Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

So sánh tòa án anh và mỹ liên hệ đối với hệ thống Tòa án Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.85 KB, 10 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Luật pháp và tòa án có một mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết với nhau. Tòa
án là công cụ đắc lực để pháp luật có thể được thực thi. Chính vì vậy, khi nghiên
cứu về pháp luật của bất cứ quốc gia nào, thì hệ thống các cơ quan tư pháp trong
đó có tòa án luôn là một chủ đề quan trọng và không thể thiếu. Việc nghiên cứu hệ
thống tòa án có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn bởi nếu có thể hiểu được bản
chất, xác định chính xác và sử dụng đúng đắn các kết quả nghiên cứu ấy sẽ góp
phần tích cực vào công cuộc hoàn thiện hệ thống tòa án nói riêng và các cơ quan tư
pháp nói chung, đồng thời sẽ nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật của quốc gia đó.
Vì những lý do trên, người viết đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “ So sánh cơ
cấu tổ chức và thẩm quyền của hệ thống tòa án Anh và Mỹ, gợi mở đối với hệ
thống Tòa án ở Việt Nam”. Cùng thuộc dòng họ Common Law, Anh, Mỹ đều mang
những nét đặc trưng của dòng họ pháp luật này, song không thể phủ nhận những
nét riêng trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, đặc biệt là trong hệ thống tòa
án. Với mục đích nghiên cứu nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt
trong hai hệ thống tòa án của hai quốc gia đứng đầu trên thế giới, người viết mong
muốn có thể có một cái nhìn cụ thể, chi tiết hơn về hệ thống tòa án của dòng họ
Common law nói chung cũng như hệ thống tòa án Anh – Mỹ nói riêng từ đó lý giải
và đưa ra quan điểm về việc vận dụng đề tài này trong hoàn thiện hệ thống tòa án ở
Việt Nam.


PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận về đề tài nghiên cứu
1. Khái niệm
Theo nghĩa truyền thống được sử dụng trong khoa học pháp lý, thuật ngữ
“quyền tư pháp” thường được giải thích một cách đơn giản là quyền xét xử. Nói
một cách cụ thể hơn, đó là quyền của Tòa án xét xử một vụ việc thực tế nào đó trên
cơ sở xem xét các tình tiết thực tế của vụ việc, áp dụng pháp luật để xác định hậu
quả pháp lý và ra phán quyết. Theo nghĩa đó, hệ thống cơ quan thực hiện quyền tư
pháp là hệ thống cơ quan thực hiện quyền xét xử, tức là hệ thống tòa án. Khái niệm


này được chính thức đề cập trong tác phẩm nổi tiếng nhất của thuyết tam quyền
phân lập, cuốn “Tinh thần pháp luật” của Môngtécxkiơ. Khái niệm tòa án - cơ quan
tư pháp sau đó được phản ánh đậm nét trong Bài luận liên bang số 78 của
Alếchxanđơ Hamintơn (Alexander Hamilton) - một trong bốn nhà sáng lập nên
Hiến pháp Hoa Kỳ.
Theo nghĩa hẹp khi nói đến hệ thống các cơ quan tư pháp người ta thường
nói đến hệ thống Tòa án. Hay theo một cách diễn đạt khác cũng rất phổ biến trong
khoa học pháp lý, tòa án chính là Cơ quan tư pháp của một quốc gia, bởi vì tòa án
là nơi mà quyền tư pháp của một quốc gia được thi hành một cách đầy đủ nhất;
hoạt động xét xử của Tòa án thể hiện đầy đủ nhất các đặc điểm của quyền tư pháp.
2. Đặc điểm:
Có 04 đặc điểm liên quan đến hệ thống tòa án:
- Thẩm quyền của tòa án: Hầu hết các bản Hiếp pháp trên thế giới đều quy
định rõ ràng tòa án có thẩm quyền thực hiện quyền tư pháp quốc gia.
- Cơ cấu tổ chức: Mặc dù tùy thuộc vào hình thức nhà nước và đặc điểm tổ
chức bộ máy nhà nước nhưng các hệ thống tòa án nói chung đều được tổ chức theo
cấp xét xử.
- Nguyên tắc độc lập của thẩm phán: Đều quy định Thẩm phán xét xử độc
lập.
- Các nguyên tắc khác: Nguyên tắc xét xử công khai minh bạch, nguyên tắc
tranh tụng bình đẳng...
II. So sánh hệ thống tòa án Anh và hệ thống tòa án Mỹ
Về hệ thống tòa án Anh, quyền tư pháp được thể hiện tập trung, phù hợp với
chính thể quân chủ lập hiến ở Anh. Tuy nhiên, Anh quốc không có hệ thống tòa án
đơn nhát được tổ chức chặt chẽ và các tòa án cũng không được phát triển một cách
đồng bộ với các quyền hạn chồng chéo. Bên cạnh đó, việc sử dụng luật bất thành
văn cũng dẫn đến sự bất ổn định trong hệ thống tòa án.
Về hệ thống tòa án Mỹ, đây không những là một thành tựu về xây dựng và
tổ chức hệ thống pháp lý mà còn được coi như một mô hình tham chiếu thực tiễn
rộng rãi của nhiều quốc gia khác. Kiến trúc cơ bản của hệ thống này là một thừa kế

tiến bộ của hơn 1000 năm truyền thống pháp lý thông luật của Vương quốc Anh.


Sự hoạt động độc lập và hiệu quả của tòa án đã đóng góp to lớn vào sự thành công
trong các lĩnh vực kinh tế, dân chủ, dân sinh và nhân quyền, bên cạnh đó ngăn
chặn và hóa giải những xung đột sâu sắc có thể đã diễn ra trong xã hội cực kỳ đa
dạng về chủng tộc, văn hóa, và khuynh hướng tư tưởng tại Hoa Kỳ. Bên cạnh
những thành tựu, hệ thống tòa án Mỹ vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Các hệ thống
tòa án tiểu bang tương đối đa dạng và không đồng đều, bị phụ thuộc vào những
khung pháp lý khác nhau cũng như trình độ phát triển và tổ chức rất khác biệt ở
mỗi bang. Hơn nữa, quan hệ giữa các tòa án và giữa các bộ luật liên bang và tiểu
bang tương đối phức tạp, dẫn đến sự phức tạp trong việc áp dụng án lệ nào của tòa
nào và trong án cụ thể nào.
Dưới đây là nội dung so sánh cụ thể về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền của 02
hệ thồng tòa án này:
1. Sự tương đồng giữa hệ thống tòa án Anh và hệ thống tòa án Mỹ
1.1. Thừa nhận tiền lệ pháp như một nguồn luật
Do cùng thuộc dòng họ pháp luật Common Law nên cả Anh và Mỹ đều thừa
nhận tiền lệ pháp như một nguồn luật.
Ở Mỹ, khi xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và các tranh chấp nảy sinh,
các tòa án cần phải diễn giải luật bằng các bản án trước đó của Tòa án cùng cấp
hoặc Tòa án cấp cao hơn. Đây được gọi là nguyên tắc theo quyết định trước hay
đơn giản gọi là án lệ, tiền lệ pháp. Nếu phải đối mặt với các án lệ bất lợi, bị đơn sẽ
tìm cách phân biệt sự khác nhau giữa vụ việc của mình với những vụ việc trước đó.
Sau đó Tòa án cấp cao hơn sẽ tìm cách giải quyết mâu thuẫn này để bổ sung cho án
lệ ngày một hoàn chỉnh hơn.
Ở Anh Quốc, vai trò sáng tạo của án lệ rất quan trọng, được thể hiện theo
quy tắc của tiền lệ pháp đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ XIX được hiểu như một qui
tắc đã được lập ra trong một phán quyết ban hành trước đó chỉ có hiệu lực ràng
buộc đối với các thẩm phán khi xét xử các vụ kiện tương tự. Việc xây dựng án lệ

theo quan điểm xét xử của các tòa án có thẩm quyền xem xét bản án của tòa án cấp
dưới đã góp phần bổ sung tốt sự thiếu sót của các qui định luật pháp trong thực
tiễn, nên việc vận dụng án lệ kể cả tục lệ pháp được thực hiện khá phổ biến.
1.2. Hệ thống tòa án đều phân cấp xét xử.
Hệ thống tòa án Anh và Mỹ đều phân cấp xét xử.Hệ thống tòa án liên bang
tại Mỹ gồm có 3 cấp độ: tòa án địa phương (tòa sơ thẩm), tòa án khu vực là cấp
phúc thẩm đầu tiên, và Tòa án Tối cao Hoa Kỳ - cấp phúc thẩm cao nhất trong hệ
thống liên bang. Có tất cả 94 tòa án địa phương, 13 tòa án khu vực, và 1 tòa án Tối
cao trên cả nước. Còn trong hệ thống tòa án Vương quốc Anh, cấp cơ sở bao gồm
tòa địa hạt, tòa pháp quan; tòa án cấp cao bao hồm tòa Nữ hoàng, tòa gia đình, tòa
đại pháp, tòa phúc thẩm, tòa án hình sự trung ương và cấp xét xử cao nhất là Tòa
án tối cao Vương quốc Anh.


1.3. Chế độ thẩm phán: thẩm phán ở Anh và thẩm phán ở tòa án Liên bang
Mỹ đều có nhiệm kì suốt đời.
2. Sự khác biệt giữa hệ thống tòa án Anh và hệ thống tòa án Mỹ
2.1. Cơ cấu tổ chức của hệ thống tòa án
Hệ thống tòa án Anh bao gồm các tòa án cấp cơ sở và tòa án cấp cao. Ở tòa
án cấp cơ sở thì bao gồm Tòa án Địa hạt (County Courts) và Tòa án Pháp quan
(Magistrates’ Courts). Tòa án Địa hạt là cấp xét xử thấp nhất trong cấp tòa án dân
sự và chỉ được xét xử trong lĩnh vực dân sự. Gần tương tự, tòa án Pháp quan
(Magistrates court) là tòa án cấp thấp nhất trong hệ thống tòa án xét xử nhưng xét
xử ở lĩnh vực hình sự. Tòa án này được thiết lập ở Anh với mục đích xử lí những
tội nhẹ, những vụ việc nghiêm trọng hơn sẽ được gửi lên Tòa án Trung ương. Một
số vụ việc hình sự giải quyết ở đây là những vụ phạm tội có tính chất ít nghiêm
trọng nhất. Chúng bao gồm những tội như lái xe ẩu, phá hoại, gây tổn thất ở phạm
vi nhỏ, hành vi bạo lực ở mức độ thấp,… Đôi khi tòa án Pháp quan còn có thẩm
quyền xử lí một số vụ việc dân sự liên quan đến nghĩa vụ tài chính đối với Nhà
nước và những vụ về quan hệ gia đình.

Cao hơn tòa án ở cấp cơ sở là tòa án cấp trên (Senior Court). Đây là tòa án
quan trọng nhất ở Anh, gồm có Tòa phúc thẩm (Court of Appeal), Tòa cấp cao
(High Court) và Tòa trung ương (Crown Court). Trong từng Tòa lại chia ra làm
nhiều tòa nhỏ hơn nữa, cụ thể là Tòa cấp cao có Tòa Nữ hoàng chuyên trách, Tòa
Đại pháp chuyên trách, Tòa Gia đình chuyên trách. Tòa Nữ hoàng có hai vai trò
chính là tòa xét xử phạm vi rộng lớn các vụ việc về luật hợp đồng, về bồi thường
thương tật cá nhân nhưng Tòa cũng có trách nhiệm đặc biệt như một tòa giám sát.
Tòa thay mặt Nữ hoàng giám sát tất cả các tòa án cấp dưới và các cơ quan của
Chính phủ. Tòa Đại pháp thì giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến kinh doanh,
tài sản đất đai; tranh chấp thương mại; quyền sở hữu trí tuệ và hiệu lực của di trúc.
Tòa Gia đình chuyên giải quyết những vụ việc li dị, nuôi con, tài sản, điều trị bệnh.
Một thành phần nữa của tòa án cấp trên là Tòa án trung ương. Tòa Trung ương
chính là nơi có thẩm quyền xét xử những vụ việc hình sự nghiêm trọng va một vài
vụ việc dân sự, không những vậy Tòa này còn có thẩm quyền xét xử phúc thẩm
những vụ việc bởi tòa pháp quan khi có kháng cáo. Bộ phận cuối cùng của tòa án
cấp trên là Tòa phúc thẩm. Chức năng chính của Tòa là xét xử những vụ việc dân
sự và hình sự đã được xét xử bởi Tòa cấp cao và Tòa địa hạt.
Khác với hệ thống tòa án của Anh, hệ thống tòa án ở Mỹ lại là hệ thống tòa
án kép là hệ thống tòa an Bang và hệ thống tòa án Liên bang. Hệ thống tòa án Liên
bang từ cao xuống dưới thấp có: tòa án tối cao, 13 tòa án lưu động phúc thẩm và 94
tòa án quận. Tòa án quận có thẩm quyền xét xử hầu hết các vụ tranh tụng bản án,
hoặc quyết định của tòa án quận có thể bị đương sự đề nghị xem lại ở tòa án phúc
thẩm. Tòa án phúc thẩm thì được tổ chức theo vùng, mỗi vùng gồm ba Bang hoặc
nhiều hơn. Mỹ hiện nay có 11 tòa án phúc thẩm liên bang. Trong tòa án Bang lại


chia ra làm hai cấp tòa án nhỏ là tòa án sơ thẩm cấp quận và tòa án cấp phúc thẩm.
Tòa án sơ thẩm cấp quận xét xử chủ yếu những vụ việc hình sự cũng như dân sự.
Phán quyết của tòa án sơ thẩm lại tiếp tục có thể kháng cáo lên lên Tòa tối cao của
bang hoặc Tòa phúc thẩm cuối cùng của bang. Tòa án tối cao Liên bang chủ yếu

xử phúc thẩm những vụ việc đã được giải quyết bởi tòa phúc thẩm của bang và có
quyền quyết định lựa chọn những vụ việc để xử phúc thẩm . Phán quyết của tòa án
này là quyết định cuối cùng.
2.2. Thẩm quyền của các tòa án
Ngoài thẩm quyền xét xử mà bất kì các tòa án trên thế giới nào cũng có, Tòa
án Anh và Mỹ còn có những chức năng riêng biệt khác. Như chúng ta đã biết, hệ
thống pháp luật anh là hệ thống pháp luật common law, vì vậy nên nguồn luật
chính của mà các tòa án Anh hay dùng chính là án lệ. Các án lệ ấy được tạo ra
trong quá trình xét xử bởi các thẩm phán tiền bối trong cá bản tuyên án trong quá
khứ. Và chúng ta có thể hiểu rằng, Tòa án ở Anh còn có cả chức năng tạo ra luật.
Và thẩm phán trong hệ thống tòa án Anh đóng vai trò quan trọng trong việc sáng
tạo và phát triển các quy phạm pháp luật. Hơn nữa, nếu ở Anh, Hiến pháp không
được coi trọng, thậm chí là Anh còn không có hiến pháp thành văn thì ở Mỹ, các
tòa án lại rất coi trọng hiến pháp và mỗi khi ban hành một luật mới, hoặc xét xử
một vụ việc, Tòa án Mỹ đều phải xét đến tính hợp hiến.
2.3. Phương thức hoạt động của tòa án
Ở Anh mỗi tòa án buộc phải tuân thủ theo các quyết định của tòa án cấp cao
hơn trong cùng một hệ thống. Phán quyết của những tòa án ngang cấp với nhau chỉ
có giá trị tham khảo. Còn ở Mỹ, hệ thống tư pháp được tòa án tiến hành thông qua
tranh tụng và phán quyết của các tòa án tối cao cấp liên bang không chịu sự ràng
buộc của chính mình; tòa án bang không bị bắt buộc tuân thủ án lệ của các bang
khác.
2.4. Chế độ bổ nhiệm thẩm phán
Ở Anh, thẩm phán tại Anh được Ủy ban tư pháp lựa chọn và bổ nhiệm. Ủy
ban này hoạt động một cách độc lập không chịu sự ảnh hưởng của bất kì một tổ
chức nào. Để làm được thẩm phán, các ứng viên phải có bằng cấp luật tương ứng
và kinh nghiệm phục vụ ít nhất năm năm trong ngành. Ở Mĩ áp dụng mô hình
tuyển chọn thẩm phán theo dạng tranh cử, vận động ủng hộ. Mô hình này thường
được sử dụng dựa trên chuyên môn kinh nghiệm và năng lực vận động thuyết phục
của ứng viên. Theo đó ứng cử viên phải đảm bảo những phẩm chất vượt trội của

một thẩm phán tiềm năng. Cụ thể về năng lực chuyên môn, thẩm phán thường là
những luật sư giỏi có năng lực vượt trội về chuyên môn điều này được thể hiện qua
uy tín và danh tiếng trong sự nghiệp của họ. Bên cạnh đó thẩm phán phải có thành
tích trong lĩnh vực chính trị. Thẩm phán liên bang do tổng thống bổ nhiệm và được
thượng viện bỏ phiếu phê chuẩn. Để làm được làm thẩm phán thì phải trải qua
công tác luật sư trong vòng 6 năm.


2.5. Tính độc lập của tòa án
Ở Anh, nghị viện là cơ quan lập pháp đồng thời cũng là cơ quan cao nhất
trong hệ thống tòa án Anh. Nghị viện cũng trở thành cấp xét xử cuối cùng với đối
với tất cả các vụ án hình sự và dân sự ở Anh.Tiếp theo đó là thượng nghị viện thực
hiện chức năng xét xử thông qua Ủy ban phúc thẩm của thượng nghị viện. Còn ở
Mỹ, do áp dụng mô hình tam quyền phân lập nên tòa án là cơ quan độc lập với
hành pháp và lập pháp, là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống tòa án. Tòa án tối
cao là cấp xét xử cuối cùng, những phán quyết của tòa án tối cao chỉ có thể sửa đổi
bằng thủ tục sửa đổi Hiến pháp.
2.6. Cách áp dụng các đạo luật của tòa án
Ở Anh, luật bất thành văn được áp dụng cho tòa án áp dụng thông luật, luật
thành văn áp dụng cho các tòa án Công bình. Nhưng ở Mỹ, luật thành văn lại được
áp dụng trong các đạo luật để xét xử. Khi không có sự khống chế của các quy định
hiến pháp và đạo luật, tòa án liên bang và bang thường đối chiếu với thông luật.
Tầm quan trọng của án lệ của từng hệ thống tòa án cũng là rất khác. Án lệ được coi
là nguồn luật chính thống và chủ yếu ở nước Anh. Ở Anh người ta coi trọng án lệ,
vì cho rằng đây là phương thức đạt được công lý. Đó là khi các bên đương sự trong
các vụ án tương tự phải nhận được những phán quyết tương tự, nếu không pháp
luật trở nên bất công và tùy tiện; pháp luật được đặt ra và áp dụng một cách công
bằng, nhất quán và xác đáng hay thỏa đáng. Khi một nền pháp luật tạo ra và bảo
đảm được ba giá trị đó thì xã hội sẽ có công lý. Nhưng đối với tòa án Mỹ, án lệ ít
quan trọng hơn và chúng chỉ được áp dụng cho các tòa án cấp trên.

3. Lý giải sự tương đồng và khác biệt trong hệ thống tòa án của Anh và
Mỹ
3.1. Lý giải sự tương đồng
Common Law là dòng họ pháp luật có cội nguồn từ hệ thống pháp luật Anh.
Vì vậy, các quốc gia có hệ thống pháp luật thuộc dòng họ này đều chịu ảnh hưởng
từ hệ thống pháp luật Anh, trong đó có Mỹ. Pháp luật Anh tác động và ảnh hưởng
mạnh mẽ ở nước Mỹ trước khi cuộc Cách mạng Mỹ năm 1776, nó là một phần của
luật pháp của Hoa Kỳ thông qua quy chế tiếp nhận, ngoại trừ ở Louisiana từ đó
Pháp luật Anh và cung cấp cơ sở nền tảng cho truyền thống pháp lý và chính sách
ở Mỹ mặc dù nó không có thẩm quyền thay thế pháp luật.
3.2. Lý giải sự khác biệt
Nước Mỹ ra đời là sự liên hợp của 13 nước thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ.
Người Anh đã mang hệ thống luật của mình đến với các thuộc địa này. Mặc dù có
nguồn gốc từ hệ thống pháp luật Anh nhưng từ sau năm 1776, khi Mỹ tuyên bố độc
lập, hệ thống pháp luật cũng như hệ thống tòa án của hai nước đã phát triển theo
những hướng khác nhau, kéo theo những sự khác biệt nhất định giữa hai hệ thống
tòa án. Một trong những điểm dễ thấy nhất giải thích cho sự khác biệt giữa hai tòa
án này là đặc điểm về mặt địa lý. Mỹ là lãnh thổ rộng lớn thứ ba trên thế giới với


diện tích là 9 629 091 , bao gồm 50 bang, lại có dân số chủ yếu là dân nhập cư, đa
tôn giáo, đa sắc tộc đi cùng với lối sống đặc trưng về nền kinh tế và xã hội vì vậy
dễ hiểu vì sao Mỹ lại thiết lập tòa án theo Bang gồm các tòa án Liên Bang và các
tòa án Bang. Sự thiết lập này giúp cho sự quản lí nằm trong tầm kiểm soát. Bên
cạnh đó, việc tổ chức dưới dạng cộng hòa liên bang của nước Mỹ đã tạo nên sự độc
lập của riêng mình, các bang không chỉ có chính phủ riêng mà còn có cả hiến pháp
riêng nữa mặc dù hầu hết các mô hình hiến pháp bang được soạn thảo theo mô
hình hiến pháp liên bang. Trong khi đó, Anh chỉ là một quốc đảo nhỏ với diện tích
130 279 , có dân cư gần như thuần nhất vì thế nên tòa án Anh được thiết lập theo
khu vực (Tòa án khu vực) và có tòa nữ Hoàng để đại diện cho Hoàng gia.

Bên cạnh đó, sự thiếu tin tưởng của vào tiền lệ pháp của người Mỹ thuở ban
đầu, chủ yếu là vì tiền lệ pháp có nguồn gốc từ Anh, xứ sở không được người Mỹ
ưa chuộng sau chiến tranh giành chủ quyền độc lập; một phần là do thái độ của
người Mỹ đối với những phán quyết trong quá khứ đã bị tác động bởi những sự
thay đổi nhanh chóng, trên quy mô phát triển kinh tế - xã hội. Tư tưởng tôn kính
tiền lệ pháp của người Anh cũng khác quan điểm truyền thống của người Mỹ vì
thực tế người Mỹ đến từ nhiều tôn giáo, chủng tộc và xã hôi khác nhau, do đó sự
chấp nhận quyền lực của một cái gì đó dù là án lệ, một cách thụ động không phải là
nét tiêu biểu của người Mỹ.
III. Liên hệ đối với hệ thống tòa án tại Việt Nam hiện nay
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Tòa án là một cơ quan thực thi pháp luật
quan trọng. Hơn 40 năm qua, các Toà án thuộc hệ thống Tòa án Việt Nam đã góp
phần đắc lực vào bảo toàn lãnh thổ quốc gia, bình ổn trật tự đời sống người dân
Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 quy định về vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân
như sau:
1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do
luật định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
Hệ thống Tòa án của nước ta hiện nay bao gồm:
- Tòa án nhân dân tối cao.
- Tòa án nhân dân cấp cao.
- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
- Tòa án quân sự.
Có thể thấy, hệ thống tòa án Việt Nam cũng có một số điểm tương đồng với
hệ thống tòa án Anh và Mỹ như đều phân thành nhiều cấp xét xử khác nhau từ



trung ương tới địa phương, đều có 2 cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm được chia
thành vụ việc hình sự và vụ việc dân sự; trong quá trình xét xử có sự tham gia của
đại diện nhân dân (Hội thẩm nhân dân) tuân thủ nguyên tắc xét xử công khai và
độc lập; áp dụng chế độ bổ nhiệm đối với thẩm phán.
Tuy nhiên, trước những xu thế phát triển của các Nhà nước hiện đại sẽ kéo
theo sự thay đổi của hệ thống cơ quan tư pháp. Hệ thống tòa án Việt Nam đã và
đang bộ lộ những thiếu sót và cần vận dụng linh hoạt những ưu điểm trong hệ
thống tòa án của hai quốc gia đứng đầu trên thế giới, đặc biệt là trong việc hoàn
thiện Tòa án Nhân dân tối cao.
Để tiến hành cải cách tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu mới của đất nước,
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 “Về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Thông qua việc triển
khai tổ chức thực hiện Nghị quyết, đã tạo ra được một số chuyển biến mạnh mẽ
trong nhận thức của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương về tính
cấp thiết và yêu cầu khách quan của việc đẩy mạnh cải cách tư pháp.Thực tiễn
đất nước ta đặt ra những nhu cầu cải cách tư pháp sâu rộng, do vậy, ngày 02-62005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW “Về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020; theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, có hai vấn đề
quan trọng về tổ chức và hoạt động mà ngành Tòa án nhân dân cần thực hiện: Thứ
nhất là đổi mới hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân; Thứ hai là nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa và phát triển án lệ.
Ở Việt Nam hiện nay, chỉ có Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
được thực hiện chức năng hủy bỏ, thay thế án lệ, quy định này sẽ mang lại tính
cứng nhắc cho thực tiễn án lệ, bởi nếu thời gian tới khi các phán quyết của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh có thể được thông qua án lệ, trong quá trình áp dụng án lệ nếu
phát hiện những án lệ không còn phù hợp với thực tiễn cũng phải theo quy trình đề
xuất Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét hủy bỏ, thay thế án lệ.
Quy định này cũng sẽ dẫn tới hệ quả thụ động của các cấp Tòa án khác, không phát
huy hết năng lực thực tiễn trong việc nghiên cứu, vận dụng loại nguồn án lệ. Với

những hạn chế này, nếu tham khảo quy định về hủy bỏ, thay thế án lệ trong thông
luật Mỹ sẽ mang lại hiệu quả cao cho quy định án lệ Việt Nam. Ở Mỹ, án lệ có thể
bị bãi bỏ bởi chính Tòa án đã tạo ra nó hoặc một Tòa án cấp cao hơn Tòa án đã tạo
ra án lệ. Như vậy, thẩm quyền hủy bỏ án lệ ở Mỹ rộng hơn, các Tòa án có thẩm
quyền tạo ra án lệ cũng có thể linh hoạt trong việc hủy bỏ án lệ đó.
Ngoài ra, hiện tại cơ chế giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật ở
nước ta nếu xét trên bình diện bảo hiến (chỉ tập trung vào việc phán xét việc tuân
thủ Hiến pháp) thì có quá nhiều bất cập, như: cơ chế giám sát quá nhiều chủ thể và
nhiều tầng nấc làm hạn chế và lu mờ vai trò giám sát tối cao của Quốc hội đông
thời làm hạn chế, giảm đi tính tối cao, tính hiệu lực của hoạt động đó; chưa phân
biệt giám sát Hiến pháp với các loại giám sát khác dẫn đến việc giám sát bản thân


Quốc hội còn bỏ ngỏ. Trong khi đó, tại Mỹ, mô hình giám sát Hiến pháp với Tài
phán Hiến pháp không tách rời và được tập trung quyền lực ở Tòa án tối cao Liên
bang Mỹ. Mô hình này thông qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể, dựa vào các
đơn kiện của đương sự, các sự kiện pháp lý cụ thể mà bảo vệ Hiến pháp. Với mô
hình này, bảo hiến không trừu tượng vì nó liên quan đến những vụ việc cụ thể nên
bảo vệ Hiến pháp một cách cụ thể. Là một trong những nước đi đầu về cơ chế bảo
vệ Hiến pháp, mô hình bảo hiến của Mỹ rất đáng để cho nước ta tham khảo, học
hỏi và áp dụng vào hệ thống tòa án nhân dân, đặc biệt là Tòa án Nhân dân tối cao
để có thể nâng cao hiệu quả xét xử, đưa đất nước đến gần hơn với mục tiêu công
bằng - dân chủ - văn minh.


LỜI KẾT
Sau quá trình nghiên cứu đề tái “ So sánh cơ cấu tổ chức và thẩm quyền của
hệ thống tòa án Anh và Mỹ, gợi mở đối với hệ thống Tòa án ở Việt Nam”, chúng ta
đã có thêm kiến thức về hệ thống tòa án của quốc gia Anh, Mỹ - hai đại diện kinh
điển cho dòng họ Common law. Việc tiếp cận cùng một lĩnh vực của các quốc gia

khác nhau dưới góc độ so sánh góp phần củng cố và hoàn thiện hệ thống tòa án
nước nhà. Thông qua việc so sánh hai tòa án tối cao Anh – Mỹ đã cho chúng ta
thấy được các điểm mạnh nào cần phát triển hơn nữa, các điểm yếu nào cần cải
thiện hoặc lược bỏ trong hệ thống tòa án Việt Nam. Các điểm khác biệt giữa cơ chế
giám sát Hiến pháp của Việt Nam và mô hình bảo hiến của Mỹ cho thấy ý nghĩa
quan trọng của cơ chế bảo hiến ngày càng được thừa nhận và được chứng minh
trong quá trình của pháp luật. Đây là một điểm đáng chú ý trong việc sửa đổi cơ
chế bảo hiến, hoàn thiện hệ thống tòa án Việt Nam.



×