì trong vấn đề mở rộng thị trường, Công ty cũng nên nghiên

cứu có biện pháp để tiến tới cung cấp than cho NMXM Nghi Sơn và tiếp cận
để cung cấp vật tư cho NMXM Hoàng Mai sẽ đi vào hoạt động trong thời gian
sắp tới.
Để thực hiện các mục tiêu trên, trước hết cần thực hiện tốt công tác
điều tra nghiên cứu thị trường mà cụ thể là việc tìm hiểu, thu thập thông
tinvề các đối tượng khách hàng trên. Yêu cầu của công tác này đặt ra là Công
ty phải chủ động điều tra để nắm bắt được các thông tin liên quan đến các
khách hàng. Đối với các khách hàng cũ lâu năm của Công ty, Công ty không
chỉ nắm bắt tình hình khách hàng đơn thuần qua việc nhận các thông tin
phản hồi từ TCTXMVN và báo cáo của các cán bộ đi thu tiền hàng mà cần
phải chủ động thu thập các thông tin về nhu cầu từng loại vật tư của họ để
từ đó có những biên pháp tiếp cận để đáp ứng nhu cầu. Có thể cử cán bộ
chuyên nghiên cứu về thị trường đến tận các nhà máy để nắm bắt, tìm hiểu
cụ thể các thông tin về các nhu cầu này, ngoài ra cũng cần tổ chức các hội
nghị khách hàng để thăm dò ý kiến của các khách hàng về chất lượng, giá
cả... của các loại vật tư, hàng hoá nà Công ty đã cung cấp, từ đó phân tích,
rút ra những điểm đạt được cũng như những điểm chưa đạt được để có
biện pháp, đối sách phù hợp, góp phần giữ vững và mở rông khối lượng tiêu
thụ cho các khách hàng này.
Đối với những khách hàng mà Công ty đang hướng tới như: NMXM Hà
Tiên II, Nghi Sơn, Hoàng Mai…thì trước hết Công ty cần thu thập các thông
tin cần thiết về các khách hàng này cả về đặc điểm sản xuất, cả về nhu cầu
các loại vật tư, phụ gia mà các nhà máy này sẽ tiêu thụ, cố gắng tiếp cận để
đi đến ký kết các hợp đồng tiêu thụ, trong vấn đề này, ngoài việc dựa vào sự
6
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tác động từ phía TCTXMVN thì Công ty cũng cần chủ động hơn trong việc thu
thập và tổng hợp, phân tích thông tin một cách nhanh nhạy, kịp thời.
Để thực hiện tốt các vấn đề trên đòi hỏi Công ty phải tổ chức được một

đội ngũ cán bộ chuyên điều tra, nghiên cứu thị trường, có nghiệp vụ kinh
doanh, có kiến thức về marketing, có khả năng thu thập, tổng hợp và phân
tích thông tin nhanh nhạy, xử lý thông tin tốt từ đó đưa ra các dự đoán chính
xác về thị trường. Trước hết, trên cơ sở đội ngũ đang làm việc tại các phòng
kinh doanh của Công ty hiện nay, Công ty nên lựa chọn để đào tạo sâu hơn
nữa về chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ trong việc điều tra, nghiên cứu thị
trường. Ngoài việc bỏ chi phí để đào tạo đội ngũ này thì Công ty cũng cần
phải đầu tư cho họ các điều kiện làm việc, tạo mọi thuận lợi để họ thực hiện
tốt nhất công tác của mình. Bên canh tổ chức bộ phận nnghiên cứu, phân
tích thị trường tai văn phòng Công ty, thì Công ty cũng nên bố trí những cán
bộ có chuyên môn tại các chi nhánh đặc biệt là các chi nhánh cuối nguồn để
thu thập thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời. Tuy nhiên, trong vấn đề
này Công ty cũng cần phải cân nhắc một cách kỹ lưỡng giữa chi phí bỏ ra và
hiệu quả thu được, tránh hiện tượng tổ chức quá rườm rà không hiệu quả
làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chung của Công ty.
Thứ hai: Tạo ra lợi thế cạnh tranh về giá thông qua việc hạ thấp
giá thành sản phẩm. Chủ động trong việc điều hành giá cả.
Một trong những yếu tố quyết định sự thắng lợi trong canh tranh của
mỗi doanh nghiệp đó là giá cả. Nếu giá cả thấp trong khi chất lượng sản
phẩm vẫn được đảm bảo thì doanh nghiệp rất dễ dàng chiến thắng trong
cạnh tranh. tuy nhiên để đáp ứng các yêu cầu trên thì doanh nghiệp cần
phải có những biện pháp thích hợp để hạ thấp giá thành sản phẩm một cách
hợp lý.
Công ty Vật tư- Vận tải- xi măng là một doanh nghiệp thương mại- dịch
vụ, thực hiện cung ứng các loại vật tư, hàng hoá, dịch vụ cho sản xuất xi
măng, tuy có nhiều lợi thế hơn so với các đơn vị cung ứng vật tư phục vụ cho
sản xuất xi măng khác, vừa là thành viên trong TCTXMVN, vừa có kinh
nghiệm hoạt động lâu năm, chất lượng các hàng hoá, dịch vụ cung ứng tốt
hơn các đơn vị khác song giá cả các loại hàng hoá, dịch vụ mà Công ty cung
cấp lại rất cao, đây một khó khăn cho Công ty trong việc cạnh tranh về giá,

đặc biệt là từ khi xuất hiện xu hướng các NMXM muốn mua các vật tư trực
7
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiếp của các đơn vị cung cấp, TCTthan cũng theo đuổi mục tiêu bán than
trực tiếp tại đầu nguồn; các NMXM muốn tự đảm nhận một phần clinker vận
chuyển Bắc- Nam.
Mặc dù trong thời gian qua Công ty cũng đã có những biện pháp tích
cực để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm như việc linh hoạt mua than
của các đơn vị bán than khác ngoài TCTthan để có giá mua rẻ hơn, quản lý
tốt hoạt động của đội xe để hạ thấp cước phí vận chuyển clinker từ 206.200
đồng/tấn xuống còn 198.000đồng/tấn ; thực hiện khoán chi phí điện thoại
đến từng đơn vị, từng chi nhánh... Nhưng trong điều kiện cạnh tranh hiện
nay hiệu quả của các biện pháp này mà Công ty đã áp dụng vẫn chưa thể đáp
ứng được. Mặt khác, một vấn đề khó khăn mà hiện nay Công ty đang gặp
phải đó là cơ chế giá hiện nay rất bị động, cơ chế giá không linh hoạt do
hàng năm TCTXMVN vẫn xây dựng một cơ chế giá cụ thể đối với từng loại để
làm căn cứ khống chế mức giá, gây khó khăn trong việc điều hành giá cả của
Công ty.
Để thực hiện được mục tiêu hạ giá thành, tạo ra lợi thế trong cạnh
tranh Công ty nên sử dụng một số giải pháp như sau:
- Tích cực chủ động trong việc tiềm kiếm nguồn hàng có giá mua rẻ,
nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng đạt yêu cầu, đặc biệt đối với các lĩnh
vực cung cấp than cám, không chỉ lấy than của TCT than mà có thể tìm các
bạn hàng mới ngoài TCTcó giá rẻ hơn.
Bên cạnh việc chủ động tìm kiếm nguồn hàng thì việc củng cố mối quan
hệ với các bạn hàng, tranh thủ những ưu đãi cũng là một biện pháp cần
thiết.
Có thực hiện được tốt được các giải pháp này thì mới có thể giảm bớt
giá bán thông qua việc hạ giá hàng mua vào.

- Tập trung đầu tư vào các phương tiện vận tải: Hiện nay mặc dù Công
ty có hơn 250 đầu xe hoạt động song hoạt động còn kém hiệu quả, do chưa
được đầu tư, sữa chữa thích đáng do đó giá thành cao làm cước phí vận
chuyển cao, gây ra khó khăn trong việc tìm nguồn vận chuyển. Do đó, đầu tư
sữa chữa bảo dưỡng là một biện pháp cần thiết.
- Thực hiện tốt hơn nữa công tác quản lý chất lượng, định mức hao hụt
hầng hoá: Tăng cường quản lý chất lượng hàng hoá, giám sát chặt chẽ khâu
8
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giao nhận hàng hoá để giảm hao hụt đến mức thấp nhất. Tổ chức khảo sát
việc giao nhận than tuyến ninh Bình - Bỉm Sơn để kịp thời đưa ra các biện
pháp quản lý hữu hiệu kho than tại Ninh Binh.
- Quản lý chặt chẽ chi phí đặc biệt là chi phí của các chi nhánh và chi phí
quản lý Công ty. Để thực hiện biẹn pháp này không chỉ dòi hỏi tổ chức mặt
dân sự một cách hiệu quả, hợp lý, đúng người đúng việc mà còn phải quán
triẹt tư tưởng tiết kiệm chi phí trong toàn Công ty.
Đối với văn phòng Công ty nên có những chính sách cụ thể trong từng
lĩnh vực đối với từng chi nhánh. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát hoạt động SXKD tại các đơn vị cơ sở, kiên quyết không để thất thoát
tài sản của Nhà nước.
Đối với các đơn vị cơ sở cần phải thực hiện đúng các quy định của pháp
luật và những văn bản cụ thể hoá cho Công ty. Đặc biệt trong lĩnh vực mua
sắm trang thiết bị, đồ dùng, chi phí hội nghị, tiếp khách, chế độ công tác phí...
phải thực hiện đúng theo quy định của Công ty.
Chỉ khi nào các vấn đề trên được thực hiện tốt thì Công ty mới có thể
thực hiện được chiến lược hạ thấp giá bán để nâng cao khả năng cạnh tranh
bên cạnh đó còn loại trừ được hiện tượng các NMXM muốn mua các loại vật
tư trực tiếp tại đầu nguồn.
Ngoài ra,trong vấn đề giá cả, để có chính sách giá cả linh hoạt hơn, chủ

động trong điều hành thì Công ty cũng nên có những kiến nghị đối TCTXMVN
về vấn đề này.
Thứ ba: Tăng cường áp dụng các biện pháp kinh tế tài chính để
thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ góp phần tăng DTTT.
Các biện pháp kinh tế tài chính có một vị trí xứng đáng trong việc thúc
đẩy tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ, nâng cao được khối lượng hàng hoá tiêu thụ
và tăng được doanh thu cho Công ty. Ngoài ra áp dụng các biện pháp kinh tế
tài chính còn góp phần cũng cố hơn mối quan hệ với khách hàng của Công ty,
đặc biệt là đối với khách hàng lâu năm. Đây là hướng đi mà Công ty cũng đã
áp dụng, song lĩnh vực, chủng loại mặt hàng áp dụng chưa đa dạng, mới chỉ
áp dụng đối với mặt hàng xi măng còn các mặt hàng khác kể cả mặt hàng
than cám vẫn chưa được áp dụng do đó chưa thực sự khuyến khích, hấp dẫn
các khách hàng của Công ty. Để thúc đấy tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ và tăng
9
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
DTTT Công ty cần phải áp dụng linh hoạt các biện pháp tài chính, có thể
thực hiện theo các hướng sau:
- Thực hiện giảm giá, bớt giá cho một số trường hợp nhất định.
Để khuyến khích khách hàng mua sản phẩm của Công ty thì cần phải
quy định mức giảm giá phù hợp với từng định mức khối lượng tiêu thụ
được. Khách hàng phải mua với một số lượng đạt đến mức quy định thì mới
được giảm giá và Công ty có thể áp dụng hình thức giảm giá luỹ tiến tức là
khối lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ được càng lớn thị tỷ lệ giảm giá càng
cao như công ty phải xem xét việc quy định tỷ lệ giảm giá có đảm bảo doanh
thu, lợi nhuận của Công ty hay không. Bên cạnh đó Công ty có thể giảm giá
trong các mùa xây dựng, đây là thời điểm khối lượng tiêu thụ xi măng lớn
nhất và công suất hoạt động của các NMXM cũng rất lớn.
Ngoài ra đối với những khách hàng thường xuyên, khách hàng lâu năm
cũng nên có hình thức khuyến mại phù hợp để tăng cường mối quan hệ, góp

phần mở rộng và tăng khối lượng tiêu thụ.
- Áp dụng hình thức chiết khấu có sự điều chỉnh phù hợp với điều kiện
thực tế của Công ty.
Thực hiện chiết khấu bán hàng nhằm khuyến khích khách hàng thanh
toán nhanh, hạn chế nợ nần dây dưa nhằm nhằm hoàn thành kế hoạch
doanh thu và đảm bảo vốn cho kinh doanh. Hình thức chiết khấu này chưa
được Công ty áp do vậy, trong thời gian tới Công ty cũng nên xem xét để áp
dụng. Tuy nhiên, trong việc áp dụng hình thức chiết khấu Công ty cần đưa ra
được tỷ lệ chiết khấu thích hợp để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động kinh
doanh. Việc đưa ra tỷ lệ chiết khấu của Công ty phải đặt trong mối liên hệ
với lãi suất vay vốn ngân hàng, bởi vì khi cho khách hàng trả chậm thì trong
thời gian đó, để đảm bảo quá trình SXKD Công ty phải tiến hành vay vốn
ngân hàng. Do đó Công ty cần phải xác định được hiệu quả đem lại từ việc
thực hiện chiết khấu bán hàng. Công ty có thể áp dụng nhiều tỷ lệ chiết khấu
khác nhau tuỳ theo từng thời hạn thanh toán chẳng hạn thanh toán càng
nhanh thì được hưởng tỷ lệ chiết khấu càng cao và ngược lại, tuy nhiên phải
luôn ràng buộc bởi lãi suất vay vốn ngân hàng. Và tất nhiên nếu thanh toán
chậm sẽ phải trả lãi suất quá hạn theo lãi suất vay vốn ngân hàng. Với các
mức tỷ lệ chiết khấu như vậy sẽ hấp dẫn được khách hàng trong việc thanh
10
10

×