Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.71 KB, 20 trang )

: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1. 1. Bảo hiểm tiền gửi .
1.1.1. Khái niệm về Bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đối
với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi về việc tổ chức BHTG cam kết trả tiền gửi
cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG bao gồm phần gốc và lãi, trong
trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động hoặc mất khả năng
thanh toán cho người gửi tiền. Cam kết công khai này được thể hiện dưới hình thức
một hợp đồng bảo hiểm gồm có ba đối tượng: tổ chức BHTG, tổ chức tham gia
BHTG (các định chế trung gian tài chính có huy động tiền gửi) và người gửi tiền.
Việc phát triển hoạt động BHTG về qui mô nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
tài chính tiền tệ của quốc gia trong nền kinh tế phát triển và hội nhập là một tất yếu
khách quan.
Khi các TCTD có huy động tiền gửi đề nghị tham gia BHTG và được tổ
chức BHTG chấp thuận, điều này sẽ hình thành một hợp đồng giữa ba đối tác nói
trên được hình thành. Mỗi quốc gia có những chính sách khác nhau trong việc xác
định loại tiền gửi nào thuộc đối tượng được bảo hiểm. Trách nhiệm và quyền lợi tài
chính của ba đối tác được thể hiện như sau:
- Tổ chức bảo hiểm tiền gửi: Là đối tác nhận đóng góp tài chính từ các tổ
chức tham gia BHTG và có trách nhiệm chi trả tiền gửi cho người có tiền gửi tại
các tổ chức huy động tiền, trong trường hợp có sự đổ vỡ từ các tổ chức tham gia
BHTG.
- Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi (Tổ chức huy động tiền gửi): Là các
định chế trung gian tài chính bao gồm: các ngân hàng thương mại các tổ chức phi
ngân hàng có hoạt động huy động tiền gửi. Các tổ chức này khi tham gia đóng góp
tài chính cho tổ chức BHTG và được quyền yêu cầu tổ chức BHTG phải chi trả
tiền gửi cho công chúng tại các tổ chức này, trong trường hợp các tổ chức này mất
khả năng thanh toán hoặc bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấm dứt hoạt động.
- Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm: Là khách hàng của những
tổ chức tham gia BHTG, những người gửi tiền này không phải đóng góp tài chính
trực tiếp cho tổ chức BHTG, họ được thanh toán tiền gửi trong hạn mức chi trả


theo qui định pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của Bảo hiểm tiền gửi
Sản phẩm bảo hiểm tiền gửi cũng như các sản phẩm bảo hiểm khác (bảo
hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm y tế …) đều dựa vào nguyên tắc
chung là lấy số đông bù số ít nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro cho khách hàng.
Nhưng BHTG khác với các loại bảo hiểm khác ở một số điểm cơ bản (bảng 1.1).
Bảng 1.: Sự khác nhau giữa BHTG với các loại bảo hiểm khác
Bảo hiểm tiền gửi Bảo hiểm khác
 Người gửi tiền được bảo hiểm mà
không phải ký hợp đồng với tổ chức
bảo hiểm
 Chỉ thực hiện bảo hiểm theo từng
hợp đồng riêng lẻ
 Số tiền đền bù khi có tổn thất được
quy định bởi các văn bản luật, người
gửi tiền không thể tăng mức đền bù
bằng cách tăng phí đóng góp
 Số tiền đền bù có thể thỏa thuận
với tổ chức bảo hiểm, người được bảo
hiểm có thể tăng mức đền bù bằng
cách tăng mức đóng góp
 Người được bảo hiểm không trực
tiếp điều hành hoạt động rủi ro của
mình, hoạt động rủi ro do tổ chức tham
gia BHTG kiểm soát.
 Người mua hợp đồng là người trực
tiếp điều hành các hoạt động
rủi ro
 Bắt buộc cung cấp cho khách hàng
mà không cần có sự đồng ý hay hiểu

biết của khách hàng
 Chỉ có thể cung cấp khi có sự đồng
ý của khách hàng
1.1.3. Chức năng của Bảo hiểm tiền gửi
Hoạt động BHTG là một dịch vụ cung cấp hàng hóa công mang tính xã hội
cao, theo cách phân loại của các nhà kinh tế học sản phẩm dịch vụ của BHTG là
loại hàng hóa công không thuần túy. Dựa vào tính chất không loại trừ hưởng thụ
một cách tuyệt đối, do mục đích của dịch vụ BHTG là góp phần ổn định hoạt động
của hệ thống tài chính quốc gia, người thụ hưởng dịch vụ BHTG là toàn xã hội.
Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm sẽ được hưởng lợi trực tiếp từ chính
sách BHTG bằng việc tổ chức BHTG sẽ chi trả tiền khi mà ngân hàng nhận tiền
gửi bị phá sản hay mất khả năng chi trả cho người gửi tiền thuộc đối tượng bảo
hiểm. Như vậy tổ chức BHTG thực hiện hai chức năng cơ bản là: bảo vệ người gửi
tiền và góp phần ổn định hệ thống tài chính hoạt động từ đó tạo hiệu ứng cho các
ngành kinh tế phát triển thông qua các định chế trung gian tài chính cung cấp. Tóm
lại, chức năng hoạt động của bảo hiểm tiền gửi thực hiện các chức năng cơ bản như
sau:
- Bảo vệ người gửi tiền nhỏ là những đối tượng có những hạn chế trong việc
tiếp cận thông tin về hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi.
- Chức năng phòng ngừa đổ vỡ ngân hàng, góp phần bảo vệ hệ thống tài chính
ổn định tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính.
- Góp phần xây dựng một thị trường tài chính có tính cạnh tranh và bình đẳng
giữa các tổ chức tài chính có qui mô và trình độ khác nhau.
- Giảm thiểu gánh nặng cho Chính phủ, thông qua việc qui định những quyền
lợi của người gửi tiền và của các tổ chức nhận tiền gửi.
Những nghiên cứu của các nhà kinh tế cũng như qua thực tiễn, người có tiền
gửi nhỏ là được tổ chức BHTG quan tâm nhất và là cơ sở xuất phát điểm cho mục
đích hoạt động của BHTG, đây là tầng lớp dân cư có những hạn chế nhất định
trong việc tiếp cận những thông tin về hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi, đời
sống của tầng lớp công chúng có thu nhập thấp thường bị tác động nhiều hơn các

đối tượng khách hàng khác, những người này thường quan tâm đến lãi suất tiền gửi
và họ có được khoản tiền lãi từ nguồn tiền gửi ít ỏi của mình là hết sức quan trọng,
do đó sự nhạy cảm trong những thông tin xấu của các tổ chức nhận tiền gửi là cực
kỳ quan trọng, do hạn chế khả năng phân tích cũng nhưng tầm nhận thức, tâm lý
bất ổn với những thông tin về đổ vỡ ngân hàng làm cho họ có những ứng xử theo
tâm lý, từ đó rút tiền ồ ạt. Ở Việt Nam ta bằng chứng là sự kiện của Ngân hàng
TMCP Á Châu vào tháng 10/2003 là một minh chứng, các hiện tượng trên nếu
không xử lý một cách khoa học có thể là nguyên nhân dẫn đến phản ứng dây
chuyền làm hàng loạt ngân hàng bị phá sản, đây là một trong những nghiệp vụ mà
tổ chức BHTG cần phải quán triệt.
1.1.4. Vai trò của Bảo hiểm tiền gửi.
Vai trò của hoạt động BHTG đối với quốc gia có thể biểu hiện trên nhiều góc
độ do xuất phát từ bản chất của hàng hóa mà dịch vụ BHTG cung cấp là loại “hàng
hóa công không thuần túy”. Theo lý thuyết kinh tế học về hàng hóa công bao hàm
hai đặc tính:
- Tính không thể loại trừ: Đặc tính này cũng được hiểu trên giác độ tiêu
dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì
không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho
việc họ sử dụng hàng hóa này.
- Tính không cạnh tranh: Tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ
tiêu dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó thì không ngăn cản
những người khác đồng thời cũng sử dụng nó. Bản chất của dịch vụ BHTG cung
cấp tiện tích cho tất cả các thành viên trong cộng đồng một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp.
Vai trò chính của BHTG là thúc đẩy sự kết hợp hài hòa giữa nỗ lực nâng cao
chất lượng hoạt động ngân hàng hướng tới thu hút được tối đa nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong cộng đồng và sự cộng tác tích cực của các thành viên trong xã hội
trên cơ sở các bên cùng có lợi. Từ đó tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế
vững chắc. Như vậy vai trò hoạt động của BHTG đối với quốc gia được phản ánh
gián tiếp qua vai trò của hệ thống ngân hàng của chính quốc gia đó. Vai trò của

hoạt động của BHTG đối với một quốc gia được thể hiện ở ba mặt cơ bản:
- Tạo niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng thương mại.
- Góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống ngân hàng quốc gia phát
triển lành mạnh.
- Huy động tiền gửi tại NHTM được tăng trưởng ổn định, tạo nguồn lực cho
đầu tư quốc gia.
1.1.4.1. Hoạt động BHTG tạo niềm tin của công chúng đối với hệ thống
ngân hàng thương mại.
- Tạo niềm tin của công chúng vào các NHTM.
Các ngân hàng thương mại trong hệ thống của một quốc gia muốn có được
uy tín đối với công chúng cần có khả năng thực hiện có hiệu quả các chức năng
của họ, bao gồm ba chức năng cơ bản như sau: chức năng trung gian tín dụng,
chức năng thanh toán và chức năng tạo tiền .
Chức năng trung gian tín dụng: thực hiện chức năng này các NHTM làm cầu
nối giữa người cần vốn và nơi có vốn. Thông qua việc huy động các nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, các NHTM hình thành quỹ cho vay và cung
cấp tín dụng cho toàn bộ nền kinh tế, quá trình này diễn ra liên tục làm tiền đề và
điều kiện cho nhau, với chức năng này các NHTM là người đi vay để cho vay, từ
đó mà phân bổ các nguồn vốn một cách hợp lý làm cho nền kinh tế vận hành một
cách thông suốt theo những quy luật của nó. (Hình 1.1)
Gửi tiền
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Cá nhân
Cá nhân
Cho vay
Doanh nghiệp
Đầu tư
Ủy thác đầu Tư
Doanh nghiệp


Hình 1.1 - Sơ đồ: Ngân hàng làm trung gian tín dụng
Chức năng trung gian thanh toán: khi họ thực hiện thanh toán theo yêu cầu
của khách hàng, bằng những nghiệp vụ của mình với chức năng này NHTM đóng
vai trò là người thanh toán thay cho các doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế.
Khi nền kinh tế phát triển cao, chức năng này càng được phát huy, hoạt động này
có ý nghĩa to lớn trong bất kỳ nền kinh tế nào, nó thúc đẩy quá trình lưu thông
hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, làm tăng trưởng kinh tế.
Chức năng tạo tiền: chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán,
các NHTM có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên các tài
khoản tiền gửi của khách hàng. Khi Ngân hàng Trung ương phát hành tiền ra lưu
thông qua thị trường tiền tệ (cấp vốn, tái cấp vốn), thị trường mở (mua bán chứng
khoán nợ), hoặc qua thị trường ngoại hối (mua bán ngoại tệ)... thì lượng tiền này sẽ
nằm trong lưu thông chủ yếu dưới dạng tiền gửi của các tổ chức, cá nhân tại các
NHTM và tiền mặt trong lưu thông. Từ khoản tiền vốn (tiền gửi, tiền vay) ban đầu
này, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống NHTM có khả năng
tạo nên số tiền gửi gấp nhiều lần so với số vốn tăng thêm ban đầu. Các chức năng
của các NHTM có mối quan hệ chặc chẽ với nhau, bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau,
trong đó chức năng trung gian tín dụng là cơ bản nhất nó tạo điều kiện để thực hiện
hai chức năng còn lại. Trong khi đó, chức năng thanh toán thể hiện niềm tin của
công chúng đối với hệ thống ngân hàng.
- Hoạt động BHTG góp phần thúc đẩy chức năng hoạt động của NHTM.
Hoạt động BHTG là nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp phần
đảm bảo sự duy trì hoạt động lành mạnh trong hệ thống ngân hàng của một quốc
gia, thông qua các hoạt động chuyên môn của tổ chức BHTG nhằm thực hiện mục
tiêu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, tổ chức BHTG tập trung vào các hoạt
động sau: Cung cấp cho công chúng về hoạt động của các NHTM thông qua hoạt
động của mình. Hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tham gia BHTG khi gặp khó khăn
nhằm duy trì hoạt động có hiệu quả. Chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi
tiền trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán. Tham gia vào
quá trình thanh lý tài sản sau khi chi trả, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền

chưa được thanh toán hết số tiền gửi vượt mức chi trả ban đầu, duy trì quỹ BHTG
để bảo vệ người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG khác.
Như vậy về thực chất, tổ chức BHTG là cầu nối cho các NHTM mất khả
năng thanh toán tiếp tục thực hiện chức năng thanh toán cho người gửi tiền. Qua
đó chúng ta thấy rằng việc duy trì niềm tin của các ngân hàng đang hoạt động đối
với công chúng là hết sức quan trọng, việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm tạo nên
sự ổn định tránh sự đổ vỡ dây chuyền, trong đó sự bảo đảm can thiệp kịp thời và
có hiệu quả của tổ chức BHTG.
Ngoài ra nhằm góp phần duy trì tính ổn định của hệ thống ngân hàng, tổ
chức BHTG còn thực hiện chức năng giám sát và kiểm tra các hoạt động của các
NHTM tham gia BHTG nhằm ngăn chặn kịp thời những biểu hiện thiếu lành mạnh
và thiếu an toàn trong hoạt động ngân hàng, những hoạt động đó góp phần cho các
NHTM tham gia BHTG thực hiện có hiệu quả ba chức năng của mình.
1.1.4.2. Hoạt động BHTG tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống NHTM
phát triển
Hoạt động của tổ chức BHTG làm tăng cường niềm tin của công chúng đối
với hệ thống ngân hàng quốc gia, cũng từ đó tạo động lực để các NHTM phát triển
tốt hơn. Với những cải thiện và nâng cao uy tín trong cộng đồng, các NHTM huy
động vốn dễ dàng hơn từ đó phát triển được mạng lưới rộng hơn và đa dạng hóa
các dịch vụ ngân hàng nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn cho công chúng những sản
phẩm tài chính mà các tổ chức này cung cấp cho toàn xã hội. Nhìn chung hoạt
động của tổ chức BHTG đối với các NHTM được biểu hiện qua ba tác dụng
chính :
+ Tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM mới ra đời và các ngân
hàng có qui mô nhỏ phát triển tốt hơn: trong kinh tế thị trường, nhìn ở góc độ huy

×