Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG DỰ ÁN CHĂN NUÔI BÒ THỊT CHẤT LƯỢNG CAO TẠI THỊ XÃ PHÚC YÊN TỈNH VĨNH PHÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.28 KB, 19 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG DỰ ÁN CHĂN NUÔI BÒ THỊT
CHẤT LƯỢNG CAO TẠI THỊ XÃ PHÚC YÊN TỈNH VĨNH PHÚC
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG
1. Dự án đầu tư
Có thể hiểu rằng dự án đầu tư nói chung, dự án đầu tư phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn nói riêng, là một tổng thể các hoạt động dự kiến
với các nguồn lực và chi phí cần thiết, được bố trí theo một trình tự chặt chẽ
với lịch thời gian và địa điểm xác định nhằm tạo ra những kết quả cụ thể để
thực hiện những mục tiêu kinh tế – xã hội nhất định.
Trong Nông nghiệp và kinh tế nông thôn có thể phân biệt hai nhóm dự
án theo phạm vi đầu tư là:
- Nhóm các dự án đầu tư theo phạm vi ngành, vùng.
Mục đích của các dự án này là khai thác các nguồn tài nguyên và điều
kiện kinh tế – xã hội của các ngành, các vùng để phát triển nông nghiệp và kinh
tế nông thôn.
- Nhóm các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Các dự án đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nông nghiệp và các
doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế nông thôn nhằm thực hiện mục tiêu và
chiến lược sản xuất kinh doanh doanh nghiệp.
2. Khái niệm thẩm định dự án
Thẩm định dự án đầu tư là việc kiểm tra, so sánh, đánh giá một cách
khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung của dự án, hoặc so sánh đánh
giá các phương án của một dự án hay nhiều sự án, để đánh giá tính hợp lý,
tính hiệu quả và tính khả thi của dự án. Từ đó có những quyết định về đầu tư
và cho phép đầu tư.
Thẩm định dự án đầu tư nhằm mục đích
- Đánh giá tính hợp lý của dự án: Tính hợp lý được biểu hiện một cách
tổng hợp trong nội dung nghiên cứu và cách thức tính toán của dự án (hợp lý
trong xác định mục tiêu, trong xác định và nghiên cứu các nội dung của dự án,
trong phương pháp tính toán, trong xác định khối lượng công việc cần tiến
hành, các chi phí cần thiết và các kết quả đạt được…).


- Đánh giá tính hiệu quả của dự án: Hiệu quả được xem xét triên các
phương diện về tài chính và kinh tế xã hội của dự án. Tính hiệu quả được biểu
hiện ở các chỉ tiêu được đánh giá của dự án. Trong đó có thể so sánh đánh giá
giữa đồng vốn bỏ ra với hiệu quả mang lại của từng dự án, có thể so sánh hiệu
quả giữa các phương án của dự án. Nhưng cũng có thể xem xét nó với các vấn
đề bên ngoài nhưng có liên quan với dự án (đầu tư cho dự án có hiệu quả hơn
so với đầu tư khác hay không ? ).
- Đánh giá tính khả thi của dự án: Đây là mục đích hết sức quan trọng
trong thẩm định dự án. Một dự án hợp lý và hiệu quả cần phải có tính khả thi.
Tất nhiên, hợp lý và hiệu quả là hai điều kiện quan trọng để dự án có tính khả
thi. Nhưng tính khả thi còn phải xem xét với nội dung và phạm vi rộng hơn của
dự án (xem xét kế hoạch tổ chức thực hiện môi trường pháp lý của dự án…)
II. CÁC NỘI DUNG CỦA THẨM ĐỊNH DỰ ÁN
1. Thẩm định các điều kiện pháp lý
Các điều kiện pháp lý để thẩm định và xét duyệt dự án đầu tư khả thi
phát triển nông nghiệp, nông thôn bao gồm các văn bản và các thủ tục với các
yêu cầu thẩm định sau:
- Hồ sơ trình duyệt có đủ theo quy định và có hợp lý hay không ? Các loại
văn bản trong hồ sơ trình duyệt tùy theo loại dự án đã được quy định ở trên.
- Tư cách pháp nhân và năng lực của chủ đầu tư. Bao gồm:
+ Quyết định thành lập, thành lập lại các doanh nghiệp nông nghiệp,
Nhà nước, các hợp tác xã nông nghiệp đã chuyển đổi hoặc giấy phép hoạt động
đối với các thành phần kinh tế khác. Trong những trường hợp khác sẽ do Nhà
nước quy định. Ví dụ: các dự án theo Quyết định 327/QĐTTg cho phép Ủy ban
nhân dân xã là chủ đầu tư nếu ở đó không có doanh nghiệp Nhà nước hoạt
động. Ủy ban nhân dân xã phải có quyết định của Ủy ban nhân dân huyện hoặc
tỉnh cho phép có tư cách pháp nhân trong quản lý dự án.
+ Người đai diện chính thức.
+ Năng lực kinh doanh: Phải có các văn bản thể hiện năng lực về tài
chính (biểu hiện ở năng lực về nguồn vốn tự có, điều kiện thế chấp khi vay

vốn…).
+ Địa chỉ liên hệ, giao dịch.
Những năm trước đây, nội dung thẩm định này rất đơn giản vì phải qua
rất nhiều bước mới đến bước thành lập Hội đồng và tiến hành thẩm định dự
án. Những thành viên Hội đồng phần lớn làm công tác quản lý nên đã biết rất
rõ về người đại diện của dự án, về địa phương dự án đầu tư. Hơn nữa các dự
án chủ yếu được thực hiện thông qua nguồn vốn của Nhà nước số dự án còn ít
nên dễ quản lý. Tuy nhiên do sơ suất, đôi khi vì những lý do khó xác định việc
thẩm định dự án đã bỏ qua các điều kiện pháp lý (phổ biến nhất là bỏ qua việc
thẩm định điều kiện về năng lực kinh doanh) nên đã gây ra những hậu quả rất
nghiêm trọng.
Hiện nay, có rất nhiều đơn vị và cá nhân tham gia đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn, sự quản lý đầu tư đã trở nên phức tạp hơn. Vì vậy thẩm
định các điều kiện pháp lý là rất cần thiết và phải được thực hiện nghiêm ngặt.
Đối với các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài cần có thêm các văn
bản pháp lý sau.
+ Bản cam kết đã cung cấp thông tin chính xác về những vấn đề liên
quan đến doanh nghiệp.
+ Một số văn bản về thỏa thuận trong trường hợp liên doanh.
+ Bản cam kết tuân thủ luật pháp Việt Nam của phía nhà đầu tư nước
ngoài.
2. Thẩm định các mục tiêu của dự án
Trong đánh giá hiệu quả của dự án có sự so sánh giữa các chỉ tiêu phản
ánh hiệu quả dự án đạt được với mục tiêu của dự án. Nếu mục tiêu của dự án
xác định phù hợp, việc đánh giá hiệu quả của dự án sẽ phản ánh đúng chất
lượng của dự án. Nếu mục tiêu của dự án xác định quá cao hoặc quá thấp, sự
so sánh giữa các chỉ tiêu hiệu quả với mục tiêu của dự án sẽ cho những kết
luận không phù hợp với mục tiêu của dự án sẽ cho những kết luận không phù
hợp về dự án. Vì vậy, cần thiết phải có sự thẩm định mục tiêu của dự án làm
cơ sở cho sự đánh giá chất lượng của dự án.

Nội dung thẩm định mục tiêu của dự án gồm:
- Mục tiêu của dự án có phù hợp với chương trình và kế hoạch phát triển
kinh tế chung của cả nước hoặc của từng vùng kinh tế hay không? Để thẩm
định vấn đề này cần có sự lượng hóa mục tiêu bằng những tiêu thức cụ thể tạo
điều kiện cho việc thẩm định chi tiết và đạt được kết quả cao, tránh thẩm định
một cách qua loa đại khái.
Ví dụ: Khi thẩm định dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn chúng ta
phải xác định dự án thuộc chương trình nào. Hiện nay, trong nông nghiệp,
nông thôn có rất nhiều chương trình: Chương trình phát triển kinh tế trang
trại, chương trình trồng 5 triệu ha rừng, chương trình xóa đói giảm nghèo,
chương trình cho vay giải quyết việc làm (chương trình 120)… Nhiều khi đối
tượng dự án thuộc nhiều chương trình, nếu không xác định rõ mục tiêu theo
các tiêu thức cụ thể sẽ dẫn đến tình trạng đánh giá dự án thiếu cơ sở và các kết
luận đưa ra là không phù hợp.
Trên cơ sở mục tiêu của chương trình kế hoạch phát triển tiến hành
thẩm định mục tiêu của dự án. Mục tiêu của án và mục tiêu của chương trình,
kết cấu phải thống nhất với nhau. Tuy nhiên đối với dự án, ngoài yêu cầu mục
tiêu phải phù hợp với mục tiêu của chương trình (gọi là mục tiêu chính) còn có
thể có những mục tiêu phụ, nhưng không mâu thuẫn và cản trở mục tiêu chính.
- Ngành nghề trong dự án có thuộc nhóm ngành nghề Nhà nước cho
phép hoạt động không? Nhìn chung các nhóm ngành trong nông nghiệp đều
thuộc nhóm ngành Nhà nước khuyến khích phát triển. Riêng một số ngành,
lĩnh vực ngoài nông nghiệp, nhưng đầu tư ở lĩnh vực nông thôn lại cần xem
xét. Vì vậy cần thiết phải thẩm định. Nội dung của thẩm định là xem xét chủ
đầu tư (chủ thể của dự án) có được phép kinh doanh của ngành đó hay không?.
- Mục tiêu của dự án có thuộc nhóm ngành ưu tiên hay không? nếu thuộc
nhóm ngành ưu tiên thì dự án sẽ được hưởng các chế độ ưu đãi và khi xét
duyệt sẽ thuận lợi hơn.
3. Thẩm định về thị trường của dự án đầu tư
Các vấn đền liên quan đến thị trường, khi xây dựng dự án các nhà

chuyên môn đã sử dụng những công cụ đánh giá, phân tích khoa học, nhưng
nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực hết sức phức tạp và có nhiều đặc điểm, đặc
thù. Vì vậy trong tính toán, xác định các phương án không tránh khỏi những
sai sót. Thẩm định về thị trường dự án cần tập trung vào xử lý các vấn đề sau:
- Kiểm tra tính toán về nhu cầu hiện tại, tương lai, khả năng cạnh tranh
của sản phẩm dự án, khả năng chiếm lĩnh thị trường.
- Xem xét vùng thị trường của dự án. Bởi vì có những trường hợp dự án
không được tự do lựa chọn thị trường để đảm bảo sự cân đối, đặc biệt tránh
hiện tượng tranh mua, tranh bán ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Khi cần
thiết phải quy vùng thị trường cho dự án. Tất nhiên, trong dự án người soạn
thảo đã có giải pháp về thị trường cho dự án, trong đó, việc xác định điểm tiêu
thụ sản phẩm của dự án cũng đã được tính toán và đề cập, nhưng cũng cần
phải thẩm định cả tính khoa học và tính khả thi của việc xác định này .v.v…
Đối với các dự án đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn khi thẩm
định về thị trường với các nội dung trên cần lưu ý:
- Sản phẩm của dự án đầu tư chủ yếu là các sản phẩm, của ngành nông
nghiệp. Đây là các sản phẩm ở dạng tươi sống khi chưa qua chế biến có khối
lượng lớn, cồng kềnh, là sản phẩm đáp ứng nhu cầu thường xuyên của các
tầng lớp dân cư và những nhu cầu của các ngành kinh tế, xã hội. Các sản phẩm
này được sản xuất ra lại có tính thời vụ. Do vậy, ngoài việc tính toán tiêu thụ
như các sản phẩm hàng hóa khác cần lưu ý xem xét vấn đề vận chuyển, bảo
quản và chế biến được đề cập thế nào trong dự án để đảm bảo cho khâu tiêu
thụ sản phẩm của dự án thuận lợi.
- Khi thẩm định khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án cần xem xét
tới khía cạnh về số lượng, chất lượng và chủng loại sản phẩm trong xu hướng
biến động của nhu cầu theo các khía cạnh này đã được xem xét và tính toán
như thế nào trong dự án đầu tư của nông nghiệp.
Đặc biệt, phải xem xét sự tính toán về tính an toàn trong vệ sinh thực
phẩm. Lưu ý các sản phẩm nông nghiệp phải là các sản phẩm an toàn.
- Trên thực tế khi soạn thảo dự án, để đánh giá nhu cầu thị trường đối

với sản phẩm của dự án cần đánh giá nhu cầu hiện tại, dự báo nhu cầu thị
trường tương lai. Đây là công việc hết sức phức tạp và khó khăn. Bởi vì, số liệu
của nông nghiệp thường thiếu và không hệ thống, các dự đoán khó đảm bảo độ
tin cậy cao. Cần nắm chắc đặc điểm này để tránh hai khuynh hướng.
+ Tuyệt đối hóa yêu cầu thẩm định dẫn đến khắt khe trong thẩm định.
Các dự án khó có sự đánh giá cao nếu theo khuynh hướng này khi thẩm định.
+ Đơn giản hóa trong thẩm định về vấn đề thị trường. Vì cho rằng cơ sở
của sự tính toán không vững chắc, dẫn đến thẩm định mang tính hình thức. Vai
trò của thẩm định dự án, vì thế không được phát huy.
4. Thẩm định về công nghệ và kỹ thuật của dự án đầu tư
Nghiên cứu về công nghệ và kỹ thuật của dự án cũng là một trong các
nội dung quan trọng của xây dựng dự án. Vì vậy, sự thẩm định về công nghệ và
kỹ thuật của dự án cũng là một trong các nội dung quan trọng của thẩm định
dự án đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nội dung của thẩm định về
công nghệ và kỹ thuật của dự án bao gồm:
- Kiểm tra các phép tính toán khi xác định công nghệ và kỹ thuật của dự
án. Việc kiểm tra gồm có:
+ Kiểm tra các công cụ sử dụng trong tính toán, trong đó, đặc biệt lưu ý
đến các định mức kinh tế, kỹ thuật. Đối với hệ thống các định mức kinh tế, kỹ
thuật cần phải rà soát cho phù hợp với các điều kiện cụ thể của dự án. Lưu ý
tới tính phù hợp của từng loại cây trồng và vật nuôi (có thể lấy quy trình sản
xuất của từng loại cây trồng vật nuôi làm căn cứ rà soát và tính toán).
+ Kiểm tra những sai sót trong tính toán như: tính toán không đúng
phương pháp, không đúng về kỹ thuật tính toán, không đầy đủ và không phù
hợp đối tượng tính toán…
- Kiểm tra tính phù hợp của công nghệ, thiết bị đối với dự án. Đặc biệt,
trong điều kiện của Việt Nam về thời tiết khí hậu, các mối liên hệ, các khâu
trong quá trình sản xuất, các tính toán khả năng phát triển trong tương lai, tỷ
lệ phụ tùng thay thế và điều kiện vận hành, bảo trì… cần phải được đặc biệt
chú ý đối với các dự án đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Bởi vì, sản

xuất nông nghiệp gắn chặt với các điều kiện về tự nhiên; trình độ dân trí, trình
độ khoa học kỹ thuật của người lao động còn thấp, trong khi đó cuộc cách
mạng khoa học, công nghệ diễn ra hết sức mạnh mẽ. Việc đánh giá khi thẩm
định cần tránh tư tưởng tiếp cận nhanh các vấn đề công nghệ hiện đại trong
khi các vấn đề khác không đồng bộ dẫn đến không hiệu quả trong đầu tư.
Ngược lại, không khai thác những tiến bộ của khoa học và công nghệ dẫn đến
không tạo điều kiện cho sản phẩm dự án có tính canh tranh, hiệu quả của đầu
tư cũng sẽ thấp. Ví dụ: trong ngành chè, với quan điểm thiết bị chế biến phải
hiện đại mới cho sản phẩm với chất lượng cao. Một doanh nghiệp trong ngành
chè đã nhập công nghệ chế biến với các thiết bị chân không để bảo vệ hương vị
của chè. Nhưng trong điều kiện hiện tại, do chạy theo lợi nhuận người sản xuất
chè búp nguyên liệu sử dụng nhiều phân hóa học, thuốc trừ sâu độc hại nên khi
chế biến theo công nghệ này thiết bị một mặt giữ hương vị tự nhiên của chè,

×