LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH
1. Sự ra đời và phát triển của BHXH
Khi nền kinh tế phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến.
Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau do nhiều
nguyên nhân giới chủ đã cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có thu
nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm
đau, tai nạn hoặc sinh đẻ,...Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không
xảy ra và người chủ không phải chi đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn
dập, buộc họ phải một lúc bỏ ra nhiều khoản tiền lớn ngoài dự đoán. Vì thế,
mâu thuẫn chủ-thợ phát sinh,giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực
hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động
nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, nhà nước phải đứng ra can
thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò của
nhà nước, mặt khác buộc giới chủ và thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất
định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra
đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ
tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ xung từ ngân
sách nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi
gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó
mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao
động và gia đình họ ngày càng được bảo đảm ổn định. Giới chủ cũng thấy mình
có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thườnh, tránh được
những xáo trộn không cần thiết, vì vậy nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết
lập ngày càng to lớn và nhanh chóng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày
càng đảm bảo.
Trong quá trình phát triển của xã hội,đặc biệt là sau cuộc cách mạng
công nghiệp, hệ thống BHXH đã có những cơ sở hình thành và phát triển. Quá
trình công nghiệp hoá đã làm cho đội ngũ làm công ăn lương tăng lên, cuộc
sống của họ phụ thuộc vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự hụt hẫng
về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc làm,
tuổi già,....đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thường của những
người không có thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bất buộc phải đối mặt
với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đòi hỏi giới chủ và nhà nước phải có sự
đảm bảo cuộc sống cho họ.
Năm 1850, lần đầu tiên ở nước Phổ ( CHLB Đức hiện nay ) nhiều bang
đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi
bị giảm thu nhập vì bệnh tật. Từ đó xuất hiện hình thức bắt buộc đống góp. Lúc
đầu chỉ có giới thợ tham gia dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra các
trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Năm 1883 nước Phổ đã ban
hành luật bảo hiểm y tế, đến cuối những năm 80 của thế kỷ 19, Bảo hiểm xã hội
đã mở ra hướng mới. Sự tham gia không chỉ bắt buộc đối với người lao động
đóng góp mà giới chủ và nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình.
Mô hình ở Phổ hồi đó đã dần lan sang Châu Âu, sau đó là các nước Mỹ La
Tinh, Bắc Mỹ, Canada vào những năm 20 của thế kỷ 20.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước mới
giành độc lập ở Châu á, Châu Phi và vùng Caribe. Hệ thống BHXH hình thành
và phát triển rất đa dạng dưới niều hình thức khác nhau ở từng quốc gia, từng
giai đoạn lịch sử. Số nước có hệ thống bảo hiểm xã hội ngày càng tăng.
Năm 1940 chỉ có 57 nước thực hiện BHXH nhưng đến năm 1993 đã tăng
lên 163 nước. Điều đó cho thấy rằng BHXH là một nghành không thể thiếu đối
với bất cứ quốc gia nào.
Ở Việt Nam BHXH đã thực hiện từ thời kỳ pháp thuộc nhưng chỉ hạn chế
trong các viên chức làm việc cho pháp.
Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời mặc dù đời sống kinh tế
xã hội hết sức khó khăn và phức tạp nhưng đảng và nhà nước ta vẫn rất quan
tâm đến các chế độ đối với người lao động đặc biệt là BHXH mà khởi đầu là
sắc lệnh số 54/ SL ngày 1/11/1945 ấn định điều kiện cho công chức hưởng
lương hưu trí, chủ yếu áp dụng chế độ hưu bổng cho nhân sỹ, trí thức, cán bộ
cách mạng đã già yếu. Tiếp đến là sắc lệnh số 105/ SL ngày 14/6/1946 nhằm
ổn định mức trợ cấp hưu bổng cho công chức. Cũng tại hai sắc lệnh này chính
phủ đã quy định mức đóng góp của công chức nhà nước vào quỹ hưu bổng. Sau
đó sắc lệnh số 29/ SL ngày 12/ 3/ 1947 và sắc lệnh số 77/ SL ngày 22/ 5/ 1950
đã quy định cụ thể các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, hưu trí, chăm sóc y tế,
tai nạn lao động và tiền tuất đối với cán bộ công nhân viên chức. Tuy nhiên
thời kỳ này BHXH còn có những hạn chế cơ bản như : đối tượng tham gia còn
hẹp ( chỉ cán bộ công nhân viên chức ), việc thực hiện chính sách BHXH còn
phân tán không hiệu quả, do đó chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về
BHXH kèm theo nghị định 28/ CP ngày 25/ 12/ 1961 trên cơ sở xây dựng hệ
thống BHXH mới gồm sáu chế độ :
-Chế độ ốm đau
-Chế độ thai sản
-Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề ngiệp
-Chế độ mất sức lao động
-Chế độ hưu trí
-Chế độ tử tuất
Nghị định số 234/ HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng về
việc bổ sung, sửa đổi một số chế độ, chính sách về thương binh và xã hội.
Nghị định này nhằm ưu đãi những người đã có thời gian hoạt động cách
mạng hoặc tham gia kháng chiến. Ngày 1/3/1990 Hội đồng Bộ trưởng ra
quyết số 60/HDDBT về việc sửa đổi chế độ trợ cấp đối với công nhân viên
chức nghỉ việc vì mất sức lao động. Ngày 22/ 6/ 1993 Chính phủ ban hành
nghị định 43/ CP quy định tạm thời chế độ BHXH. Nhằm xoá bỏ tư duy bao
cấp, ỷ lại trong lĩnh vực BHXH và mở ra loại hình BHXH bắt buộc và tự
nguyện, quy định lại năm chế độ ( bỏ chế độ mất sức lao động).
Ngày 22/6/1995 Chính phủ đã ban hành nghị định 12/ CP về điều lệ
BHXH đối với người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế. Điều lệ
BHXH mới có sửa dổi bổ xung một số quy định cụ thể, chủ yếu. Là một số
điều kiện và mức hưởng trợ cấp BHXH mới. Trong đó quyền và trách nhiệm
của các bên tham gia BHXH được đề cập một cách cụ thể, rõ ràng và qu định
cả vấn đề giải quyết tranh chấp, xử lý những vi phạm BHXH.
Nghị định 19/ CP ngày 16/ 2/ 1995 của Chính phủ đã quy định lại cơ
cấu tổ chức, phương hướng hoạt động của cơ quan quản lý BHXH, xoá bỏ
tình trạng phân tán, thiếu trách nhiệm trong quản lý trước đây.
2. Bản chất và những nội dung của BHXH.
a. Bản chất và đối tượng của BHXH.
-Khái niệm BHXH :
Như chúng ta đã biết, BHXH ra đời ở Nam Âu, khi mà nền kinh tế
hàng hoá bắt đầu phát triển. Cho đến nay, trải qua hàng trăm năm tồn tại
và phát triển còn rất nhiều quan điểm khác nhau về BHXH và mỗi quốc gia
đều xây dựng một hệ thống BHXH riêng cho mình. Tuy nhiên về bản chất thì
giống nhau nhưng khác nhau về phạm vi áp dụng các chế độ.
Theo quan điểm của các chuyên gia về BHXH ở Việt Nam hiện nay thì:
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người
lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao
động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập
trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần
bảo đảm an toàn xã hội.
-Bản chất của BHXH.
Từ khái niệm nêu ở trên, bản chất của BHXH được thể hiện ở những
nội dung chủ yếu sau:
+) BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất
là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối
quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức nào đó. Kinh tế càng
phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là
nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi
nưóc.
+)Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ
lao động và diễn ra giữa ba bên : Bên tham gia BHXH,bên BHXH và bên được
BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao
động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH )
thôngười thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước lập ra và bảo trợ
bên được BHXH là ngườiười lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện
ràng buộc cần thiết.
+)Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của
con người như :ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,...Hoặc cũng có
thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già,
thai sản,...Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá
trình lao động.
+) Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp
phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ
tiền tệ tập trung được tồn tích lại, nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH
đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía nhà nước.
+) Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của
người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mấtviệclàm.
Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau:
-Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm
bảo nhu cầu thiết yếu của họ.
-Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật
-Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân và các nhu cầu
đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền
con người và được đại hội đồng liên hiệp quốc thừa nhận và ghi vào tuyên
ngôn nhân quyền ngày 10/ 12 /1948 rằng: "Tất cả mọi người với tư cách là
thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH,quyền đó được đặt cơ sở trên
sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá - nhu cầu cho nhân cách
và sự tự do phát triển của con người".
-Đối tượng của BHXH
Chúng ta đều biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị
giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động,
mất việc làm vì các nguyên nhân như già yếu,ốm đau, tai nạn,...Chính vì vậy, đối
tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc
mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người
lao động tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động.
Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cuả mỗi nước mà đối
tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các
viên chức nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt Nam cũng
không vượt ra khỏi thực tế nà, mặc dù biết rằng như vậy là không bình đẳng
giữa tất cả những người lao động.
b.Hệ thống chế độ BHXH.
Trong bản tuyên ngôn nhân quyền của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp quốc
thông qua ngày 10/ 2 /1948 tại điều có viết: "Mọi người với tư cách là thành
viên trong xã hội đều có quyền BHXH. Tất cả những quyền này là yếu tố không
thể thiếu được đối với nhân phẩm cũng như đối với sự phát triển tự do của
nhân cách mỗi cá nhân, nhờ những nỗ lực của mỗi quốc gia và nỗ lực hợp tác
quốc tế,...".
Thông điệp trên đây của liên hiệp quốc đã khẳng định vai trò và vị trí
quan trọng của chính sách BHXH là cần thiết và không thể thiếu được của mỗi
quốc gia và trong cộng đồng quốc tế. Sau tuyên ngôn nhân quyền của Liên hiệp
quốc là Công ước số 102 về an toàn xã hội của tổ chức lao động quốc tế (ILO)
có hiệu lực từ ngày 27/ 4 1952 đã đưa ra 9 chế độ BHXH bao gồm:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp tàn tật
- Trợ cấp cấp tiền tuất
Nhưng trong thực tế, các nước trên thế giới có những điều kiện kinh tế-
chính trị - xã hội khác nhau. Có những nước có thể triển khai những chế độ này
một cách dễ dàng do điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội nước đó cho
phép,trong khi có những nước lại không thể triển khai được. Chính vì vậy,vấn
đề triển khai những chế độ nào trong 9 chế độ trên là tuỳ thuộc vào điều kiện
của từng nước. Nhưng ít nhất phải có ba chế độ và có một trong 5 chế độ sau:
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tàn tật
- Trợ cấp tiền tuất
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Năm 1993, trong tổng số 163 nước có hệ thống chế độ BHXH đã có 155
nước thực hiện từ 3 chế độ trở lên trong đó đều có 3 chế độ : ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Đối với cộng đồng Châu Âu, ngoài việc thực hiện Công ước 102 của liên
hiệp quốc, các nước thành viên còn thực hiện một đạo luật Châu Âu về BHXH.
Đạo luật này quy định điều kiện hưởng BHXH chặt chẽ hơn, mức hưởng cao
hơn để phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của các nước trong cộng đồng.
Ở Việt Nam theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995, hệ thống BHXH bao
gồm 5 chế độ:
- Chế độ ốm đau: chế độ này đã giúp cho người lao động có được khoản
trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do không làm việc khi bị ốm đau.
- Chế độ tử tuất.
Mức hưởng 75% lương cho những ngày nghỉ ốm đau, thời gian nghỉ ốm
30 ngày trở lại đối với người đóng BH dưới 15 năm làm việc trong những
ngành bình thường, 40 ngày ngành độc hại. Nếu thời gian đóng BHXH =>15
năm và <= 30 năm thì được nghỉ <+ 40 ngày và 50 ngày đối với ngành độc hại.
Nếu thời gian đóng BHXH > 30 năm thì được nghỉ 50 ngày và 60 ngày
đối với ngành độc hại (thời gian nghỉ trong 1 năm).
Nếu ốm nặng phải nằm viện thì nghỉ tối đa là 90 ngày. Nghỉ quá thì
không được hưởng lương.
- Chế độ thai sản.: áp dụng đối với phụ nữ sinh con, chế độ này giúp cho
người lao động có khoản trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do không làm việc vì
sinh con. Được nghỉ 4 tháng và hưởng 100% tiền lương nếu sinh con lần 1 và
lần 2.
- Chế độ trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp: áp dụng đối với người lao
động bị rủi ro do lao động.
Được hưởng 100% tiền lương trong thời gian điều trị tại bệnh viện.
Sau khi ra viện nếu tỷ lệ mất sức <5% thì không được hưởng trợ cấp.
Nếu mất sức từ 5 đến 30% thì hưởng trợ cấp một lần với mức:
Tỷ lệ mất sức (%) Mức trợ cấp (tháng lương tối thiểu)
5 – 10 8
11 – 20 12
21 – 30 16
Nừu tỷ lệ mất sức > 30%thì hưởng trợ cấp hàng tháng
Tỷ lệ mất sức (%) Tỷ lệ hưởng so với tiền lương tối
thiểu
30 – 40 0,4
41 – 50 0,6
51 – 60 0,8
61 – 70 1,0
71 – 80 1,2
81 – 90 1,4
91 – 100 1,6
Ngoài ra người bị mất sức lao động nặng từ 81% trở lên hoặc bị liệt
người thì khoản trợ cấp cho người lao động còn trả trợ cấp cho người phục vụ
với mức = 80% tiền lương tối thiểu.
Trong trường hợp người lao động cần làm các bộ phận giả thì BHXH
chịu trách nhiệm chi trả.
- Chế độ trợ cấp hưu trí: Đây là chế độ nhằm cung cấp một khoản trợ
cấp thay thế cho phần thu nhập không được nhận nữa do nghỉ hưu, nhằm trợ
cấp thu nhập cho những người về già không còn làm việc.
+ Điều kiện được hưởng:
Nam từ 60 tuổi có ít nhất 20 năm đóng BHXH.
Nữ 55 tuổi có ít nhất 20 năm đóng BHXH.
Tuy nhiên đối với những người làm việc trong điều kiện độc hại thì tuổi
về hưu giảm xuống đối với nam: 55 tuổi, nữ: 50 tuổi thời gian đóng BHXH
giảm.
+ Mức hưởng: Mức tối đa = 75% tiền lương bình quân làm cơ sở để tính
BHXH (bình quân 5 năm cuối đóng BHXH trước khi nghỉ hưu).
Số năm đóng BHXH Tỷ lệ (%)
15 45
20 55
25 65
30 75
Cứ đóng thêm 1 năm được hưởng thêm 2%. Những người đóng BHXH
từ 31 năm trở lên thì ngoài tiền lương hưu được hưởng hàng tháng bằng 75%
tiền lương bình quân làm cớ để tính BHXH thì cứ đóng thêm một năm thì
hưởng 0,5 tháng lương tối thiểu (không vượt quá 5 tháng).
- Trợ cấp tử tuất:
Áp dụng đối với những người hiện đang làm việc hoặc đang tạm nghỉ
chờ giải quyết chế độ về hưu hay mất sức lao động hoặc đang nghỉ hưu hay
mất sức lao động. Bị chết sẽ được BHXH trợ cấp tiền chi phí mai táng bằng 8
tháng lương tối thiểu.
Ngoài ra những đối tượng trên khi chết mà vẫn còn có con nhỏ chưa đến
tuổi lao động <15 tuổi đối với người không đi học, < 18 tuổi đối với người đi
học, hoặc vợ hay chồng, bố mẹ vợ (chồng) đã hết tuổi lao động và không có
người nuôi dưỡng thì được hưởng trợ cấp hàng tháng bằng 0,4 tháng lương
tối thiểu (điều này áp dụng đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn).
c. Quỹ BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành bằng sự đóng
góp của các bên tham gia BHXH để chi trả cho những người được BHXH và
thành viên trong gia đình họ khi giảm hoặc mất thu nhập do các rủi ro gây nên.
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời là một quỹ dự phòng,
nó vừa mang tính chất kinh tế, vừa mang tính chất xã hội. Là điều kiện hay cơ
sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và
phát triển. Quỹ BHXH cũng như tất cả các loại quỹ khác đều có mục đích sử
dụng riêng tuỳ theo đặc tính của từng loại quỹ đó là dùng để chi trả các chế độ
BHXH, một phần dùng để chi phí quản lý và phần nhàn rỗi thì đem đầu tư sinh
lời nhằm tăng trưởng quỹ.
Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp tài chính của người sử dụng
lao động, người lao động và sự hỗ trợ của nhà nước. Ngoài ra còn có phần
tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được tổ chức BHXH chuyên
trách đưa vào hoạt động sinh lời, phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức
kinh tế vi phạm luật về BHXH và phần chênh lệch để lại do tham gia hợp tác về
BHXH với các nước khác:
Tuỳ từng nước trên thế giới mà sự tham gia của các bên có khác nhau:
Tỷ lệ đóng góp quy định ở các nước cũng có khác nhau ở một số nước
sau: (%)
Nước Chính phủ
Người lao
động
Người sử dụng
lao động
CHLB Đức Bù thiếu 14,8 – 18,8 16,3 – 22,6
Pháp Bù thiếu 11,82 19,68
Philipine Bù thiếu 2,85 – 9,25 6,85 – 8,05
Malayxia Chi toàn bộ trợ cấp
ốm đau, thai sản
9,5 12,75
Ở Việt Nam, chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngày 22/06/1993
và điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày
26/1/1995. Trong các văn bản này đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ
các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ tiền lương của
những người tham gia BHXH trong đơn vị, trong đó 10% để chi các chế độ hưu
trí, tử tuất; 5% đểchi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp.
- Người lao động đóng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và
tử tuất.
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để bảo đảm thực hiện các chế độ BHXH
đối với người lao động.
- Các nguồn khác:
Hàng tháng, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHXH theo
quy định. Tiền lương tháng căn cứ đóng BHXH gồm lương theo bậc, chức vụ,
thâm niên, hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có). Bộ tài chính trích từ ngân sách
Nhà nước số tiền chuyển vào quỹ BHXH để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất,
trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất và hỗ
trợ chi lương hưu cho người lao động thuộc khu vực Nhà nước về hưu trước
ngày thi hành điều lệ BHXH năm 1995. Việc tổ chức thu BHXH do tổ chức BHXH
vnthực hiện. Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà
nước, hạch toán độc lập và được nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH được sử dụng để
chi trả cho 5 chế độ mà điềulệ BHXH đã quy định. Đồng thời được sử dụng để
chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH ở các cấp, các ngành.
Phần quỹ nhàn rỗi được phép đầu tư để bảo tồn giá trị và tăng trưởng
theo quy định của Chính phủ.
Mặc dù quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn nêu trên là phù hợp với
chính sách BHXH trong cơ chế thị trường, đảm bảo được các nguyên tắc của
BHXH, tạo điều kiện phấn đấu để quỹ BHXH tự cân bằng được thu chi trong
quá trình hoạt động. Song, quá trình tạo nguồn quỹ vẫn còn hai vấn đề cần
phải được cân nhắc, xem xét:
Thứ nhất là: theo quy định hiện hành tiền lương dùng làm căn cứ đóng
BHXH là tiền lương cấp bậc theo thang lương, bảng lương, hoặc tiền lương cơ
bản. Trong khi đó, chênh lệch giữa tiền lương cơ bản với tiền lương thực tế là
khá lớn (trừ một số trường hợp đối với công chức nhà nước). Điều đó sẽ ảnh
hưởng tới tiền lương sau này của người lao động, vì khi đó tiền lương hưu trí
tối đa cũng chỉ bằng 75% tiền lương cơ bản.
Thứ hai là: Cơ cấu đóng góp hiện nay, mặc dù theo quy định trong phần
đóng góp của người lao động chủ yếu dùng để chi cho chế độ hưu trí và tử