Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦA TỈNH THANH HOÁ TRONGTHỜI KỲ 2003 ĐẾN 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.37 KB, 36 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY MẠNH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦA TỈNH THANH
HOÁ TRONGTHỜI KỲ 2003 ĐẾN 2010
I. ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ THANH HOÁ GIAI ĐOẠN
2003-2010.
1. Ảnh hưởng của bối cảnh quốc tế, trong nước và thị trường tới sự
phát triển của tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 2003-2010.
1.1. Bối cảnh quốc tế khu vực và thị trường nước ngoài.
Trong những năm cuối thế kỷ XX công cuộc phát triển kinh tế xã hội theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đất nước ta đang đứng trước những
thách thức gay gắt trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới và có nhiều biến
động phức tạp. Toàn cầu hoá và khu vực hoa đã trở thành một trong những xu
thế phát triển chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Toàn cầu hoá và khu vực
hoá đã phát triển mạnh mẽ trong những năm qua và sẽ tiếp tục xu thế phát
triển này trong những năm của thế kỷ mới. Quá trình này thể hiện rất rõ trong
sự gia tăng rất nhanh trong trao đổi quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, tài chính và
các yếu tố sản xuất.
Ảnh hưởng của toàn cầu hoá kinh tế đối với nước ta: sau khi trở
thành thành viên chính thức của ASEAN và tổ chức Hợp tác kinh tế Châu á-
Thái Bình Dương (APEC), Việt Nam sắp tới sẽ tham gia vào tổ chức thương
mại quốc tế (WTO). Đây là những bước đi đầu tiên để hội nhập vào nền kinh tế
toàn cầu và tự do hoá thương mại, mà biểu hiện rõ nét nhất là đẩy mạnh vệc
gia nhập vào khu vực tự do hoá thương mại AFTA/CEPT. Bên cạnh những
thuận lợi đem lại từ quyền lợi là các thành viên của các tổ chức quốc tế như
trao đổi hàng hoá, thu hút vốn đầu tư, công nghệ kỹ thuật...Việt Nam cũng có
khó khăn trong việc điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, các vấn đề
khu vực hành chính, dịch vụ quản lý Nhà nước song song với việc hoàn thiện
các khuôn khổ pháp lý.
Ngày nay nhiều quá trình kinh tế đã vượt ra ngoài khuôn khổ từng quốc
gia riêng lẻ. Liên kết hội nhập quốc tế và khu vực đã trở thành cơ hội và thách
thức cho sự phát triển của nhiều nước. Vì thế đã xuất hiện Liên minh Châu Âu


(EU), diễn đàn á- Âu, hình thành các liên minh kinh tế khu vực AFTA, NAFTA,
APEC...tiến tới tự do hoá thương mại và đầu tư toàn cầu. Cùng với tiến trình
toàn cầu hoá, khu vực hoá đang diễn ra trên thế giới, việc thực hiện khu vực tự
do hoá thương mại ASEAN(AFTA), hiện thời Việt Nam còn nhiều khó khăn do
trình độ phát triển kinh tế thấp,sức cạnh tranh hàng hóa chưa cao, nhưng xét
về lâu dài thì có lợi trong việc thúc đẩy sự hội nhập vào nền kinh tế khu vực.
Việc quan hệ với các nước trên thế giới tạo cho Việt Nam thị trường trao
đổi hàng hoá sang các nước một cách dễ dàng, mặt khác lại tranh thủ để khai
thác vốn và chuyển giao công nghệ cao của các nước như Mỹ, Nhật Bản...Ngoài
thị trường cũ quen thuộc mà hàng Việt Nam chiếm lĩnh được như là cộng hoà
liên bang Nga, các nước SNG và các nước Đông Âu, trong thời gian tới Việt
Nam phải ra sức để đáp ứng được các yêu cầu của thị trường mới khó tính
như các nước ở Châu Âu và đặc biệt là thị trường Mỹ.
Thanh Hoá với lợi thế của mình có thể có các mặt hàng dịch vụ xâm
nhập được vào thị trường quốc tế như: đá ốp lát, bột giấy, song mây, thuỷ sản
đông lạnh (tôm, cá, mực), súc sản đông lạnh (lợn, bò), nông sản (gạo, lạc, đậu
tương, đường) và một số khoáng sản, một số sản phẩm của ngành công nghiệp
nhẹ sử dụng nhiều lao động như may mặc, giày dép, tơ lụa, hàng thủ công mỹ
nghệ, xi măng,...xuất khẩu lao động. Thanh Hoá có khả năng hợp tác với Mỹ,
Nhật và các nước EC trong các lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản, công
nghiệp vật liệu xây dựng, xây dựng cơ sở hạ tầng, chế biến lâm sản, nuôi trồng
thuỷ sản, bưu chính viễn thông. Hợp tác với các nước ASEAN, Hàn Quốc về
hàng tiêu dùng, gia công lắp ráp điện tử, gia công may mặc, du lịch và dịch
vụ...Hợp tác với các nước SNG, Đông Âu về lĩnh vực khai thác khoáng sản, một
số ngành hàng trong công nghiệp may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ truyền
thống.
1.2. Bối cảnh và thị trường trong nước.
Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội của nước ta được bắt
đâu từ Đại hội VI năm 1986. Từ đó đến nay nước ta đã có những thay đổi to
lớn và sâu sắc. Chính sách đổi mới thực sự là yếu tố khơi dậy các nguồn lực

tiềm ẩn và tạo ra sức bật mới đưa đất nước ta phát triển, tạo điều kiện chủ
động hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát
của chiến lược 10 năm 2001-2010 là "Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân;
tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường;
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ
bản; vị thế trên trường quốc tế được nâng cao" (Trích văn kiện Đại hội IX).
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta với sự ổn định chính trị
và thành công bước đầu trong cải cách kinh tế đã được quốc tế công nhận. Nhà
nước ta đang đứng từng bước tạo môi trường thuận lợi và hấp dẫn các nhà
đầu tư nước ngoài.
Căn cứ vào tình hình khu vực và tốc độ tăng trưởng của cả nước bình
quân hàng năm giai đoạn 1996-2000 là 7%. Chiến lược phát triển 10 năm đưa
GDP năm 2010 lên ít nhất 2 lần so với năm 2000. Tuy vậy nền kinh tế nước ta
còn phải đối mặt với những khó khăn gay gắt về thiên tai, khủng hoảng kinh tế
khu vực và thế giới ... Điều này làm cho nền kinh tế của tỉnh Thanh Hoá không
tránh khỏi ảnh hưởng của những khó khăn. Với Thanh Hoá là một tỉnh có
chính trị ổn định, kinh tế quan trọng, còn nhiều tiềm năng. Những thành tích
đã đạt được và những kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo của hơn 15 năm đổi mới,
những công trình hạ tầng, một số cơ sở sản xuất công nghiệp đã và đang được
đưa vào sử dụng. Tình hình chính trị -xã hội ổn định. Đó là điều kiện để phát
triển mới, với tốc độ cao và bền vững.
Tuy nhiên, những yêu cầu phải giải quyết của một tỉnh đất rộng người
đông, điểm xuất phát nền kinh tế còn thấp, tích luỹ ít trong khi trình độ kinh
nghiệm quản lý trước yêu cầu hội nhập còn nhiều bất cập: sự phân hoá giàu
nghèo, sự ô nhiễm môi trường, tệ nạn tham nhũng, quan liêu, sự gia tăng của
các tệ nạn xã hội... và những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực

đang là những thử thách to lớn mà chúng ta phải vượt qua trong chặng
đường trước mắt.
Trong cơ chế thị trường, theo luật cạnh tranh, bất cứ đối tượng nào
cũng có thể cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường. Trong tương lai nền kinh tế
Thanh Hoá đi theo hướng ngoại, song vẫn phải dựa vào thị trường trong nước
là chính.
Đối với thị trường trong nước, kinh tế Thanh Hoá phát triển sẽ có nhiều
sản phẩm và đủ sức cạnh tranh trước hết là chiếm lĩnh thị trường nông thôn
của tỉnh, thị trường các địa phương phụ cận. Đồng thời phát triển mạng lưới
dịch vụ xuất nhập với các tỉnh với thành phố phía Bắc, tạo thế vươn ra thị
trường các vùng khác. Vào tháng 2 năm 2002, Thanh Hoá đã được Chính phủ
phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh thời kỳ 2001-2010
theo quyết định 24/2002/QĐ-TTg. Đây là căn cứ cho việc hoạch định các chủ
trương chính sách phát triển kinh tế xã hội, kế hoạch dầu tư và hợp tác, là
đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh.
Trước những điều kiện như trên, Thanh Hoá để phát triển được phải xác
định cho mình một cơ cấu kinh tế hợp lý. Với phạm vi nghên cứu, đề tài chỉ xin
nói riêng về cơ cấu ngành kinh tế.
2. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà đặc biệt là sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế, mặc dù Thanh Hoá đã đạt được những thành tựu đáng kể,
nhưng những thách thức đối với chúng ta trong quá trình thực hiện những
mục tiêu kinh tế xã hội trong những năm tiếp theo cũng không phải là nhỏ. Đó
là những yếu kém của nền kinh tế, đặc biệt là chất lượng và hiệu quả phát
triển thấp, sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường còn yếu, những khó
khăn mới nảy sinh, nhất là sau tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
ở khu vực và trên thế giới.
Để khắc phục tình trạng trên, Nghị quyết trung ương IV khoá VIII đã đặt
ra vấn đề nghiên cứu cơ cấu kinh tế, điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế nước ta theo

hưóng nâng cao sức cạnh tranh, thực hiện hợp tác kinh tế với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Đến năm 2006, theo tiến trình hội nhập kinh tế chúng
ta phải giảm thuế nhập khẩu, buôn bán tự do. Do vậy trong thời gian tới
chúng ta phải ra sức để tác động tích cực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói
chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng theo các quan điểm định hướng sau:
- Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bước hình
thành và phát triển nền kinh tế tri thức trong tỉnh.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những năm tới phải tập
trung làm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế xã hội, cụ thể là tiếp tục nâng cao tỷ
trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao
động, (đặc biệt là ở nông thôn) theo hướng là giảm mạnh lao động trong nông
nghiệp và tăng nhanh lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ. Như vậy
mới thì số lao động có kỹ thuật, trình độ chuyên môn ngày càng được nâng
cao.
- Đổi mới cơ cấu đầu tư gắn liền với nâng cao chất lượng công tác quy
hoạch đầu tư và sử dụng vốn trong các dự án đầu tư.
Quy hoạch đầu tư cần được xây dựng phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế xã hội. Trong đó cần ưu tiên vào những ngành có lợi thế về tài nguyên,
vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, nhằm khai thác những hàng hoá có chất
lượng giá rẻ, để cạnh tranh với các nước như các sản phẩm lạc
chè,đường...Trong những năm tới cần hoàn chỉnh quy hoạch chung và quy
hoạch chi tiết, trước hết là chú ý đến quy hoạch các khu trung tâm, các huyện
thị, quy hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị giao thông cấp thoát nước...Đầu
tư phát triển nông nghiệp hàng hoá toàn diện kèm công nghiệp chế biến nông
lâm thuỷ sản, công bố các quy hoạch được duyệt đồng thời chú trọng kiểm tra
giám sát việc thực hiện quy hoạch ở cấp dưới, tạo cơ sở cho các ngành, các
huyện thị xây dựng phương án đầu tư và tổ chức thực hiện đầu tư theo kế
hoạch.
- Cải thiện và nâng cấp môi trường đầu tư và đa dạng hoá thu hút nguồn
vốn đầu tư phát triển.

Tiếp tục cải thiện và nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư,
trước hết là chú trọng vào các biện pháp vĩ mô nhằm đảm bảo sự ổn định
chính trị, kinh tế xã hội, cần đầu tư vào những ngành có năng suất thấp do khả
năng hạn chế về nguồn vốn để nâng cao hiệu qủa cạnh tranh, bên cạnh đó giải
quyết được vấn đề dân số gây áp lực lớn đối với nền kinh tế trong tỉnh. Giải
quyết việc làm cho người lao động đến tuổi lao động một cách có hiệu quả
chính là thế mạnh để tích luỹ, phát triển kinh tế quốc dân.
- Kết hợp tối ưu giữa cơ cấu ngành kinh tế với cơ cấu vùng, lãnh thổ và
cơ cấu kinh tế theo thành phần.
Cơ cấu ngành phải kết hợp với cơ cấu thành phần kinh tế thể hiện ở chỗ:
chiến lược và chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế trong
đó nhấn mạnh vai trò cảu kinh tế nhà nước. Cơ cấu ngành gắn liền với cơ cấu
vùng thông quacác biện pháp xây dựng khu công nghiệp, các trung tâm công
nghiệp để tạo động lực cho phát triển kinh tế. Đi đôi với phát triển kinh tế
thành thị và công nghiệp nông thôn theo hướng phát huy thế mạnh của mỗi
địa phương, mỗi vùng, thực hiện phân công lao động tại chỗ, gắn công nghiệp
với nông nghiệp. Công nghiệp địa phương và công nghiệp nông thôn phải được
nằm trong kế hoạch quy hoạch phát triển chung công nghiệp của cả tỉnh.
- Xây dựng hệ thống kinh tế mở cả về cơ cấu kinh tế cả về cơ chế quản lý,
gắn với thị trường trong nước và quốc tế.
Kinh tế Thanh Hoá phát triển trong mối quan hệ tương hỗ và các vùng
kinh tế Bắc Bộ và khu Bốn cũ. Thanh Hoá nằm sát địa bàn trọng điểm Bắc Bộ
sẽ có tác động mạnh tới sự phát triển của Thanh Hoá. Phát triển nhanh và bền
vững trên cơ sở hiệu quả kinh tế xã hội cao, xác định đúng đắn các mục tiêu
của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là biện
pháp, một hướng đi nhằm đẩy nhanh sự phát triển kinh tế, nhanh chóng khắc
phục nghèo nàn lạc hậu.Trong hội nhập nhiều ngành sẽ thấy sẽ thấy rõ hơn
năng lực cuả mình, vươn lên tăng cường được khả năng cạnh tranh và đứng
vững trên các thị trường trong và ngoài nước. Cũng sẽ có các ngành phải thu
hẹp, trong mọi trường hợp cần phải đặt lợi ích tổng thể của nền kinh tế lên lợi

ích cục bộ của từng ngành, từng địa phương.
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước hoạt động một cách đầy đủ đồng bộ, đảm bảo khách quan hoá
việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Hình thành và phát triển các ngành
trọng điểm mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh
chóng tạo ra cơ cấu ngành kinh tế mới.
Do tác động của tiến bộ khoa học công nghệ và do ảnh hưởng của nhu
cầu thị trường, danh mục mỗi ngành trọng điểm, mũi nhọn sẽ thay đổi theo
từng thời kỳ 5 năm, 10 năm, có thể ngành hiện nay chưa là mũi nhọn, trọng
điểm nhưng thời kỳ sau này sẽ trở thành ngành trọng điểm mũi nhọn. Ngành
trọng điểm có thể là ngành mới, ngành truyền thống, ngành gặp thuận lợi,
ngành gặp khó khăn trong sự phát triển, những ngành hướng về xuất khẩu
hay những ngành thay thế nhập khẩu... Thanh Hoá là một tỉnh có điểm xuất
phát thấp do vậy một mặt phải chú trọng phát triên các ngành nghề truyền
thống, khai thác thế mạnh vốn có về tài nguyên lao động, một mặt phải phát
hiện và chú trọng vào một số ngành có tính chất mũi nhọn như chế biến nông
lâm thuỷ sản, vật liệu xây dựng... vừa chú ý phát triển khai thác thế mạnh của
từng vùng, miền trong tỉnh, vừa tập trung phát triển một số vùng trọng điểm
làm động lực thúc đẩy toàn tỉnh.
- Điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế đòi hỏi phải tiến hành từng bước với
sự nỗ lực đồng bộ của các ngành, các cấp, cả người lao động trong việc huy
động sức người sức của và tổ chức thực hiện. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế phải đi đôi với quá trình đô thị hoá thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá
đi đôi vói đô thị hoá. Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
xã hội, tập trung giải quyết tốt những vấn đề bức xúc nhằm tạo được chuyển
biến rõ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hộ, gắn chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế với đổi mới kỹ thuật công nghệ phù hợp.
3. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Thanh
Hoá.
Xuất phát từ thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh té trong những

năm qua (1996-2001), để đạt đến một cơ cấu ngành hợp lý, thúc đẩy cho sự
phát triển, Thanh Hoá đã và đang xây dựng cho Tỉnh nhà hướng phát triển
cho các ngành.
3.1. Phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thực hiện chỉ thị 32/TTg ngày 23 tháng 9 năm 1998 của Thủ tướng
chính phủ về công tác quy hoạch. Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Thanh Hoá kết
hợp với Viện chiến lược phát triển của Bộ Kế hoạch và Đầu tưtiến hành triển
khai dự án Rà soát quy hoạch trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 2001-2010.
Một trong những nội dung cơ bản là dự báo các phương án phát triển.
Để xây dựng được các phương án phát triển phải căn cứ vào Chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của cả nước đến năn, 2010, các nguồn nội lực của
tỉnh, đánh giá đúng thực trạng phát triển kinh tế xã hội trong những năm qua,
từ đó xác định chính xác điểm xuất phát khi đề ra phương án. Bên cạnh đó
người ta cũng cần xem xét đến định hướng của bối cảnh kinh tế thế giới, khu
vực, tình hình phát triển của đất nước, của vùng trong thời kỳ 2001-2010, mức
độ tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Sau khi xem xét tất cả những yếu tố trên, dự báo được các phương án
phát triển sau:
Phương án I: (Phương án xu thế)
Phát triển theo xu thế động thái tăng trưởng GDP tương tự như mức
trung bình cả nước 7%-7,5%, tổng sản phẩm xã hội năm 2010 gấp 2 lần năm
2000. Ngành nông lâm ngư nghiệp vẫn giữ vai trò chủ yếu. Công nghiệp, dịch
vụ đóng vai trò quan trọng. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình kế
hoạch hoá gia đình đảm bảo dân số 2010 dưới 4 triệu. Kết quả của phương án
là:
GDP/người năm 2010 đạt 550-560 USD bằng 73-74% trung bình cả
nước.
Nông nghiệp tăng bình quân 4,5-4,6%
Công nghiệp, xây dựng 11%
Dịch vụ 7%

Cơ cấu kinh tế:
Nông lâm ngư 2010 là 30%
Công nghiệp, xây dựng 33%
Dịch vụ 37%
Tỷ lệ đô thị hoá 15%
Đầu tư trung bình hàng năm 5 nghìn tỷ.
Phương án II: (Phương án trung bình)
Trên cơ sở phương án xu thế, phương án trung bình tính tới một số đột
phá trong xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất và dịch vụ ngay từ những năm
2001, tạo đà cho phát triển cao trong giai đoạn tiếp theo 2006-2010. Phấn đấu
GDP /người năm 2005 bằng 80% và năm 2010 đạt mức trung bình
GDP/người của cả nước.
Phương án này yêu cầu:
- Phát triển mạnh công nghiệp theo hướng xuât khẩu và mở rộng trao
đổi hàng hoá với bên ngoài. Chuẩn bị cơ sở cho sự phát triển công nghiệp có
hàm lượng khoa học và công nghệ cao, tạo ra sản phẩm có khả năng cạnh
tranh vềgiá cả và chất lượng sau năm 2005.
- Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng để thúc đẩy các ngành nông nghiệp,
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ...của tỉnh phát triển theo.
- Chú trọng mở mang dân trí, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Giải quyết những vướng mắc trong chính sách vay vốn, cải cách hành chính, để
thúc đẩy kinh tế ngoài quốc doanh phát triển.
Các giả thiết trên mà được thực hiện thì theo phương án này, nhịp độ
tăng GDP hàng năm thời kỳ 2001-2010 là 10,5%. Trong đó nông lâm ngư
nghiệp tăng 5% do áp dụng các biện pháp canh tác, tiên tiến, hoàn chỉnh hệ
thống thuỷ lợi, kiên cố kênh mương nội đồng, áp dụng một cách rộng rãi giống
mới vào trồng trọt và chăn nuôi...nhằm tăng năng suất, chất lượng cây trồng
và vật nuôi. Công nghiệp và xây dựng tăng từ 16-175, cao hơn phương án I, do
sự đột phá trong xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất và xã hội đã tạo điều kiện và

môi trường mở rộng sản xuất. Dịch vụ dự kiến tăng trung bình hàng năm 8-
9%, do công nghiệp và xây dựng phát triển với tốc độ cao, có một phần sản
phẩm dầu khí tham gia.
Đạt mức tăng trưởng như trên thì giá trị GDP toàn tỉnh năm 2010 sẽ
tăng gấp 2,7 lần năm 2000, đưa GDP đầu người tăng từ 291USD năm 2000 lên
750 USD năm 2010, GDP/người của tỉnh đuổi kịp mức trung bình cả nước. Đến
năm 2005 GDP nông lâm ngư nghiệp chiếm 33,3%, công nghiệp và xây dựng
chiếm 33%, dịch vụ gần 33,7%. Năm 2010: nông lâm ngư nghiệp 24-25%, công
nghiệp và xây dựng:39-41%, dịch vụ 34-37%.
- Dân số thành thị tăng nhanh hơn phương án xu thế, một phần do
chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế. Dự kiến đến năm 2010 dân số thành thị
chiếm 25%. Về cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch, dự kiến đến năm 2005
lao động nông lâm ngư nghiệp chiếm 73%, lao động công nghiệp và xây dựng
chiệm 14%, còn lao động dịch vụ chiếm 13%; đến năm 2010 tỷ lệ lao động
nông lâm ngư nghiệp thấp hơn nữa so với năm 2005, lao động công nghiệp và
dịch vụ lần lượt là 15%, 14%.
- Dự kiến nhu cầu vốn đầu tư hàng năm cho phương án trung bình vào
khoảng 7.000 tỷ đồng, gấp 2 lần năm 2000, cao hơn 40% so với phương án xu
thế.
Kết quả của phương án II:
Tổng GDP năm 2010 gấp 2,7 năm 2000.
GDP/người năm 2010 là 750 USD đạt mức trung bình cả nước.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2001-2010 là 10,5%
Nông lâm ngư 5%
Công nghiệp và xây dựng 16-17%
Dịch vụ 8-9%
Cơ cấu kinh tế năm 2010:
Nông lâm ngư 24-25%
Công nghiệp 39-41%
Dịch vụ 34-37%

Tỷ lệ đô thị hoá 25%
Tổng đầu tư cần khoảng 77 nghìn tỷ
Phương án III: (Phương án cao)
Trên cơ sở của phương án II, với tăng trưởng cao hơn, có sự đột phá
trong công nghiệp và dịch vụ, phát triển mạnh công nghiệp có hàm lượng cao
ngay từ những năm 2001 và phấn đấu đến năm 2010 không những đuổi kịp
mà còn vượt mức trung bình của cả nước.
Phương án này yêu cầu:
- Phát triển thật mạnh cơ sở hạ tầng sản xuất và dịch vụ, đặc biệt là tập
trung phát triển nhanh các ngành công nghiệp hướng mạnh vào xuất khẩu, có
hàm lượng khoa học và vốn cao hơn phương án II.
- Công nghiệp, xây dựng, đặc biệt là công nghiệp sản xuất vật liệu xây
dựng và công nghiệp lọc dầu, công nghiệp điện lực, công nghiệp chế biến nông
lâm sản phát triển ở mức độ cao hơn phương án trung bình.
- Có cơ hội hợp tác đầu tư với bên ngoài thuận lợi.
- Phải tăng cường xuất nhập khẩu và trao đổi hàng hoá, dịch vụ với cả
nước và ngoài nước, phát triển mạnh du lịch.
Kết quả của phương án III:
+ Nhịp độ tăng trưởng GDP trong thời kỳ 2001-2010 vào khoảng 12,6%,
trong đó nhịp độ tăng GDP nông lâm ngư nghiệp 6%, công nghiệp và xây dựng
19,5%, dịch vụ 11%.
+ Giá trị GDP năm 2010 tăng gấp 3,3 lần năm 2000.
+ Chuyển dịch cơ cấu GDP diễn ra cao hơn hai phương án trên. Cơ cấu
nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ năm 2005 tương ứng
là: 33,3%; 33,0%; 33,7%. Đến năm 2010 cơ cấu sẽ là: 20-22%; 42-44%; 34-
35%.
+ Cơ cấu lao động dịch chuyển nhanh hơn hai phương án trên, một phần
do chuyển dịch mạnh cơ cấu ngành. Đến năm 2010 cơ cấu lao động nông lâm
ngư nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ tương ứng là:70%;16%;14%.
Dân số thành thị: 30% năm 2010.

+ Dự kiến nhu cầu đầu tư hàng năm vào khoảng 9500 tỷ đồng gấp 2,7
lần so với năm 2000.
Ba phương án trên đều có nội dung phát triển kinh tế xã hội tương tự
như nhau nhưng khác nhau về mức độ công nghiệp hoá và hướng xuất khẩu.
Phương án II và phương án III đòi hỏi đầu tư toàn diện hơn vào cơ sở vật chất
hạ tầng kinh tế xã hội ngay từ những năm đầu của thời kỳ và triển khai xây
dựng cơ sở vật chất cho các ngành sản xuất hướng mạnh vễ xuất khẩu, nên
nhu cầu đầu tư cao hơn phương án I.
Việc lựa chọn cơ cấu kinh tế và phương án phát triển còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, đáng chú ý là: sự quyết định phân bố lực lượng sản xuất của
Chính phủ, vốn đầu tư và công nghệ, nguồn nhân lực và các yếu tố ảnh hưởng
bên ngoài.
Như vậy từ một số phân tích về nhân lực, về nguồn vốn và kết hợp với
dự báo tăng GDP cả nước, xung quanh trên 7%, xem xét dự báo các sản phẩm
chủ yếu trong tỉnh có thể thấy tính khả thi và hiệu quả đầu tư phương án II cao
hơn phương án III. Đối với Thanh Hoá còn nhiều tiềm năng huy động nội lực
cho phát triển: về nông nghiệp và công nghiệp nhất là công nghiệp trung ương
đặt trên địa bàn có nhiều khả năng phát triển, do vậy việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo phương án II có thể xem xét lựa chọn làm định hướng
chủ đạo, còn phương án III là phương án phấn đấu cao hơn.
3.2. Phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Chúng ta bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ thực hiện công nghiệp
hoá - hiện đại hoá. Mục tiêu phát triển giai đoạn này đã được Đại hội toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định là: "Xây dựng nước
ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Từ nay đến 2010, ra sức phấn đấu đưa nước cơ bản trở thành một nước
công nghiệp ".

Thực hiện mục tiêu phát triển trên của tỉnh trong điều kiện nền kinh tế
nước ta đang từng bước hôị nhập với khu vực và thế giới. Bởi vậy, để vừa đạt
được mục tiêu phát triển, vừa đảm bảo quá trình hội nhập, chúng ta phải kiên
quyết đồng bộ nhiều vấn đề có tính chiến lược về kinh tế - xã hội - tổ chức và
quản lý, trong đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với tiến trình chung
là một đòi hỏi bức xúc trong việc điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế theo hướng
tiến bộ, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhanh, sớm hoà nhập với nền
kinh tế khu vực và thế giới. Trong những năm tới, cơ cấu ngành kinh tế của
Thanh Hoá có thể chuyển dịch theo các hướng sau đây:
Cần tiếp tục giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP của tỉnh
đồng thời tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ lên một cách tương ứng.
Hiện nay, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp là 37%; của công nghiệp là 29,8%;
của dịch vụ là 33,2%. Theo mục tiêu đề ra, trong những năm tới cần tiếp tục
đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành sao cho tỷ trọng của ngành
nông nghiệp còn khoảng 24-25%, công nghiệp và dịch vụ tăng lên tương ứng
là 39-41% và 34-37% trong GDP của tỉnh vào năm 2010. Đương nhiên cũng
cần phải hiểu rằng, khu vực nông nghiệp giảm về tỷ trọng, còn khối lượng các
sản phẩm do nông nghiệp làm ra thì vẫn tăng lên. Tuy nhiên vấn đề đặt ra làđể
có được một cơ cấu ngành và lĩnh vực kinh tế hợp lý thì quan trọng là phải tạo
ra được cơ cấu hợp lý trong từng ngành, từng lĩnh vực và trong từng nội bộ
từng ngành, từng khu vực và trong từng nội bộ từng ngành cụ thể:
* Khu vực nông nghiệp:
Nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm 3 ngành cơ bản là nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Trong những năm vừa qua, thực hiện công
nghiệp đổi mới, nông- lâm- ngư nghiệp có một vị trí quan trọng trong nền kinh
tế của tỉnh. Bằng các chương trình 327, chương trình đánh bắt xa bờ... Thanh
Hoá đã khai thác được thế mạnh của tỉnh diện tích rừng và đất rừng chiếm tới
63,7% diện tích tự nhiên của toàn tỉnh và hơn 1,7 vạn km² diện tích vùng lãnh
hải và nhiều vùng, đầm nước mặn, nước lợ rất phù hợp cho việc nuôi trồng
thuỷ sản. Tuy nhiên nhìn một cách tổng thể cơ cấu giưã nông- lâm- ngư nghiệp

vẫn chưa hợp lý. Hiện nay (2003) lâm nghiệp mới chiếm 7,4% tổng giá trị sản
xuất của ba ngành, thuỷ sản chiếm 9,75 và nông nghiệp chiếm tới 82,9%.
Hướng phát triển tới cần tập trung đầu tư giải quyết bất hợp lý này,
Lâm nghiệp và thuỷ sản là 2 ngành Thanh Hoá có thế mạnh trong việc nuôi
trồng và khai thác, Trong lâm nghiệp cần phát triển toàn diện, đa dạng hoá các
sản phẩm nông lâm kết hợp gắn công nghiệp chế biến tạo ra hàng hoá phong
phú, chất lượng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Trong thuỷ sản cần
đầu tư đồng bộ cơ sở vật chất và phương tiện đánh bắt, tiếp tục phát triểnvà
đầu tư có hiệu quả chương trình đánh bắt xa bờ. Gắn phát triển kinh tế biển
nói chung, kinh tế thuỷ sản nói riêngvới bố trí lại cơ cấu dân cư các vùng, tạo
công ăn việc làm cải thiện đời sống. Phấn đấu nâng dần tỷ trọng của ngành
lâm nghiệp và thuỷ sản lên 20% và 30% trong tổng giá trị ba ngành.
Đi liền với phát triển, chuyển dịch cơ cấu giữa nông- lâm- ngư nghiệp
cũng cần coi trọng hợp lý đến chuyển dịch cơ cấu trong nội ngành nông nghiệp
bao gồm trồng trọt chăn nuôi. Đất nước ta bước vào thời kỳ công nghiệp hoá-
hiện đại hoá, sớm hoà nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và thế
giới. Nhu cầu tiêu dùng cũng sẽ thay đổi theo hướng giảm dần nhu cầu về
lương thực, tăng nhu cầu tiêu thịt sữa... Do đó phát triển mạnh chăn nuôi sẽ là
một tất yếu của xu hướng phát triển. Mặt khác cũng cần quan tâm thoả đáng
tới việc chuyển dịch cơ cấu trong ngành trồng trọt, phải đầu tư để hình thành
những vùng sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả, ... đáp ứng được yêu cầu cho
công nghiệp chế biến cũng như tiêu dùng sản phẩm đời sống của dân cư.
* Khu vực công nghiệp.
Phương hướng phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp là
cần tập trung phát triển mạnh công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công
nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp sản xất giấy, bột giấy, công
nghiệp đóng sửa tầu thuyền đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều lao động với
như dệt may, da giầy... Đặc biệt cần tập trung đầu tư vào một số ngành công
nghiệp cơ khí- điện- điện tử bởi đây là những ngành công nghiệp sản xuất thiết
bị máy móc, nguyên liệu phục vụ sản xuất các ngành kinh tế trọng yếu, phục vụ

nông lâm ngư nghiệp, phục vụ đời sống và xuất khẩu. Đây là những ngành
đáng quan tâm và phải được đầu tư trong thời gian tới. Cùng với quan tâm
đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị , nâng cao chất lượng, khả năng cạnh
tranhcủa các ngành nói trên, trong những năm tới cần tập trung thu hút đầu
tư xây dựng mới các khu công nghiệp động lực như các thép, chế biến sữa...
Đặc biệt xúc xây dựng nhà máy lọc dầu số 2 tạo động lực phát triển và chuyển
dịch cơ câcú ngành, các vùng trong tỉnh.
* Khu vực du lịch .
Trong thời kỳ tới đẩy mạnh phát triển thương mại, du lịch và các ngành
nghề phục vụ sản xuất đời sống. Xúc tiến các hoạt động tìm kiếm thị trường
cho hang hoá xuất khẩu đồng thời hạn chế thấp nhất viẹec xuất khẩu nguyên
liệu thô hoặc sơ chế. Tập trung đầu tư mở rộng và phát triểnmột số ngành dịch
vụ quan trọng, có tiềm năng lợi thế để phát triển, có ảnh hưởng trực tiếp sự
phát triển kinh tế của giao thông vận tải, tài chính ngân hàng , bưu chính viễn
thông. Đồng thời từng bước không ngừng nâng cao chất lượng và đa dạng hoá
các loại hình dịch vụ, tạo sự hấp dẫn thu hút đối với người sử dụng dịch vụ và
đưa dịch vụ trở thành ngành đóng góp nhiều cho ngân sách tỉnh.
4. Mục tiêu phát triển của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnhThanh
Hóa.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nghị định, chủ
trương và các biện pháp từng bước thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nghị
quyết hội nghị trung ương VII khoá VII là khâu đột phá quan trọng thúc đẩy

×