Thực trạng hoạt động Marketing tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội
Đối với các NHTM Việt Nam, việc ứng dụng Marketing còn rất hạn chế,
đặc biệt là các NHTM quốc doanh và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Hà nội cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Với một thời gian dài
hoạt động trong cơ chế bao cấp, các Ngân hàng đã quen với quan niệm khách
hàng phụ thuộc vào Ngân hàng, Ngân hàng không cần Marketing, khách hàng
vẫn đến với Ngân hàng và Ngân hàng vẫn tồn tại, phát triển. Tuy nhiên trong
vài năm gần đây, khi sự cạnh tranh trên thị trường Ngân hàng ngày càng gay
gắt, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội đã có những
chuyển biến tích cực trong công tác Marketing Ngân hàng. Đây là cơ sở để ứng
dụng Marketing hiệu quả.
2.1. NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HN
2.1.1. Môi trường hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội
Được thành lập từ năm 1988 đến nay, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Hà nội đã trưởng thành qua 13 năm hoạt động kinh doanh và
đã đạt được những thành quả to lớn góp phần vào sự nghiệp xây dựng một
nền kinh tế vững mạnh cho Thủ đô. Từ những ngày đầu thành lập trong thời
kỳ nền kinh tế bước sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội đã vượt qua nhiều thử
thách để đưa Ngân hàng ngày càng đi lên và ngày càng khẳng định chỗ đứng
của mình trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam.
Cùng với toàn nghành, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Hà nội hoạt động trên một địa bàn đông dân cư, là trung tâm kinh tế của cả
nước với đầy đủ mọi thành phần kinh tế. Riêng trên địa bàn Hà nội có tới 70
ngân hàng trong đó nội thành là tới trên 50 ngân hàng cùng hoạt động, chưa
kể các quỹ tín dụng Bưu điện, Công ty bảo hiểm, Công ty Tài chính...thực hiện
các dịch vụ ngân hàng. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên
doanh, ngân hàng cổ phần trên địa bàn thủ đô đã dẫn tới tình hình cạnh tranh
gay gắt giữa các tổ chức tín dụng. Từ khi luật doanh nghiệp ra đời thì số lượng
các doanh nghiệp được phép thành lập tăng rất nhiều, nhu cầu về sử dụng các
dịch vụ ngân hàng đặc biệt là tín dụng là rất lớn, tuy nhiên các doanh nghiệp bị
phá sản do làm ăn thua lỗ cũng gia tăng liên tục trong những năm qua cũng
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nợ tồn đọng của một số
doanh nghiệp nhà nước từ những năm 1993-1994 dồn lại đến nay chưa giải
quyết thực sự là những gánh nặng cho năm 2001 và một số năm sau này đối
với ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội, hoặc là một số
doanh nghiệp nhà nước chưa tìm ra chỗ đứng trong cơ chế thị trường, sản
xuất kinh doanh chưa thực sự ổn định nhất là các doanh nghiệp kinh doanh
chưa ổn định, chưa có mặt hàng chủ chốt.
Từ năm 1997 đến nay, nền kinh tế cả nước nói chung và kinh tế Thủ đô
nói riêng tiếp tục phát triển ổn định và vững chắc mặc dù cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ khu vực Châu Á đã làm giảm kim ngạch xuất khẩu; tỷ giá
ngoại tệ biến động mạnh tạo bất lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu,
ngoài ra còn là trở ngại trong việc khai thác và cung ứng ngoại tệ thanh toán
với nước ngoài của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội;
giá vàng cuối năm 2001 đến nay tiếp tục tăng mạnh; giá cả các mặt hàng khác
tương đối ổn định.
Bên cạnh những khó khăn có môi trường kinh doanh trên địa bàn Hà nội
đem lại thì ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội có những
thuận lợi là đội ngũ nhân viên có trình độ, lòng nhiệt tình yêu nghề, sự đoàn
kết thống nhất từ ban chấp hành đảng uỷ, ban giám đốc, sự đồng tâm nhất trí
của cán bộ Đảng viên, viên chức đã tạo thành sức mạnh tổng hợp để ngân
hàng có những bước đi vững chắc trong một môi trường kinh tế sôi động có sự
hỗ trợ của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội là một NHTM
quốc doanh hoạt động kinh doanh tiền tệ - tín dụng ngân hàng tuân theo Pháp
lệnh Ngân hàng tháng 5 năm 1990 và Luật ngân hàng (có hiệu lực ngày
1/10/1998) tuân theo điều ước quốc tế về lĩnh vực ngân hàng. Những năm
vừa qua, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội có những
hoạt động tích cực trong việc cơ cấu bộ máy quản lý, Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Hà nội đã tập chung vào việc phát huy vai trò và năng
lực của từng bộ phận cũng như từng cá nhân trong việc thúc đẩy hoạt động
ngân hàng ngày càng phát triển. Đội ngũ cán bộ được trẻ hoá và có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, 100% cán bộ của Ngân hàng có trình độ đại
học và trên đại học.
2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI .
Trong điều kinh tế thị trường cùng với quá trình hợp tác, liên kế kinh tế
theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi, giữa các doanh nghiệp hoạt động trong
cùng một lĩnh vực luôn xảy ra quá trình cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết
liệt. Tuy là loại hình doanh nghiệp có một số nét đặc thù, các Ngân hàng cạnh
tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt. Tuy là loại hình doanh nghiệp có một số
nét đặc thù, các Ngân hàng cũng không năm ngoài quy luật này. Xét về lâu dài
và toàn cục, cạnh tranh là động lực phát triển và nâng cao năng suất hiệu quả.
Tuy nhiên, không phải mọi hành vi cạnh tranh đều có tác dụng tích cực và
mang lại hiệu quả, lợi ích chung. Bên cạnh sự cạnh tranh tích cực giúp nâng
cao chất lượng dịch vụ, giảm chi phí của các Ngân hàng và mang lại tiện ích
tốt hơn cho khách hàng và xã hội còn có sự cạnh tranh không lành mạnh bằng
việc sử dụng các biện pháp và công cụ không hợp pháp hoặc trái với chuẩn
mực đạo đức xã hội. Những hành vi như vậy thường chỉ đem lại lợi ích cho một
Ngân hàng trên cơ sở gây thiệt hại cho thị trường và thiệt hại cho Ngân hàng
khác cũng như cho khách hàng và xã hội. Do vậy, ở hầu hết các quốc gia phát
triển, để chiến thắng trong cạnh tranh, thu hút đông đảo khách hàng để đạt
mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận thì không có một hoạt động nào tốt và hiệu
quả hơn là: "Ứng dụng Marketing vào trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng".
Ở Việt Nam, từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, việc áp dụng Marketing
vào quá trình thực tiễn của các NHTM gặp rất nhiều khó khăn do hạn chế về
nhận thức tầm quan trọng của Marketing cũng như thiếu hệ thông thông tin
và thị trường, khách hàng... Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Hà nội là thành viên của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam cũng không nằm ngoài thực trạng đó, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Hà nội hiện nay chưa có phòng Marketing trong cơ cấu tổ
chức nhưng trong một thời gian không xa nữa, Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Hà nội sẽ thành lập bộ phận chuyên trách về Marketing
trong hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, từ ban giám đốc đến từng
phòng ban và cụ thể là từng nhân viên của Ngân hàng cũng như các chi nhánh
đã và đang tiến hành mọi biện pháp để hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội đã không ngừng kiện
toàn tổ chức, sắp xếp lại bộ máy hoạt động phù hợp với mọi yêu cầu thực tiễn,
đưa ra chiến lược kinh doanh luôn theo sát với thực tế và từng bước hiện đại
hoá công nghệ ngân hàng, luôn thay đổi phong cách và lề lối làm việc văn
minh, lịch sự và hiệu quả với phương châm “sự thành đạt của khách hàng
là mục tiêu hành động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Hà nội”. Với tinh thần đó, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Hà nội luôn thực hiện tốt chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của
Đảng và Nhà nước nói chung và của Thủ đô nói riêng và hoàn thành các chỉ
tiêu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt nam, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực thi chính sách tiền tệ ngân hàng nhà
nước.
2.2.1. Tổ chức nghiên cứu thị trường và xác định thị trường mục
tiêu:
Nghiên cứu thị trường là khâu quan trọng nhất đối với một doanh
nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường. Thị trường cũng là xuất phát điểm
và là mục tiêu của hoạt động Marketing. Ngay từ khi hoạt động độc lập theo cơ
chế thị trường, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội đã rất
quan tâm đến công tác này từ việc phát hiện ra nhu cầu đến việc đưa ra giải
pháp nhằm kích thích nhu cầu và đáp ứng những nhu cầu đó, hoạt động
nghiên cứu thị trường và xác định thị trường mục tiêu tập trung vào những
công việc sau:
♦ Nghiên cứu môi trường kinh doanh :
Với vai trò là NHTM quốc doanh hoạt động chủ yếu trên thị trường tài
chính tiền tệ , Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội dưới
sự chỉ đạo của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã
hướng của mình để phục vụ đắc lực, có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp
hoá và hiện đại hoá . Bước sang thập niên đầu của thế kỷ 21, quá trình công
nghiệp hoá và hiện đại hoá diễn ra trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học
công nghệ phát triển mạnh, nước ta đang hội nhập vào kinh tế khu vực và
thế giới với sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trong khi đó nền nông
nghiệp đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức: cơ cấu kinh tế chuyển
dịch chậm, sản xuất chưa theo sát yêu cầu của thị trường, sản phẩm làm ra
chất lượng thấp, giá thành cao, khả năng cạnh tranh còn thấp. Đối tượng
phục vụ của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội xét về
bản chất, tự thân nó đã là một thách thức to lớn kể cả trước mắt và lâu dài.
Nắm bắt được tình hình này, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Hà nội đã biết lợi dụng những điểm mạnh để tìm cho mình phương
hướng kinh doanh phù hợp. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Hà nội có một thuận lợi rất lớn là hoạt động trên địa bàn là trung tâm kinh tế
- chính trị - văn hóa của cả nước, là đầu mối giao thông nối liền các khu vực
kinh tế lớn của cả nước về đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không, là
nơi thu hút nhiều dự án đầu tư nước ngoài, có điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế.
♦ Nghiên cứu nhu cầu của khách hàng :
Với phương châm tối đa hoá thị trường hoạt động, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội đã và đang thực hiện chính sách đa
dạng hoá khách hàng. Hàng năm, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Hà nội đều thực hiện phân loại khách hàng và phục vụ tất cả đối
tượng khách hàng như: dân cư, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các trường học,
bệnh viện,...chủ trương về công tác khách hàng là: giữ được khách hàng truyền
thống, có uy tín, thu hút khách hàng mới có chất lượng cao, không phân biệt
thành phần kinh tế. Số lượng khách hàng đến giao dịch được theo dõi thường
xuyên tại phòng kinh doanh và đối với những khách hàng vay vốn để sản xuất
thì giao cho từng cán bộ phụ trách quản lý, giám sát từ khi cho vay đến khi thu
nợ. Chính từ hoạt động này Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Hà nội đã nắm bắt được nhu cầu của từng loại khách hàng: nhu cầu thanh
toán vốn, nhu cầu thu tiền mặt tại chỗ của một số doanh nghiệp như công ty
bia Hà nội, nhà máy thuốc lá Thăng long, công ty bia Đông nam Á, các chi
nhánh kho bạc Hà nội..., nhu cầu gửi tiền, nhu cầu đầu tư tín dụng, cho vay hộ
nghèo, nhu cầu về mở LC, thanh toán LC, thanh toán nhờ thu, trả chậm, nhu
cầu mua bán ngoại tệ, nhu cầu bảo hành, uỷ thác,... Bên cạnh, việc nắm bắt nhu
cầu hiện tại như vậy, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội
đang tiến hành nghiên cứu xu hướng thay đổi nhu cầu của khách hàng trên cơ
sở phân tích và dự đoán về các ngành nghề kinh doanh của khách hàng. Những
nguồn thông tin từ sách báo rất hữu ích cho công việc nghiên cứu nhu cầu, nó
giúp ngân hàng biết được những biến động về thị trường, giá cả, tình hình
sản xuất của các ngành, các lĩnh vực mà khách hàng của ngân hàng tham gia
vào. Chẳng hạn, khi hiệp định thương mại Việt -Mỹ được ký kết thì sẽ tạo triển
vọng cho ngành may mặc, thủ công mỹ nghệ,...xuất khẩu. Các khách hàng trong
ngành này sẽ có nhu cầu rất lớn để mở rộng qui mô sản xuât. Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội rất quan tâm đến các doanh nghiệp sản
xuất có mặt hàng xuất khẩu không chỉ để thu hút ngoại tệ về cho ngân hàng
mà còn để thu hút các doanh nghiệp khác đến quan hệ với ngân hàng. Lãi suất
và phí thanh toán áp dụng đối với các doanh nghiệp có mặt hàng xuất khẩu, có
khả năng tài chính lành mạnh là rất ưu đãi. Và đó là chiến lược giá và chiến
lược khách hàng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội .
Hiện nay, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội có số
lượng khách hàng như sau: khách hàng gửi tiền có 497 là tổ chức kinh tế và tổ
chức xã hội; 10 tổ chức TD; 17.205 khách hàng là dân cư. Khách hàng vay vốn:
150 doanh nghiệp nhà nước trong đó 10 công ty 90,91,93; 103 doanh nghiệp
ngoài quốc doanh; 562 hộ sản xuất ; trên 3.000 là tư nhân và cán bộ công nhân
viên.
♦ Nghiên cứu hoạt động của các Ngân hàng khác: là một mảng rất quan
trọng. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội đều phải theo
dõi sát sao tình hình hoạt động cũng như xu thế phát triển của họ. Điều đó thể
hiện ở ba mặt:
Một là: Chế độ kinh doanh của các ngân hàng khác.
Hai là: Tình hình hoạt động kinh doanh và ưu thế của ngân hàng khác so
với mình
Ba là: Nghiên cứu khách hàng của các ngân hàng khác.
Tuy vậy, đây là một công việc rất khó khăn và phức tạp nhất trong hoạt
động nghiên cứu thị trường và lựa chọn cho mình một thị trường kinh doanh
an toàn hiệu quả. Hiện nay, với 4 NHTM quốc doanh, 2 ngân hàng chính sách, 4
ngân hàng liên doanh, 26 ngân hàng nước ngoài, 48 NHTM cổ phần, 26 văn
phòng đại diện của các tổ chức tín dụng và ngân hàng nước ngoài. Với số
lượng Ngân hàng như trên, thị trường các ngân hàng hiện nay là khá lớn và
đang có xu hướng tăng thêm. Tìm hiểu để biết về chế độ, tình hình kinh doanh
và khách hàng của Ngân hàng đòi hỏi một đội ngũ nhân viên khá lớn.
Nghiên cứu cho thấy, hiện tại nhóm NHTM quốc doanh, một số NHTM cổ
phần, Ngân hàng nước ngoài cung cấp những sản phẩm và dịch vụ giống nhau
và có khả năng cạnh tranh với nhau. Các Ngân hàng không còn chịu sự cạnh
tranh gay gắt, đặc biệt là ở việc cung cấp tín dụng. Ưu thế lớn nhất của Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội là có nguồn vốn tăng
trưởng khá và ổn định do vậy mà luôn đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu cần thiết
của khách hàng. Với định hướng hoạt động đa năng, ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn Hà nội cung ứng ra thị trường hầu hết các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng, có khả năng đầu tư cho các dự án trung dài hạn lớn nhằm
hiện đại hoá và công nghiệp hóa nền kinh tế thủ đô. Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Hà nội còn là đơn vị dẫn đầu trong hệ thống Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam về tạo nguồn vốn kinh doanh,
năm 2001 ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội đã cung
ứng nguồn vốn nội tệ để cân đối cho toàn ngành tăng 63,8% so với năm 2000.
Nguồn vốn năm 2001 đạt 4.257 tỷ đồng tăng 27,3% so với năm 2000, cho các
thành phần kinh tế vay 4.040 tỷ đồng tăng 27% so với năm 2000. Cũng trong
năm 2001, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội đã mở
rộng đầu tư tín dụng cho các thành phần kinh tế, chú trọng mở rộng cho vay
trung dài hạn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị, mở rộng qui mô
sản xuất, đã áp dụng phương thức đầu tư tín dụng đồng tài trợ với 2 dự án lớn
đó là cho Tổng công ty gốm sứ vay 208 tỷ đồng để xây dựng Nhà máy kính nổi
Bình Dương, Công ty Bia Hà Nội vay 10 triệu đô la Mỹ để nâng công suất lên
gấp 2 lần công suất hiện có.
Nhờ đổi mới kinh doanh nên năm 2001 có thêm 30 doanh nghiệp vay
vốn tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội. Vừa
cho vay các dự án lớn tập trung, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Hà nội còn mở rộng cho vay sinh hoạt đối với công chức, viên chức, sĩ
quan, công nhân viên quốc phòng trong các doanh nghiệp, trường học, bệnh
viện, lực lượng vũ trang với gần 400 tỷ đồng, vốn cho vay của ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội đã hỗ trợ cho nhiều gia đình cải tạo, sửa
chữa nhà ở, mua sắm các tiện nghi sinh hoạt trong gia đình góp phần cải thiện
đời sống.
Trên đây là một số nội dung hoạt động nghiên cứu thị trường chủ yếu
được tiến hành tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội.
Những thông tin thu được là cơ sở để xây dựng chiến lược, Marketing hiệu quả
trong cho kinh doanh ; vừa thoả mãn tốt nhu cầu khách hàng, vừa đem lại lợi
ích kinh tế cho ngân hàng .
2.2.2. Hoạch định chiến lược Marketing.
Chiến lược Marketing được xây dựng trên cơ sở những kết quả nghiên
cứu thị trường và định hướng phát triển của ngân hàng. Mục tiêu của Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội là lành mạnh tài chính,
tăng vốn điều lệ, nâng cao khả năng cạnh tranh, đa dạng hoá sản phẩm và đổi
mới công nghệ.
Hoạch định chiến lược kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Hà nội do phòng kinh doanh phụ trách. Cụ thể gồm các chiến
lược sau:
2.2.2.1. Chiến lược sản phẩm :
♦ Chính sách huy động vốn đa dạng:
Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu của Ngân hàng, huy động vốn
hiệu quả sẽ phản ánh tình hình tài chính, uy tín cao của bất kỳ Ngân hàng nào.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội đã có rất nhiều hình
thức huy động vốn để tăng nguồn vốn cụ thể là:
- Nhận tiền gửi của dân cư; của tổ chức kinh tế ; của Kho bạc Nhà
nước ; của các tổ chức tín dụng, của các tổ chức khác.
- Phát hành giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu.
- Vay vốn của Ngân hàng Nông Nhà nước, Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam, của các tổ chức tín dụng khác.
Ngoài việc huy động nguồn vốn bằng đồng Việt Nam, ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội đã làm tốt công tác huy động ngoại tệ
mạnh. Cụ thể đạt được như sau:
Năm 2001: Nguồn vốn Việt Nam đồng đạt 3.866tỷ tăng 24,9% so với
năm 2000, nguồn vốn đô la Mỹ đạt 319 tỷ đồng tăng 56,4% so với năm 2000.
Trong đó chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm của dân cư, chiếm 88% tổng
nguồn vốn ngoại tệ.
♦ Chính sách đa dạng hoá các hình thực sử dụng vốn:
Theo luật các tổ chức tín dụng, hoạt động tín dụng là “sử dụng nguồn
vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng cho khách hàng theo đó ngân
hàng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc hoàn
trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài
chính và các nghiệp vụ khác.
Hiện nay, ở Việt Nam kinh doanh tín dụng là loại hình nghiệp vụ đem lại
nguồn thu nhập cao nhất cho Ngân hàng. Hoạt động tín dụng có an toàn hiệu
quả mới bảo toàn được vốn và tăng trưởng vốn, đảm bảo cho Ngân hàng ốn
định và phát triển.
Trong năm 2000, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà
nội đã cho 950 hộ nghèo vay 1,2 tỷ đồng vốn cho sản xuất kinh doanh, nhiều
hộ đã có thu nhập khá trả nợ ngân hàng được 1,7 tỷ đồng, số hộ thoát khỏi đói
nghèo là 354 hộ. Các tổ tương trợ, tổ tiết kiệm và vay vốn đã trực tiếp tiến
hành cho vay đối với hộ nghèo. Năm 2001, dư nợ đạt 1.572 tỷ đồng chiếm
72,7% tổng dư nợ, dư nợ trung dài hạn là 429 tỷ bao gồm:
Dư nợ bằng tiền đồng Việt Nam là 1237 tỷ đồng.
Dư nợ bằng ngoại tệ là 22 triệu đô la Mỹ.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà nội đã tăng vốn đầy
tư cho các đơn vị như Tổng công ty Vật tư Nông nghiệp, Tổng công ty cà phê,
Nhà máy thuốc lá Thăng Long, các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu; đặc biệt
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội đã dành một khoản
vốn lớn để đầu tư cho cán bộ công nhân viên thuộc các đơn vị sản xuất kinh
doanh ; cơ quan hành chính sự nghiệp; bệnh viện, trường học để phục vụ đời
sống nhằm mục đích từng bước nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên trên
địa bàn Hà Nội.
Song song với việc đáp ứng nhu cầu vốn nội tệ, Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Hà nội cũng luôn quan tâm tới việc đảm bảo nguồn
ngoại tệ để kịp thời cung cấp cho khách hàng. Chính sách mở cửa của Đảng và
Nhà nước trong những năm qua đã tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam dần
dần hoà nhập vào mạch phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Các doanh
nghiệp và tổ chức kinh tế trong nước đã thực hiện các giao dịch ngoại thương
với các đối tác nước ngoài trong nhiều ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh.
Tình hình đầu tư mức ngoài vào Hà Nội trong thời gian qua đang có dấu hiệu
cải thiện và phục hồi.
Trong nhiều năm qua, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Hà nội đã luôn là người đồng hành đáng tin cậy của nhiều doanh nghiệp , tổ
chức kinh tế trong hoạt động ngoại thương. Cho vay bằng ngoại tệ tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội áp dụng với các đối tượng
sau:
- Cho vay để thanh toán cho nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hoá dịch vụ.
- Các dự án sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu có thị trường xuất khẩu.
- Để trả nợ trước hạn.
- Cho vay đối với người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
- Cho vay dưới hình thức chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu.
Hiện nay, chi nhánh cho vay các ngoại tệ chuyển đổi mạnh như:
USD, DEM,FRF, JPY và các loại ngoại tệ khu vực biên giới như: nhân dân
tệ Trung Quốc, đồng Kíp của Lào, Riên của Campuchia.
Cũng trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Hà nội còn thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh trong một số
loại hình sau:
- Bảo lãnh dự thầu các công trình xây dựng cơ bản
- Bảo lãnh hoàn thanh toán.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng.