HOẠT ĐỘNG MARKETING CỦA CÁC DOANH NGHIỆP LỮ
HÀNH
1.1 KHÁI QUÁT VỀ MARKETING VÀ MARKETING TRONG KINH
DOANH LỮ HÀNH
1.1.1 Tìm hiểu về Marketing và Marketing trong kinh doanh lữ hành
Khái niệm Marketing
Việc áp dụng khoa học nghiên cứu Marketing của các cở sở thương mại
đã gia tăng liên tục trong vòng 50 qua kể từ khi các nhà quản lý đã phải trả một
giá quá đắt trong kinh doanh do sự mù tịt về thị trường. Việc áp dụng khoa học
nghiên cứu Marketing hiện nay đã được mở rộng đến các tổ chức chính trị,phi
thương mại. Nhà quản lý hiện đại phải biết phương pháp của nó (nghiên cứu
Marketing) cũng như làm thế nào để sử dụng nó một cách có hiệu quả.
Thoạt đầu, marketing xuất hiện như là những hành vi rời rạc gắn với
những tình huống trao đổi nhất định. Như vậy, có thể nói rằng marketing xuất
hiện gắn liền với trao đổi hàng hoá. Nhưng điều đó không có nghĩa là marketing
xuất hiện đồng thời với trao đổi mà thực ra các hành vi marketing chỉ xuất hiện
khi trao đổi ở trong một trạng thái hay tình huống nhất định: hoặc là người bán
phải tẩm mọi cách cố gắng bán được hàng, hoặc khi người mua tìm mọi cách để
mua được hàng. Có nghĩa là tình huống trao đổi làm xuất hiện marketing khi
người ta phải cạnh tranh để bán hoặc để mua. Như vậy, nguyên nhân sâu xa làm
xuất hiện marketing là cạnh tranh.
Đây là một cách hiểu khá đơn giản về Marketing, vì ở đây người ta coi hoạt
động Marketing chỉ đơn thuần là hoạt động nhằm mục đích bán được hàng hoá
trong trao đổi. Thực ra, đây chính là nguồn gốc sâu xa của Marketing hiện đại.
Ngay từ khi xuất hiện trao đổi người mua và người bán đã cố gắng bằng mọi
khả năng để mong bán được sản phẩm của mình và mua được những gì mình
thích. Đối với người bán, mục tiêu thu lời đã thúc đẩy họ, phải làm sao bán
được nhiều hàng hoá với giá cao. Còn đối với người mua, họ mong muốn tìm
được những loại hàng hoá thỏa mãn tốt nhát nhu cầu của mình với mức giá chấp
nhận được. Trong kinh doanh lữ hành, chúng ta chỉ thấy rõ những hoạt động
Marketing của người tổ chức và bán tour du lịch: họ phải nghiên cứu thị trường
khách du lịch, đưa ra những chương trình du lịch thật hấp dẫn và đáp ứng các
nhu cầu của từng đối tượng khách. Và rồi họ còn phải đưa ra các chiến lược
nhằm thu hút được khách du lịch tìm đến với sản phẩm của mình. Cuối cùng là
việc tổ chức chương trình du lịch, đây cũng là khâu quan trọng và cần sự đóng
góp của hoạt động Marketing. Nhưng không chỉ có người bán mới cần làm
Marketing, trong lữ hành ngơừi khách du lịch họ cũng cần là Marketing để có
được những chương trình du lịch phù hợp với mình. Thông qua các phương tiện
thông tin, khách du lịch đưa ra các mong muốn sỏ thích và khả năng chi trả của
bản thân và đưa lên mạng, và đó sẽ trở thành nguồn dữ liệu cho các nhà cung
cấp tổ chức tour chào bán san phẩm của minh đên đúng khách hàng nhất.
Trong thực tiễn, hành vi marketing xuất hiện rõ nét từ khi nền đại công
nghiệp cơ khí phát triển đã thúc đẩy tăng nhanh sức sản xuất và làm cho cung
hàng hoá có chiều hướng vượt cầu. Khi đó buộc các nhà kinh doanh phải tìm
những giải pháp tốt hơn để tiêu thụ hàng hoá. Bằng chứng là từ rất xa xưa ,
trước thế kỉ xx, các thương gia người Anh , Trung Quốc.. đã biết thực nghiệm
nhiều phương châm phản ánh hành vi marketing trong trao đổi hàng hoá như:
"hãy làm vui lòng khách hàng" " không để khách hàng phải thắc mắc khi mua
hàng" " khách hàng có toàn quyền lựa chọn khi mua hàng"; " khách hàng mua
phải hàng kém phẩm chất thì đổi cho họ hàng tốt" … nhờ những phương châm
trên nên tốc độ tiêu thụ hàng hoá được gia tăng , nhưng sự bế tắc trong tiêu thụ
hàng hoá vẫn dần dần xuất hiện. Kết hợp với phương châm trên, các thương gia
đã tiến tới thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt hơn nhằm làm cho khách hàng
ham mua hơn như: bán hàng có quà tặng , có giải thưởng , mua nhiều hoặc mua
thường xuyên được giảm giá … Quá trình tìm kiếm các giải pháp tốt hơn để
thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hoá làm cho các hoạt động marketing ngày càng
phát triển và là cơ sở để hình thành một khoa học hoàn chỉnh về marketing.
Trên thế giới, việc vận dụng marketing lúc đầu diễn ra phổ biến ở các công
ty sản xuất hàng tiêu dùng đóng gói, các công ty sản xuất các thiết bị công
nghiệp. Tiếp theo marketing được ứng dụng trong lĩnh vực sản xuất các vật liệu
như: thép, hoá chất, giấy, và những thập kỉ vừa qua, marketing được đánh giá
cao bởi các ngành kinh doanh dịch vụ tiêu dùng , hàng không và ngân hàng.
Các nhóm hành nghề tự do bao gồm: các nhà luật sư, kiểm toán, bác sĩ và các
kiến trúc sư là những người quan tâm đến marketing muộn màng nhất, ngày
nay, marketing được áp dụng cả trong kinh doanh quốc tế và lĩnh vực phi
thương mại. và không thể không nhắc đến hoạt động marketing trong du lịch
một ngành công nghiệp mũi nhọn của rất nhiều các quốc gia hiện nay.
Cho đến nay nhiều người vẫn lầm tưởng marketing với việc chào hàng
(tiếp thị) , bán hàng và các hoạt động kích thích tiêu thụ. Vì vậy, họ quan niệm
marketing chẳng qua là hệ thống các biện pháp mà người bán hàng sử dụng
nhằm bán được hàng và thu được tiền về.
Thực ra tiêu thụ chỉ là một trong những khâu của hoạt động marketing của
doanh nghiệp, mà hơn thế nữa đó lại không phải là khâu quan trọng nhất. Một
hàng hoá kém thích hợp với đòi hỏi của người tiêu dùng, chất lượng thấp, kiểu
dáng kém hấp dẫn, giá cả đắt… thì dù cho người ta có tốn bao nhiêu công sức
và tiền của để thuyết phục khách hàng thì việc mua chúng vẫn rất cần hạn chế .
Ngược lại, nếu như nhà kinh doanh tìm hiểu kỹ lưỡng nhu cầu của khách hàng,
tạo ra những mặt hàng phù hợp với họ, quy định một mức giá thích hợp, có một
phương thức phân phối hấp dẫn và kích thích tiêu thụ có hiệu quả thì chắc chắn
việc bán những hàng hoá đó sẽ trở nên dễ dàng hơn. Cách làm như vậy thể hiện
sự thực hành quan điểm marketing hiện đại. Người ta định nghĩa marketing hiện
đại như sau:
Marketing là quá trình xúc tiến với thị trường nhằm thoả mãn những nhu
cầu và mong muốn của con người. hoặc marketing là một hoạt động của con
người (bao gồm cả tổ chức) nhằm thoả mãn các nhu cầu và mong muốn thông
qua trao đổi.
Thông thường, người ta cho rằng marketing là công việc của người bán,
nhưng hiểu một cách đầy đủ thì cả người mua cũng phải làm marketing. trên thị
trường bên nào tích cực hơn trong việc tìm kiếm cách trao đổi với bên kia, thì
bên đó thuộc về phía làm marketing.
Khái niệm marketing trên đây được xây dựng trên cơ sở hàng loạt khái
niệm cơ bản khác. Vậy qua khỏi niệm trên về marketing, chúng ta đó thấy được
rằng, hoạt động marketing không đơn thuần chỉ là hoạt động quảng cáo, tiếp thị
sản phẩm, mà đó là toàn bộ các hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, đánh
giá thị trường để đáp ứng những nhu cầu, mong muốn của con người. Ngoài ra
còn có rất nhiều các khái niệm về marketing, nhưng chúng ta hãy tìm hiểu hai
khái niệm cơ bản về Marketing trong kinh doanh lữ hành . Dưới đây ta sẽ
nghiên cứu các khái niệm đó.
Marketing trong kinh doanh lữ hành
Trong lĩnh vực du lịch, định nghĩa Marketing dựa trên cơ sở sáu nguyên tắc
cơ bản:
1. Thỏa mãn những nhu cầu và mong muốn của khách hàng
2. Bản chất liên tục của Marketing : Marketing là một hoạt động quản lý
liên tục chứ không chỉ đưa ra các ý tưởng các quyết định la xong.
3. Sự tiếp nối trong Marketing : Marketing tốt là tiến trình gồm nhiều bước
tiếp nối nhau.
4. Nghiên cứu Marketing đóng vai trò then chốt: nghiên cứu để nắm bắt
được nhu cầu và mong muốn của khách là đảm bảo Marketing có hiệu
quả.
5. Sự phụ thuộc lẫn nhau và các công ty lữ hành và khách sạn.
6. Một cố gắng sâu rộng và của nhiều bộ phận trong công ty : Marketing
không phải công việc của một bộ phận trong công ty mà là sự hợp tác,
làm việc giữa các bộ phận trong toàn công ty.
Marketing lữ hành còn có những đặc điểm riêng khác và cụ thể trong việc
kinh doanh lữ hành và du lịch.
1. Thời gian tiếp cận với các dịch vụ ngắn hơn.
2. Hấp dẫn mua của khách du lịch dựa trên tình cảm và sự tin tưởng.
3. Hình tượng và tầm cỡ của công ty lữ hành.
4. Đa dạng và nhiều loại kênh phân phối hơn.
5. Sự phụ thuộc nhiều vào các tổ chức bổ trợ.
6. Việc sao chép các dịch vụ dễ dàng hơn.
7. Nên chú ý vào việc khuyến mại ngoài thời kỳ cao điểm.
1.1.2 Môi trường Marketing
Để hiểu được ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tới hoạt động
marketing, ta cần biết hệ thống hoạt động Marketing tồn tại như thế nào trong
các doanh nghiệp.
Trung tâm là khách hàng mục tiêu. Khách hàng là đối tượng mà mọi nỗ lực
Marketing cần phải hướng vào để thoả mãn nhu cầu của họ. Những nỗ lực
Marketing đó suy cho cùng phải được thể hiện qua 4 yếu tố Marketing-mix là:
sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến hỗn hợp. Các biến số Marketing-mix là
sản phẩm tất yếu của hệ thống thu thập thông tin marketing, lập kế hoạch
Marketing, tổ chức thực hiện Marketing và kiểm tra Marketing. Các quá trình
này cũng gắn bó chặt chẽ với nhau, thông tin Marketing cần thiết cho việc lập
kế hoạch marketing, kế hoạch Marketing muốn biến thành hiện thực phải thông
qua khâu tổ chức thực hiện và để việc ăn khớp với kế hoạch hoặc phải điều
chỉnh kế hoạch trong những tình huống nhất định cần phải thông qua kiểm tra
marketing. Toàn bộ các hệ thống trên đặt dưới sự tác động của môi trường
Marketing.
Vậy môi trường Marketing là gì, chúng ta hãy cùng tìm hiểu:
Môi trường Marketing là tổng hợp tất cả các yếu tố, những lực lượng bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt
động hoặc các quyết định của bộ phận Marketing trong doanh nghiệp, đến khả
năng thiết lập hoặc duy trì mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng.
Những thay đổi của môi trường Marketing ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ
tới các doanh nghiệp, bao gồm cả ảnh hưởng tốt và xấu tới kinh doanh. Môi
trường không chỉ có những thay đổi, những diễn biến từ từ và dễ dàng phát
hiện và dự báo mà nó còn luôn tiềm ẩn những biến động khôn lường; thậm chí
những cú sốc.
Như vậy, môi trường Marketing tạo ra cả những cơ hội thuận lợi và cả
những sức ép, sự đe doạ cho tất cả các nhà kinh doanh. Điều căn bản là họ phải
sử dụng các công cụ nghiên cứu marketing, các hệ thống Marketing ra sao để
theo dõi, nắm bắt và xử lý nhạy bén các quyết định Marketing nhằm thích ứng
với những thay đổi từ phía môi trường.
Môi trường Marketing là tập hợp của môi trường Marketing vi mô và môi
trường Marketing vĩ mô. Môi trường Marketing vi mô bao gồm các yếu tố liên
quan chặt chẽ đến doanh nghiệp và nó ảnh hưởng đến khả năng của doanh
nghiệp khi phục vụ khách hàng. Đó là các nhân tố nội tại của công ty, các kênh
marketing, thị trường khách hàng, người cạnh tranh, người cung cấp, các tổ
chức trung gian v.v... Trong một chừng mực nhất định, doanh nghiệp có thể tác
động để cải thiện môi trường Marketing vi mô.
Môi trường Marketing vĩ mô bao gồm các yếu tố, các lực lượng mang tính
chất xã hội rộng lớn, chúng có tác động ảnh hưởng tới toàn bộ môi trường
Marketing vi mô và tới các quyết định Marketing của doanh nghiệp. Môi trường
Marketing vĩ mô tập hợp tất cả các yếu tố mà từng doanh nghiệp không thể
kiểm soát và thay đổi được. Đó là những yếu tố thuộc về nhân khẩu học, kinh
tế, tự nhiên, kỹ thuật - công nghệ, chính trị - pháp luật, đạo đức và văn hoá,
v.v...
Môi trường Marketing được chia làm hai phần cơ bản: đó là môi trường
vi mô và môi trường vĩ mô.
Để hoạt động Marketing thành công, bộ phận Marketing của doanh
nghiệp phải phối hợp hoạt động với các bộ phận khác của doanh nghiệp và cân
nhắc sự ảnh hưởng của những người cung cấp, các đối thủ cạnh tranh, các trung
gian Marketing và khách hàng. Tất cả các lực lượng đó tạo thành môi trường
Marketing vi mô theo sơ đồ 1.1:
Sơ đồ 1.1. Các yếu tố thuộc môi trường Marketing vi mô
Những người cung ứng
Các trung gian marketing
Khách hàng
Doanh nghiệp
Đối thủ cạnh tranh
Công chúng trực tiếp
a, Các yếu tố và lực lượng bên trong doanh nghiệp lữ hành
Nhiệm vụ cơ bản của hệ thống Marketing là sáng tạo ra các sản phẩm du
lịch và dịch vụ để cung cấp cho thị trường mục tiêu. Tuy nhiên, công việc đó có
thành công hay không lại chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố và lực lượng.
Trước hết, các quyết định Marketing phải tuân thủ nhiệm vụ chiến lược, mục
tiêu cụ thể, các chính sách và định hướng phát triển do ban lãnh đạo công ty
vạch ra, hay các nhà điều hành và tổ chức tour đề ra. Do đó, ban lãnh đạo doanh
nghiệp có ảnh hưởng lớn tới hoạt động và các quyết định của bộ phận
marketing. Bên cạnh đó, bộ phận Marketing phải làm việc đồng bộ, chặt chẽ với
các bộ phận chức năng khác trong công ty như: tài chính - kế toán, vật tư - sản
xuất, kế hoạch, nghiên cứu và phát triển, bộ phận thiết kế, bộ phận nhân lực.
Mỗi bộ phận có những mục tiêu hoạt động cụ thể, nếu mục tiêu của bộ phận
Marketing không được sự đồng tình của các bộ phận khác thì nó không thể
thành công.
b) Những người cung ứng
Những người cung ứng là các doanh nghiệp và các cá nhân đảm bảo cung
ứng các yếu tố cần thiết cho công ty và các đối thủ cạnh tranh để có thể sản xuất
ra hàng hoá và dịch vụ nhất định.
Bất kỳ một sự biến đổi nào từ phía người cung ứng, sớm hay muộn, trực
tiếp hay gián tiếp cũng sẽ gây ra ảnh hưởng tới hoạt động Marketing của công
ty. Nhà quản lý phải luôn luôn có đầy đủ các thông tin chính xác về tình trạng số
lượng, chất lượng, giá cả,... hiện tại và tương lai của các yếu tố nguồn lực cho
sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Thậm chí họ còn phải quan tâm tới thái độ của
các nhà cung cấp đối với doanh nghiệp mình và các đối thủ cạnh tranh. Nguồn
lực khan hiếm, giá cả tăng có thể làm xấu đi cơ hội thị trường cho việc kinh
doanh những hàng hoá và dịch vụ nhất định, tồi tệ hơn có thể buộc doanh
nghiệp phải ngừng hoạt động.
c) Các trung gian Marketing
Đó là các tổ chức dịch vụ, các doanh nghiệp khác và các cá nhân giúp cho
công ty tổ chức tốt việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của mình tới người
mua cuối cùng.
Những người trung gian và các hãng phân phối chuyên nghiệp đóng vai trò
rất quan trọng giúp cho doanh nghiệp tìm kiếm khách hàng hoặc là thực hiện
công việc bán hàng cho họ. Đó là những đại lý bán buôn, bán lẻ, đại lý phân
phối độc quyền, các công ty kho vận v.v...
Lựa chọn và làm việc với người trung gian và các hãng phân phối là những
công việc hoàn toàn không đơn giản. Nếu nền kinh tế càng phát triển, trình độ
chuyên môn hoá càng cao thì họ không còn chỉ là các cửa hàng nhỏ lẻ, các quầy
bán hàng đơn giản, độc lập. Xu thế đã và đang hình thành các siêu thị, các tập
đoàn phân phối hàng hoá rất mạnh về tiềm lực và tiến hành nhiều loại hoạt động
đồng thời như vận chuyển, bảo quản làm tăng giá trị phân phối hàng hoá dịch
vụ một cách nhanh chóng an toàn, tiết kiệm... qua đó tác động đến uy tín, khả
năng tiêu thụ sản phẩm của nhà sản xuất.
Các hãng dịch vụ Marketing như công ty tư vấn, tổ chức nghiên cứu
marketing, các công ty quảng cáo, đài phát thanh, vô tuyến, báo, tạp chí... giúp
cho công ty tập trung và khuyếch trương sản phẩm của mình đúng đối tượng,
đúng thị trường, đúng thời gian. Lựa chọn và quyết định sẽ cộng tác với hãng cụ
thể nào mua dịch vụ của họ là điều mà doanh nghiệp phải cân nhắc hết sức cẩn
thận; nó liên quan đến các tiêu thức như chất lượng dịch vụ, tính sáng tạo và chi
phí.
Các tổ chức tài chính tín dụng trung gian như ngân hàng, công ty tài chính,
công ty bảo hiểm, công ty kiểm toán thực hiện các chức năng giao dịch tài chính
hỗ trợ tài chính hay đảm bảo giúp cho doanh nghiệp đề phòng các rủi ro trong
quá trình kinh doanh của mình. Những thay đổi diễn ra ở các tổ chức này đều có
thể ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động Marketing của doanh nghiệp.
d) Khách du lịch
Khách hàng là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ và là yếu tố quyết định
sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Bởi vì khách hàng tạo nên thị
trường, quy mô khách hàng tạo nên quy mô thị trường, Khách hàng sẽ bao hàm
nhu cầu. Bản thân nhu cầu lại không giống nhau giữa các nhóm khách hàng và
thường xuyên biến đổi. Nhu cầu và sự biến đổi nhu cầu lại chịu chi phối của
nhiều yếu tố, đến lược mình nhu cầu và sự biến đổi của nó lại ảnh hưởng đến
toàn bộ các quyết định Marketing của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải
thường xuyên theo dõi khách hàng và tiên liệu những biến đổi về nhu cầu của
họ. Để việc nắm và theo dõi thông tin về khách hàng, doanh nghiệp thường tập
trung vào năm loại thị trường khách hàng như sau:
- Thị trường người tiêu dùng: Các cá nhân và hộ tiêu dùng mua hàng hoá
và dịch vụ cho mục đích tiêu dùng cá nhân.
- Thị trường khách hàng là các doanh nghiệp sản xuất, chế biến: các tổ
chức và các doanh nghiệp mua hàng hoá và dịch vụ để gia công chế biến thêm
hoặc để sử dụng vào một quá trình sản xuất khác.
- Thị trường buôn bán trung gian: các tổ chức và cá nhân mua hàng hoá và
dịch vụ cho mục đích bán lại để kiếm lời.
- Thị trường các cơ quan và tổ chức của Đảng và Nhà nước: mua hàng hoá
và dịch vụ cho mục đích sử dụng trong lĩnh vực quản lý và hoạt động công cộng
hoặc để chuyển giao tới các tổ chức, cá nhân khác đang có nhu cầu sử dụng.
- Thị trường quốc tế: khách hàng nước ngoài bao gồm người tiêu dùng,
người sản xuất, người mua trung gian và chính phủ ở các quốc gia khác.
Nhu cầu và các yếu tố tác động đến nhu cầu của các khách hàng trên các
thị trường trên là không giống nhau. Do đó tính chất ảnh hưởng đến hoạt động
Marketing của các doanh nghiệp cũng khác, bởi vậy chúng cần được nghiên cứu
riêng tuỳ vào mức độ tham gia vào các thị trường của mỗi doanh nghiệp.
đ) Đối thủ cạnh tranh
Nhìn chung mọi công ty đều phải đối đầu với các đối thủ cạnh tranh khác
nhau. Quan điểm Marketing xem xét cạnh tranh trên 4 cấp độ:
- Cạnh tranh mong muốn tức là với cùng một lượng thu nhập người ta có
thể dùng vào các mục đích khác nhau: xây nhà, mua phương tiện đi du lịch...,
khi dùng vào mục đích này có thể thôi không dùng vào mục đích khác, dùng
cho mục đích này nhiều sẽ hạn chế dùng vào mục đích khác. Cơ cấu chi tiêu đó
có thể phản ánh một xu hướng tiêu dùng và do đó tạo ra cơ hội đe doạ hoạt động
Marketing của doanh nghiệp. Khi nghiên cứu đối thủ cạnh tranh mong muốn,
điều quan trọng là phải biết được những xu hướng tiêu dùng và do đó cách thức
người ta phân bổ thu nhập cho tiêu dùng.
- Cạnh tranh giữa các loại sản phẩm khác nhau để cùng thoả mãn một
mong muốn. Mong muốn về phương tiện đi lại có thể gây ra sự cạnh tranh giữa
các hãng bán xe con, xe gắn máy, các hãng vận tải khách. Khi nghiên cứu đối
thủ cạnh tranh này, doanh nghiệp cần phải biết thị trường có thái độ như thế nào
đối với các loại sản phẩm khác nhau và quan niệm của họ về giá trị tiêu dùng
mỗi loại.
- Cạnh tranh trong cùng loại sản phẩm. Ví dụ xe máy hai kỳ, bốn kỳ, côn
tay hay côn tự động... Khi quan tâm đến đối thủ cạnh tranh này, các nhà quản trị
Marketing cần phải biết thị hiếu của từng thị trường đối với các dạng sản phẩm
khác nhau.
- Cạnh tranh giữa các nhãn hiệu: khi nghiên cứu cạnh tranh giữa các nhãn
hiệu các nhà quản trị Marketing cần phải biết sức mạnh và điểm yếu của từng
nhãn hiệu và các công ty tương ứng.
Trong bốn loại cạnh tranh trên, mức độ gay gắt sẽ tăng dần từ 1 đến 4. Khi
xem xét cạnh tranh, doanh nghiệp phải tính tới cả bốn cấp độ để quyết định các
phương án Marketing của mình.
e) Công chúng trực tiếp
Đó là bất kỳ một nhóm, một tổ chức nào có mối quan tâm thực sự hoặc cóe
thể sẽ quan tâm hay ảnh hưởng tới khả năng đạt được các mục tiêu của doanh
nghiệp. Mọi công ty đều hoạt động trong môi trường Marketing bị vây bọc hay
chịu sự tác động của hàng loạt các tổ chức công chúng. Các giới công chúng sẽ
ủng hộ hoặc chống lại các quyết định Marketing của doanh nghiệp, do đó có thể
tạo thuận lợi hay gây bất lợi cho hãng và các công ty lữ hành. Trong kinh doanh
lữ hành thì những người dân bản địa, chính quyền địa phương tại điểm đến du
lịch chính là những nhóm công chúng trực tiếp.
1.1.3 Hệ thống thông tin Marketing trong doanh ngiệp lữ hành
Hệ thống thông tin Marketing là hệ thống hoạt động thường xuyên có sự
tương tác giữa con người, thiết bị và các phương pháp dùng để thu thập, phân
loại, phân tích, đánh giá và truyền đi những thông tin cần thiết chính xác kịp
thời để người phụ trách Marketing sử dụng chúng với mục đích thiết lập, tổ
chức thực hiện, điểu chỉnh và kiểm tra các hoạt động Marketing.
Các bộ phận cấu thành: