Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận nghề luật sư ở Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325 KB, 19 trang )

Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC
NỘI DUNG................................................................................................. 4
Chương 1.................................................................................................... 4
Một số vấn đề lý luận về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam......................4
1.1 Khái niệm về luật sư, nghề luật sư.............................................................4
1.2 Các giai đoạn phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam...................................5
Sơ lược về sự hình thành nghề luật sư trên thế giới...........................................5
Sự hình thành và phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam...................................6
Chương 2.................................................................................................... 9
Thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam và những giải pháp hoàn thiện....................9
2.1. Thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam..........................................................9
Về đội ngũ luật sư......................................................................................... 9
Về hoạt động hành nghề của luật sư..............................................................13
Về tổ chức luật sư và quản lý luật sư.............................................................14
Về việc bảo vệ quyền hành nghề luật sư và bảo vệ luật sư...............................16
KẾT LUẬN............................................................................................... 18

Nguyễn Văn…

Trang 1


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

MỞ ĐẦU
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 tạo ra diện mạo mới với những kết quả hết sức tích


cực, tác động lớn đến tổ chức và hoạt động của đội ngũ luật sư, đồng thời cũng đặt
ra những thách thức và cơ hội mới trong tình hình hiện nay.Tiếp nối tinh thần đổi
mới nêu trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2-1-2002 về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, có hai nhiệm vụ rất quan trọng liên quan
định chế luật sư được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW là: Đào tạo, phát triển
đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên
môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên
tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều
kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm
của các tổ chức luật sư đối với thành viên của mình. Hơn nữa, đổi mới việc tổ chức
phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân
chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây
là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
Một thành quả rõ nét trong quá trình đưa Nghị quyết số 49-NQ/TW đi vào
đời sống chính là vai trò của Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong việc tham gia góp
ý, xây dựng hoàn thiện pháp luật, trong đó có việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003, đề xuất và xây dựng được chương V mới về bào chữa, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; chuyển tải và ghi nhận những
nguyên tắc cơ bản mới như suy đoán vô tội, tranh tụng trong xét xử được bảo đảm;
đơn giản hóa thủ tục đăng ký tham gia tố tụng, tạo vị thế bình đẳng về chỗ ngồi với
đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015... Thực tiễn
tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, nhất là các vụ đại án đặt dưới sự chỉ đạo của
Ban Chỉ đạo T.Ư về Phòng, chống tham nhũng đã khẳng định vai trò quan trọng,
vị thế bình đẳng trong thực hiện chức năng bào chữa là một trong ba chức năng cơ
bản, tạo thế kiềng ba chân, phản ánh trong một chừng mực nhất định bản chất dân
chủ trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Xét trên phương diện thực tiễn tham gia tố tụng của đội ngũ luật sư, có thể
khẳng định tư tưởng, mục tiêu và các nhiệm vụ mà Nghị quyết số 49-NQ/TW đề
ra đã thật sự đi vào đời sống, vẫn giữ nguyên giá trị nền tảng cho các chủ thể tư

pháp vận hành trong một thể chế thống nhất. Nghị quyết đã tạo vị thế và bước đột
phá mới cho đội ngũ luật sư thực hiện được sứ mệnh và chức năng xã hội cao quý,
sau đó đã được thể chế hóa bằng pháp luật. Tuy nhiên, trước sự chuyển biến rất
nhanh và phức tạp trên các mặt kinh tế, xã hội, đời sống tư pháp và quá trình hội
nhập quốc tế sâu rộng; tổ chức và hoạt động luật sư cũng đang đứng trước những
thách thức và cơ hội rất lớn. Thông qua việc khảo sát, đánh giá kết quả thực hiện
Nguyễn Văn…

Trang 2


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

Nghị quyết số 49-NQ/TW và Chỉ thị 33-CT/TW, Liên đoàn Luật sư Việt Nam
nhận thức được việc hoàn thiện các quy chế vận hành nội bộ nhằm nâng cao năng
lực tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức, kỹ năng và tuân thủ nghiêm túc các quy định trong Bộ Quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp nhằm nâng cao tố chất nội lực, xây dựng văn hóa
ứng xử nghề nghiệp, vun đắp lòng tin của các chủ thể xã hội đối với đội ngũ luật
sư.
Mặt khác, vấn đề tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho luật sư hành nghề,
từng bước phủ kín các phạm vi cung cấp dịch vụ pháp lý, trong đó chú trọng xây
dựng được những tổ chức hành nghề tư vấn, tham gia trợ giúp pháp lý có hiệu quả
cho các cá nhân, doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập quốc tế, trợ giúp pháp lý
cho người nghèo, các đối tượng chính sách, hỗ trợ Chính phủ và các cơ quan nhà
nước trong việc cải cách thủ tục hành chính, đồng thời tháo gỡ những khó khăn,
cản ngại trong quá trình tham gia tố tụng các vụ án hình sự… được coi là các
nhiệm vụ trọng tâm của Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong thời gian tới. Nếu thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm nêu trên, nâng cao chất lượng, uy tín của

mỗi cá nhân và tổ chức hành nghề luật sư, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng,
Nhà nước và nhân dân, sẽ là minh chứng rõ nét Nghị quyết số 49-NQ/TW vẫn còn
giữ nguyên giá trị và tạo động lực cho sự phát triển nghề luật sư ở Việt Nam.
Xuất phát từ tầm quan trọng đối việc nhìn nhận nghề luật sư ở Việt Nam
hiện nay, em chọn đề tài "Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ
Luật sư" làm bài tiểu luận.

Nguyễn Văn…

Trang 3


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

NỘI DUNG
Chương 1
Một số vấn đề lý luận về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam
1.1 Khái niệm về luật sư, nghề luật sư
Trong các nhà nước pháp quyền hiện nay, quyền bào chữa và quyền được
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp là một trong những quyền cơ bản của công dân;
quyền đó thường được thể hiện ngay trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong
các văn bản luật rằng: công dân có thể tự bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình hoặc nhờ người khác bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
trước Toà án. Từ việc nhờ người khác bào chữa, luật sư và nghề luật sư xuất hiện
để đáp ứng nhu cầu được bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân.
Vậy hiểu khái niệm luật sư là gì?
Hiện nay, chúng ta có thể hiểu với nhau rằng: luật sư là một chức danh tư
pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy

định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện theo ủy quyền,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước tòa án và
thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Điều 2 Luật Luật sư 2006 quy định: Luật sư là
người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật luật sư, thực
hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tiêu chuẩn luật
sư được quy định tại Điều 10 Luật Luật sư như sau: “Công dân Việt Nam trung
thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có
bằng Cử nhân Luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành
nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành Luật sư.
Lưu ý rằng, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật luật sư muốn
được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một
Đoàn luật sư.
Nghề luật sư là nghề như thế nào?
Nghề luật sư ở Việt Nam trước hết là một nghề luật, trong đó các luật sư
bằng kiến thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động trong phạm vi
hành nghề theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm
mục đích phụng sự công lý, góp phần bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, nghề luật sư không giống như những nghề
bình thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì
Nguyễn Văn…

Trang 4


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Điều
này tạo nên nét đặc thù riêng của nghề luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc

đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của các luật sư.
Xét về tính chất, có thể hiểu nghề luật sư có ba tính chất cơ bản như sau:
Thứ nhất, tính chất trợ giúp: Nói đến trợ giúp nghĩa là nói đến sự giúp đỡ,
bênh vực không vụ lợi của luật sư cho những người ở vào vị thế thấp kém. Những
người được trợ giúp thường là người bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật
trong xã hội hay những người nghèo, người già cô đơn, người chưa thành niên mà
không có sự đùm bọc của gia đình. Do đó, tính chất này thể hiện hoạt động của
nghề luật sư không chỉ là bổn phận mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức
của luật sư.
Thứ hai, tính chất hướng dẫn: Thông thường, luật sư thực hiện việc hướng
dẫn cho khách hàng hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật, để từ đó họ biết
cách tháo gỡ vướng mắc sao cho phù hợp với pháp lý và đạo lý, cũng như để bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ.
Thứ ba, tính chất phản biện: Là những biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý
kiến quan điểm của người khác mà mình cho là không phù hợp với pháp lý và đạo
lý. Luật sư lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía
cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai… từ đó đề xuất những biện
pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ sai trái, bảo vệ công lý.
Từ tính chất, đặc thù của nghề luật sư, chúng ta thấy rằng không dễ dàng để
có thể thực hiện nghề này một cách bình thường. Ở các nước phát triển nghề luật
sư rất được coi trọng trong xã hội. Người được phép hành nghề luật sư phải trải
qua nhiều chương trình đào tạo và phải là người hội đủ nhiều phẩm chất quan
trọng như thông minh, trong sáng, trung thực, dũng cảm. Luật sư phải biết lấy
pháp luật, đạo đức xã hội, lẽ sống công bằng và chân lý khách quan làm cơ sở cho
hoạt động nghề nghiệp thì mới được tin tưởng và trân trọng.
1.2 Các giai đoạn phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam
Sơ lược về sự hình thành nghề luật sư trên thế giới
Ở châu Âu vào thời Hy Lạp, La Mã cổ đại, nghề luật sư đã xuất hiện trong
đời sống xã hội. Sử sách kể lại rằng, vào khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên,
trong nhà nước Hy Lạp cổ, tổ chức toà án đã được hình thành và việc xét xử có sự

tham gia của người dân. Nguyên cáo hoặc bị cáo có thể tự trình bày ý kiến, lý lẽ
của mình trước Toà hoặc nhờ người khác có tài hùng biện trình bày hộ ý kiến, lý lẽ
bảo vệ hoặc bào chữa. Vào thời đó, việc bào chữa xuất phát tự nhiên nhằm minh
oan cho bạn bè hoặc người thân bị chính quyền bắt giam, trừng phạt một cách độc
đoán và vô cớ. Còn ở La Mã cổ đại, phiên toà thường có sự tham gia của các nhà
chuyên môn, người am hiểu pháp luật để nhắc nhỡ những quy tắc tôn giáo để
Nguyễn Văn…

Trang 5


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

tránh việc viện dẫn sai hoặc vi phạm thủ tục tố tụng; xã hội dần dần hình thành
một nhóm người chuyên sâu, am hiểu về pháp luật và việc diễn giải pháp luật của
họ được xem xét như hoạt động nghề nghiệp. Từ đó, hoạt động của họ ( luật sư)
được chấp nhận và uy tín của họ trong xã hội ngày càng được nâng cao, nghề luật
sư được xem như một nghề vinh quang trong xã hội.
Khi châu Âu chuyển sang thời kỳ Trung cổ với các triều đại phong kiến
phân quyền cát cứ, Toà án và chế độ luật sư ở các nước được xây dựng dưới nhiều
hình thức khác nhau nhằm mục đích phục vụ tôn giáo và chế độ phong kiến. Luật
sư thời ký này không thể hiện rõ và đầy đủ các tính chất nghề nghiệp của họ, vai
trò của luật sư bị hạn chế và bóp nghẹt bởi chế độ xã hội chuyên quyền hà khắc.
Bước sang chế độ tư bản, nghề luật sư được tổ chức chặt chẽ với những
điều kiện khắt khe nhằm bảo vệ quyền lợi riêng cho một bộ phận người xuất thân
từ giai cấp tư sản. Dần dần, các cuộc đấu tranh vì dân chủ, bình đẳng diễn ra
thường xuyên đã buộc chính quyền các nước tư sản phải mở rộng quyền dân chủ
cho người dân, nhu cầu của người dân đối với việc được đảm bảo quyền và lợi ích
của mình trên cơ sở các quy định pháp luật luôn thường trực. Nghề luật sư thể hiện

vai trò to lớn của mình, dần hình thành một nghề tự do.
Hiện nay, ở các nước phát triển, nghề luật sư lại càng được trân trọng, và
thực sự nghề luật sư, bằng tính chất và đòi hỏi đặc thù của nghề nghiệp luôn là một
trong những nghề được yêu thích nhất. Ở Mỹ, rất nhiều vị tổng thống xuất thân là
luật sư, nhiều chính trị gia của nước này đã từng là luật sư trước khi bước vào
chính trường. Nói đến thu nhập, nghề luật sư luôn là nghề có thu nhập dẫn đầu ở
các nước phát triển như Mỹ và châu Âu. Theo thống kê trong năm 2009 của Tạp
chí Fortune, trong số 10 tập đoàn trả lương cho nhân viên cao nhất toàn cầu thì các
công ty luật đã chiếm đến con số 6, bao gồm: Baker Donelson, Bingham
McCutchen, Alston & Bird, Perkins Coie, Arnold & Porter và Orrick, Herrington
& Sutcliffe. Trong đó, Baker Donelson đứng số một toàn cầu về việc trả lương cao
nhất cho nhân viên của mình.
Như vậy, không ngẫu nhiên mà nghề luật sư thực sự luôn được tôn trọng ở
nhiều quốc gia trên thế giới. Bởi có được điều đó, qua thực tiễn nghề nghiệp với
những đặc thù riêng, với những phẩm chất, yếu tố cần thiết đảm bảo hành nghề
phải đạt ở mức độ cao, không dễ gì ai cũng có thể theo đuổi nghề này một cách
thực sự.
Sự hình thành và phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam
Sau khi xâm lược Nam kỳ, ngày 26/11/1876 người Pháp đã ban hành Nghị
định về việc biện hộ cho người Pháp hoặc người Việt mang quốc tịch Pháp tại Tòa
án Pháp. Từ đó nghề luật sư mới chính thức xuất hiện ở nước ta, còn trước đây,

Nguyễn Văn…

Trang 6


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp


việc xét xử của chính quyền phong kiến Việt Nam do vua, quan phong kiến thực
hiện mà không có sự bào chữa, bảo vệ.
Năm 1884, sau khi thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam,
Toàn quyền Pháp ký Sắc lệnh thành lập Luật sư Đoàn tại Sài Gòn và Hà Nội gồm
các luật sư người Pháp và người Việt đã nhập quốc tịch Pháp. Các luật sư chỉ biện
hộ trước Tòa án Pháp cho người Pháp hoặc người có quốc tịch Pháp. Sau đó, với
Sắc lệnh ngày 30/1/1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng cho người Việt Nam
không có quốc tịch Pháp được làm luật sư. Tiến thêm một bước, nhà cầm quyền
Pháp ký Sắc lệnh ngày 25/5//930 về tổ chức Luật sư đoàn ở Hà Nội, Sài Gòn và
Đà Nẵng. Sắc lệnh này đã mở rộng cho các luật sư không chỉ biện hộ ở tòa án
Pháp mà cả trước Toà án Việt Nam; không chỉ bào chữa cho người có quốc tịch
Pháp mà cả người không có quốc tịch Pháp.
Có một chi tiết khá thú vị là, người Việt Nam đầu tiên làm luật sư là ông
Phan Văn Trường (1876 - 1933). Ông là người Từ Liêm, Hà Nội, tốt nghiệp Đại
học luật và làm luật sư tại Paris, một nhà yêu nước. Con đường có trụ sở Học viện
Tư pháp tọa lạc (nơi đào tạo nghề luật sư duy nhất ở Việt Nam hiện nay) mang tên
Phan Văn Trường.
Khi cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân thì
bộ máy tư pháp nước ta cũng được tổ chức lại. Hơn một tháng sau khi Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là người
đứng đầu chính quyền mới đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về tổ chức
đoàn thể luật sư. Sắc lệnh số 46/SL duy trì tổ chức luật sư cũ trong đó có sự vận
dụng linh hoạt các quy định pháp luật cũ về luật sư nhưng không trái với nguyên
tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà năm 1946 khẳng định quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản
của công dân, cụ thể Điều 67 của Hiến Pháp quy định "Người bị cáo được quyền
tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.
Do hoàn cảnh lịch sử với cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ kế tiếp
nhau, toàn dân ta đã phải tập trung sức người, sức của cho nhiệm vụ cứu nước. Với
điều kiện đó, tổ chức luật sư không thể duy trì. Nhiều luật gia, luật sư đã ra mặt

trận, lên chiến khu hoặc tham gia vào hoạt động tư pháp tại các vùng do chính
quyền ta kiểm soát, nghề luật sư giai đoạn này gặp muôn vàn khó khăn. Tuy thế,
Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn quan tâm đến việc bảo đảm quyền bào chữa trước
Toà án của bị cáo, một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi trong
Hiến pháp. Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 quy định nguyên cáo, bị cáo có thể
nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình.
Tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền bào chữa
và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, Hiến pháp nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà năm 1959 (Điều 101) đã quy định "Quyền bào chữa của người bị
Nguyễn Văn…

Trang 7


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

cáo được bảo đảm"; tiếp đó Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1980 ngoài việc khẳng định bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, còn quy
định việc thành lập tổ chức luật sư để giúp cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình.
Để thực hiện quy định của Hiến pháp, trong giai đoạn triển khai xây dựng
văn bản pháp luật về tổ chức luật sư, đội ngũ bào chữa viên tiếp tục được củng cố
và phát triển, cụ thể ngày 31/10/1983 Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số
691/QLTPK về công tác bào chữa, trong đó quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện
làm bào chữa viên, quy định ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành
lập một Đoàn bào chữa viên. Riêng ở hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh thì
thành lập Đoàn luật sư, bào chữa viên, tập hợp các luật sư đã được công nhận
trước đây và các bào chữa viên, đến cuối năm 1987, trên cả nước đã có 30 Đoàn
bào chữa viên với gần 400 bào chữa viên.

Sau ngày thống nhất đất nước, với yêu cầu khách quan, mang tính sống còn
là phải đổi mới, xoá bỏ cơ chế quan liêu-bao cấp và mở rộng dân chủ trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV năm
1986 đã mở đầu một thời kỳ lịch sử mới xây dựng đất nước, thời kỳ đổi mới.
Đường lối đổi mới do Đại hội vạch ra đã tác động sâu rộng đến mọi mặt hoạt động
trong xã hội, trong đó có hoạt động tư pháp. Các đạo luật về tố tụng được ban hành
theo hướng mở rộng dân chủ trong tố tụng, trong đó có việc tăng cường bảo đảm
quyền bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước Toà án
và các cơ quan tố tụng khác. Đó cũng chính là tiền đề quan trọng để vực dậy mạnh
mẽ hơn nghề luật sư ở nước ta. Trong bối cảnh đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư được
ban hành ngày 18/12/1987. Có thể nói, đây là văn bản pháp luật có ý nghĩa lịch sử
trong việc khôi phục nghề luật sư và mở đầu cho quá trình phát triển nghề luật sư ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới. Pháp lệnh quy định rõ tiêu chuẩn được công nhận là
luật sư, chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực giúp đỡ pháp lý của luật sư và tổ chức
các Đoàn luật sư ở các tỉnh, thanh phố trực thuộc Trung ương. Chỉ sau gần 10 năm
thi hành Pháp lênh, ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành
lập Đoàn luật sư; đội ngũ luật sư trong cả nước đã đạt tới con số hàng ngàn luật sư.
Hoạt động luật sư cũng có bước phát triển đáng kể. Ngoài việc tăng cường một
bước về số lượng và chất lượng tham gia tố tụng của luật sư trong các vụ án hình
sự, dân sự, các luật sư đã từng bước mở rộng hoạt động hành nghề sang lĩnh vực
tư vấn pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
Khi bước sang nửa cuối thập niên 90, đất nước ta bước vào giai đoạn quan
trọng của quá trình đổi mới, trong đó nhu cầu đẩy mạnh quá trình xây dựng cơ chế
thị trường, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ, hội nhập
quốc tế ngày càng trở lên sâu sắc, ở mức độ cao hơn.
Nguyễn Văn…

Trang 8



Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

Để đáp ứng nhu cầu mới, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã được ban hành.
Nội dung của Pháp lệnh thể hiện quan điểm cải cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt
động luật sư ở nước ta theo hướng chính quy hoá, chuyên nghiệp hoá đội ngũ luật
sư, nghề luật sư, tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp của
luật sư, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt
Nam. Chỉ sau 5 năm thi hành Pháp lệnh, đội ngũ luật sư đã tăng đáng kể cả về số
lượng và chất lượng. Đặc biệt, trong 5 năm đó các luật sư đã thành lập trên 1.000
tổ chức hành nghề là các văn phòng luật sư, các công ty luật hợp danh. Các Đoàn
luật sư được xây dựng lại và củng cố để làm đúng chức năng của tổ chức xã hộinghề nghiệp tự quản của các luật sư. Hoạt động hành nghề của luật sư cũng được
tăng lên đáng kể về phạm vi và chất lượng. Có thể nói, Pháp lệnh luật sư năm 2001
là văn bản mở đầu cho quá trình chuyên nghiệp hoá và hội nhập quốc tế của nghề
luật sư ở Việt Nam, đã tạo một bộ mặt mới với triển vọng phát triển mạnh mẽ nghề
luật sư ở nước ta.
Không dừng lại ở đó, cùng với bước phát triển và những yêu cầu mới của
xu thế toàn cầu hoá, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta đã có
những bước phát triển nhanh và mạnh mẽ với những sự kiện quan trọng mang tính
chất đột phá. Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đã tạo ra vị
thế và những cơ hội mới phát triển đất nước, đồng thời cũng đặt ra nhiệm vụ quan
trọng là phải chuyển đổi hệ thống pháp luật và các thiết chế cùng cơ chế vận hành
theo lộ trình phù hợp với các cam kết khi gia nhập WTO. Trong các năm 2005,
2006, 2007, Nhà nước ta đã ban thành một số lượng lớn các đạo luật mới hoặc
thay thế các đạo luật không còn phù hợp, trong đó có Luật Luật sư được Quốc hội
thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007.
Sự kiện Luật Luật sư được ban hành và đi vào đời sống đã góp phần nâng
cao vị thế của luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh quá trình xây dựng một đội ngũ
luật sư, nghề luật sư mang tính chuyên nghiệp, ngang tầm với luật sư và nghề luật
sư ở các nước tiên tiến trên thế giới. Có thể nói, Luật Luật sư là mốc son đánh dấu

một bước phát triển vượt bậc của pháp luật về luật sư ở Việt Nam, và qua đó mở ra
nhiều triển vọng mới mẽ cho nghề luật sư.
Chương 2
Thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam và những giải pháp hoàn thiện
2.1. Thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam
Về đội ngũ luật sư
Sự ra đời của Liên đoàn luật sư Việt Nam (12/5/2009) đã đánh dấu một
bước phát triển mới. Đây là nơi tập hợp đoàn kết đội ngũ luật sư góp phần vào việc
bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế, thực hiện cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước
pháp quyền, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội và giữ vững an ninh – ổn định
Nguyễn Văn…

Trang 9


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

chính trị. Liên đoàn luật sư Việt Nam là người đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của luật sư, đồng thời thực hiện công tác tự quản thống nhất của tổ chức xã
hội – nghề nghiệp luật sư trong phạm vi toàn quốc. Cùng với việc hoàn thiện tổ
chức, bộ máy nhân sự, Liên đoàn luật sư Việt Nam đã xây dựng hoàn thiện các
Quy chế nội bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng luật sư đã được triển khai ngay từ khi
Liên đoàn mới được thành lập cho đến nay Liên đoàn trực tiếp và kết hợp với Bộ
Tư pháp, với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức được hơn 20
lớp bồi dưỡng và toạ đàm về pháp luật và kỹ năng hành nghề cho luật sư với hàng
nghìn lượt luật sư tham dự ở nhiều đoàn luật sư trong toàn quốc. Công tác hợp tác
quốc tế đã được đẩy mạnh ngay từ ngày đầu Liên đoàn mới thành lập, nhằm tranh
thủ sự hỗ trợ và sẵn sằng hợp tác với các Hiệp hội luật sư nước ngoài và các tổ
chức quốc tế quan tâm tới hoạt động luật sư, nghề luật sư và tổ chức xã hội – nghề

nghiệp luật sư.
Tuy nhiên, vấn đề về đội ngũ luật sư nước ta còn một số hạn chế cần được
khắc phục sau đây:
Tuy nhiên, trong thời gian qua hoạt động của nghề  luật sư  vẫn còn những hạn chế  nhất định như: Chất
lượng luật sư chưa đồng đều, vẫn còn có những khoảng cách khá xa nhau về trình độ, kỹ năng giữa các luật
sư; mối quan hệ giữa luật sư với Đoàn Luật sư, giữa Đoàn Luật sư  với các cơ  quan quản lý Nhà nước còn
có những hạn chế chất lượng hoạt động nghề nghiệp đặc biệt là trong tranh tụng, trong thương mại quốc tế
còn nhiều hạn chế; tổ  chức hành nghề  luật sư  nhỏ  lẻ, chưa thật sự  chuyên sâu trong các lĩnh vực…
Để khắc phục những hạn chế nói trên và để nâng cao được chất lượng luật sư Việt Nam ngang tầm với khu
vực   và   thế   giới,   trong   phạm   vi   bài   viết   chúng   tôi   đề   xuất   một   số   giải   pháp   như   sau:
Thứ
 
nhất,
 
nâng
 
cao
 
chất
 
lượng
 
đào
 
tạo
 
luật
Trước hết phải nâng cao chất lượng đào tạo luật ngay từ bậc đại học. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu,
bởi vì không có những cử nhân luật vững vàng về kiến thức xã hội, kiến thức khoa học pháp lý, ngoại ngữ…
thì thật khó để Học viện Tư pháp có thể đào tạo được luật sư giỏi, luật sư hội nhập quốc tế. Thực trạng đào

tạo hệ cử nhân luật ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề về chất lượng, nhất là các hệ đào tạo tại chức,
vừa học vừa làm, chất lượng tuyển sinh đầu vào rất thấp, đội ngũ giảng viên có chỗ, có nơi chưa đảm bảo
yêu cầu …Bên cạnh đó, chương trình đào tạo cử  nhân luật chủ  yếu là về  lý thuyết mà thiếu kỹ  năng thực
hành, hầu như  sinh viên chưa được làm quen với các công việc/nghề  nghiệp liên quan đến pháp luật[4]…
Vì vậy, giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo luật là một giải pháp trọng tâm, là giải pháp “gốc” nhằm nâng
cao chất lượng cử nhân luật nói chung và chất lượng luật sư nói riêng. Bộ Tư pháp và Bộ Giáo dục và Đào
tạo cần có nghiên cứu đồng bộ, thống nhất về yêu cầu của Nhà nước, của xã hội, của nghề nghiệp đối với
công tác đào tạo cử  nhân luật và đào tạo các chức danh tư  pháp, bổ  trợ  tư  pháp.… trong đó có luật sư.
Nhằm đảm bảo việc đào tạo cử nhân luật gắn liền với nghề nghiệp, hướng nghiệp; còn đào tạo nghề nghiệp
luật   sư   gắn   liền   với   chuyên   môn   nghiệp   vụ   chuyên   sâu,   kỹ   năng   nghề   nghiệp   chuyên   sâu…
Thứ   hai,   cần   nâng   cao   chất   lượng   đào   tạo   luật   sư
Trong những năm qua công tác đào tạo luật sư đã có nhiều đóng góp thiết thực đáng ghi nhận. Qua đó đã
góp phần đảm bảo được yêu cầu về  tiêu chuẩn, về  điều kiện để  trở  thành luật sư  và nâng cao chất lượng
luật sư Việt Nam. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy công tác đào tạo luật sư vẫn còn những hạn chế nhất định
và   cần   phải   có   sự   thay   đổi   mạnh   mẽ   trong   đào   tạo   luật   sư.
Để  nâng cao chất lượng đào tạo luật sư, theo quan điểm của chúng tôi cần có các giải pháp trước mắt và
các
 
giải
 
pháp
 
lâu
 
dài.
Về giải pháp trước mắt: Cần đổi mới chương trình đào tạo luật sư thật sự gắn kết với yêu cầu của thực tiễn,
trong đó đặc biệt chú trọng đến khâu tuyển chọn giảng viên cơ hữu, cũng như giảng viên thỉnh giảng. Đây là
khâu rất quan trọng cần thiết phải nhìn nhận để đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo luật sư. Cần thiết phải
có cơ  chế thu hút những cán bộ, công chức, viên chức có trình độ  cao (ít nhất cũng phải có học vị thạc sỹ
trở  lên), có nhiều năm công tác trong ngành Tư  pháp, trong các học viện, các trường… có liên quan đến

pháp luật về làm giảng viên cơ hữu đào tạo luật sư. Đối với đội ngũ giảng viên thỉnh giảng, cần có chương
trình tuyển chọn một cách bài bản để đánh giá được chính xác năng lực giảng dạy cũng như thực tiễn hành
nghề  luật sư. Đề  ra yêu cầu về  điều kiện, tiêu chuẩn đối với giảng viên; công khai và tổ  chức kỳ  thi tuyển
chọn hàng năm, ai đạt yêu cầu thì thực hiện việc ký kết hợp đồng giảng dạy. Từ  đó sẽ  tuyển chọn được

Nguyễn Văn…

Trang 10


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp
những giảng viên thỉnh giảng đạt yêu cầu cả  về  mặt lý luận và thực tiễn, qua đó góp phần nâng cao chất
lượng
 
luật
 

 
Việt
 
Nam.
Việc đào tạo luật sư cần đi vào nề nếp, chuyên sâu, chú trọng đến kỹ năng hành nghề luật sư. Để nâng cao
chất lượng đào tạo kỹ năng hành nghề luật sư, theo chúng tôi cần phải có sự  nghiên cứu đổi mới công tác
đào tạo. Ví dụ: trong chương trình đào tạo luật sư  hiện nay, thời gian dành cho việc tổ  chức diễn án khá
nhiều. Tuy nhiên, việc diễn án này lại do chính các học viên tự thực hiện (các vai diễn như Thẩm phán, kiểm
sát viên, Hội thẩm nhân dân, đương sự,…Đều do học viên đóng vai) mà còn thiếu sự  dẫn dắt, định hướng
tình huống từ phía người đào tạo. Do đó, học viên khi thực hiện diễn án hoàn toàn bị động khi thiếu chuyên
môn và thực tiễn về vai diễn của mình và tất yếu không thể  nào tiếp cận được sát với thực tế  kỹ  năng của
luật sư  tại một phiên tòa. Vì vậy, để  nâng cao chất lượng đào tạo nghề  luật sư có thể  xem xét mời những

Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thầm nhân dân giỏi, có nhiều kinh nghiệm tham gia diễn án và học viên chỉ
đóng vai luật sư tham gia phiên toà, khi đó phiên tòa sẽ diễn ra theo định hướng của Chủ tọa phiên tòa, Hội
đồng   xét   xử   và   học   viên   –   là   các   luật   sư   sẽ   tham   gia   theo   tình   huống   đó.
Về
 
giải
 
pháp
 
lâu
 
dài:
Điều 13 Luật Luật sư  năm 2012 quy định những người được miễn đào tạo nghề  luật sư  bao gồm các đối
tượng  sau: “Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên;  Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật; tiến sỹ
luật; Đã là thẩm tra viên cao cấp ngành Tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành Kiểm sát; chuyên viên cao cấp,
nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật;   Đã là thẩm tra viên chính ngành Tòa
án, kiểm tra viên chính ngành Kiểm sát; chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong
lĩnh vực pháp luật”. Tuy nhiên theo chúng tôi cần xem xét sửa đổi, bổ  sung Luật Luật sư theo hướng giảm
thiểu những người được miễn đào tạo nghề luật sư. Theo đó những người đã là thẩm phán, kiểm sát viên,
điều tra viên thì không được miễn đào tạo luật sư mà điều kiện được miễn phải có ít nhất từ  5 năm trở  lên
làm Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên. Bởi vì, theo quy định hiện hành thì chỉ  cần được bổ  nhiệm
thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên thì đương nhiên là “đã” làm công tác này và được miễn đào tạo nghề
luật   sư   mặc   dù   thời   gian   công   tác,   kinh   nghiệm   tố   tụng   không   nhiều.
Bên cạnh đó, chúng tôi  ủng hộ  đa số  quan điểm cho rằng phải phân loại luật sư  theo các chuyên ngành
chuyên sâu tương  ứng với chứng chỉ  hành nghề  như  luật sư  tố  tụng, luật sư  tư  vấn pháp luật, luật sư
thương mại ­ quốc tế,… và việc đào tạo luật sư cũng tuân theo các chứng chỉ hành nghề này. Những người
được miễn đào tạo thì cấp chứng chỉ hành nghề phù hợp với công việc của họ, ví dụ  như đã là thẩm phán
thì cấp chứng chỉ hành nghề luật sư tố tụng, còn nếu muốn hành nghề tư vấn pháp luật, thương mại ­ quốc
tế  thì phải tham gia khóa đào tạo để  được cấp chứng chỉ  hành nghề  phù hợp hoặc đã là giảng viên chính
chuyên ngành luật thương mại ­ quốc tế thì cấp chứng chỉ hành nghề luật sư thương mại ­ quốc tế và muốn

tham   gia   tố   tụng   thì   cũng   phải   tham   gia   khóa   đào   tạo   để   được   cấp   chứng   chỉ   hành   nghề,…
Đối với việc đào tạo luật sư cũng như  vậy, phải đào tạo chuyên sâu theo chứng chỉ  hành nghề, được cấp
chứng chỉ nào thì hành nghề  theo chứng chỉ đó, muốn hoạt động trên tất cả  các lĩnh vực bắt buộc phải hội
đủ
 
các
 
chứng
 
chỉ
 
hành
 
nghề
 
theo
 
quy
 
định.
Đối với những người đã là luật sư đang hành nghề thì có cơ chế cho họ đăng ký hành nghề theo một chứng
chỉ nhất định, còn các chứng chỉ hành nghề lĩnh vực, chuyên ngành khác thì tạo đều kiện cho họ tham gia kỳ
thi   kiểm   tra,   nếu   đạt   yêu   cầu   thì   cấp   chứng   chỉ   hành   nghề   theo   quy   định.
Thứ   ba,   Bồi   dưỡng   nâng   cao   trình   độ   lý   luận,   chính   trị   và   chuyên   môn   nghiệp   vụ
Đây là giải pháp quan trọng và là cầu nối, là sợi dây liên lạc giữa giới luật sư và hệ thống chính trị ở nước ta.
Với sự phát triển không ngừng của các quan hệ xã hội, ngày càng nhiều văn bản quy phạm pháp luật được
ban hành. Bên cạnh việc cập nhật các văn bản pháp luật, luật sư  cũng cần được trang bị  kiến thức về
đường lối, chủ  chương, chính sách của Đảng thể hiện qua các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng. Hiện nay, việc
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ là một nghĩa vụ bắt buộc của luật sư được quy định trong Luật Luật sư và
Nghị định số 123/2013/NĐ­CP ngày 14/10/ 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi

hành Luật Luật sư. Thông tư số 10/2014/TT­BTP, ngày 07/4/2014 quy định nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng về
chuyên môn, nghiệp vụ của luật sư (Thông tư  số  10/2014/TT­BTP). Tuy nhiên, những quy phạm pháp luật
này chưa thực sự  đi vào thực tiễn, còn mang nặng tính hình thức. Lý do là, quy định thời gian bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ  khá ít (chỉ 02 ngày/năm), trách nhiệm của các tổ chức thực hiện lớp bồi dưỡng còn
chưa rõ ràng, đối với việc cập nhật đường lối, chủ chương, chính sách của Đảng cho đội ngũ luật sư dường
như
 
đang
 
bị
 
bỏ
 
ngỏ...
Vì vậy, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ  sung Thông tư  số  10/2014/TT­BTP quy định nghĩa vụ  tham gia bồi
dưỡng về  chuyên môn, nghiệp vụ  của luật sư  theo hướng: Luật sư  phải có nghĩa vụ  tham gia các lớp học
tập, quán triệt Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và các lớp bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ. Giao
trách nhiệm mở  lớp, báo cáo viên cho Sở  Tư  pháp cấp tỉnh thực hiện. Thời gian mở  các lớp định kỳ  theo
từng quý trong năm( một năm 4 lớp), thời gian tổ chức mỗi lớp học, bồi dưỡng ít nhất là 01 đến 02 ngày,
thay cho quy định thời gian tham gia bồi dưỡng tối thiểu là 2 ngày một năm như hiện nay( Điều 8 Thông tư
số   10/2014/TT­BTP).   Về   chất   lượng   các   lớp   học   bồi   dưỡng   cũng   cần   được   giám   sát,   bảo   đảm   .
Thứ
 
tư,
 
tăng
 
cường
 
sự

 
lãnh
 
đạo
 
của
 
Đảng.

Nguyễn Văn…

Trang 11


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp
Trong thời gian vừa qua, thực tiễn cho thấy có đã có những trường hợp luật sư  xa rời mục tiêu, lý tưởng,
nghĩa vụ, trách nhiệm đối với Đảng và Nhà nước, thậm chí cá biệt còn có những trường hợp vi phạm pháp
luật ….Vì vậy, cần thiết phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ Luật sư Việt Nam. Thông qua
các cấp chính quyền quản lý luật sư, quản lý Đoàn Luật sư và nhất thiết phải được đưa vào Văn kiện, Nghị
quyết, Chỉ  thị  của Đảng về  chiến lược phát triển đội ngũ luật sư  Việt Nam trong thời kỷ  mới, từ  đó thể  chế
hóa   về   mặt   pháp   luật   chủ   trương   hoàn   thiện   pháp   luật   về   luật   sư.
Thứ   năm, tăng   cường   sự   quản   lý   của   Nhà   nước   đối   với   luật   sư   và   hoạt   động   nghề   nghiệp   luật   sư.
Nghề luật sư là nghề độc lập, mang tính chất tự quản rất cao. Một mặt, Nhà nước cần đảm bảo cho tính tự
quản nghề nghiệp được phát huy cao độ, mặt khác, hoạt động nghề nghiệp của luật sư cũng cần phải có sự
quản lý chặt chẽ của Nhà nước, nhằm tránh tình trạng vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp luật
sư. Tuy nhiên, trong thời gian qua hiệu quả quản lý nhà nước đối với luật sư và hoạt động nghề nghiệp của
luật sư ở một số địa phương chưa đảm bảo hiệu quả cao, còn để xảy ra nhiều sai phạm của luật sư cả về vi
phạm
 

pháp
 
luật
 

 
đạo
 
đức
 
nghề
 
nghiệp[5].
 Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu và thể  chế hóa bằng pháp luật, theo đó phải phân biệt rõ việc quản lý nhà
nước với việc tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư. Nhà nước quản lý những nội dung gì? và
tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư quản lý những nội dung gì? Trách nhiệm kiểm tra, giám sát như thế
nào? Quy trình xử  lý các sai phạm của luật sư, của Đoàn luật sư  ra sao? [6].... Có như  vậy, mới bảo đảm
hành lang pháp lý vững chắc để luật sư tuân thủ các quy định của pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp
luật sư trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình, bảo đảm luật sư thượng tôn pháp luật, vì công lý, vì
lợi   ích   tốt   nhất   của   khách   hàng   và   góp   phần   xây   dựng   Nhà   nước   Pháp   quyền   Xã   hội   chủ   nghĩa.
Thứ sáu, tăng cường sự  sự phối hợp, tham vấn giữa Đoàn Luật sư với các cơ  quan nhà nước địa phương.
Thực tiễn hoạt động của luật sư còn nhiều khó khăn, trở ngại, trong đó có cả các trở  ngại khách quan về cơ
chế, về  quản lý…Để  đảm bảo cho hoạt động nghề  nghiệp của luật sư  được đảm bảo hiệu quả, chuyên
nghiệp và đạt chất lượng cao thì cần thiết phải tăng cường sự  phối hợp, trao đổi, tham vấn giữa các cơ
quan nhà nước với Đoàn Luật sư. Cần có cơ chế để định kỳ hàng quý Ban Nội chính và Sở Tư pháp chủ  trì
mời các cơ quan nhà nước có liên quan và Đoàn Luật sư cấp tỉnh để thực hiện việc trao đổi về công tác phối
hợp, thực thi pháp luật,… cũng như  tham vấn các dự  án, chính sách của địa phương. Qua đó, nâng cao
được trách nhiệm của các Cơ  quan nhà nước; trách nhiệm, vị  trí, vai trò của Đoàn Luật sư, góp phần tháo
gỡ   những   khó   khăn,   vướng   mắc   và   tạo   thuận   lợi   cho   hoạt   động   nghề   nghiệp   của   luật   sư.
 


Thứ nhất, số lượng luật sư hiện có so với dân số còn rất thấp. Tỷ lệ luật sư
nước ta hiện nay trung bình là 1 luật sư/17.000 người dân, trong khi đó tỷ lệ này ở
Thái Lan là 1/1526, Singapore là 1/1.000, Nhật Bản là ¼.546, Pháp là 1/1.000, Mỹ
là 1/250. Mặt khác, số lượng luật sư phát triển chưa cân đối giữa khu vực thành thị
và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, trung du. Luật sư chủ yếu tập trung ở
Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
Thứ hai, chất lượng của đội ngũ luật sư còn nhiều hạn chế. Gần một nửa số
lượng luật sư hiện nay chưa được đào tạo một cách bài bản về kỹ năng hành nghề.
Hiệu quả tham gia tố tụng của luật sư vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu tranh
tụng tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Các luật sư vẫn còn thiếu kinh
nghiệm trong việc thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến quá trình bào
chữa, tranh luận, đưa ra yêu cầu, kiến nghị tại phiên toà. Một số luật sư còn có thái
độ ứng xử nghề nghiệp chưa đúng mực trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và luật sư đồng nghiệp, làm ảnh hưởng đến uy tín
của đội ngũ luật sư. Hơn nữa, luật sư nước ta còn yếu về trình độ ngoại ngữ cũng
như kiến thức về pháp luật quốc tế. Điều này dẫn đến nguy cơ chúng ta thua ngay
trên “sân nhà” trong các vụ tranh chấp liên quan đến việc mâu thuẫn giữa quyền
Nguyễn Văn…

Trang 12


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

lợi của Nhà nước Việt Nam, các doanh nghiệp, công dân Việt Nam với nước
ngoài.
Thứ ba, về mức độ chuyên môn hoá trong hành nghề, đa số luật sư ở nước
ta hành nghề trong tất cả các lĩnh vực tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện

ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác. Tuy số lượng luật sư ở nước ta trong
những năm gần đây tăng lên đáng kể, song vẫn chưa hình thành được đội ngũ các
luật sư chuyên sâu về những lĩnh vực khác nhau. Các luật sư chủ yếu hành nghề
trong hai lĩnh vực dân sự và hình sự. Trong các lĩnh vực pháp luật khác như hành
chính, lao động, kinh tế…tỷ lệ vụ việc mà các luật sư tham gia tương đối thấp. Số
lượng luật sư có đủ kinh nghiệm, kỹ năng tư vấn pháp luật trong lĩnh vực thương
mại quốc tế, đàm phán giải quyết tranh chấp quốc tế chỉ chiếm tỷ lệ 1,2% trong
tổng số luật sư, trong đó chỉ khoảng 20 luật sư có trình độ ngang tầm với luật sư
khu vực. Mới có khoảng 10/1.500 tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu trong lĩnh
vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài.
Về hoạt động hành nghề của luật sư
Thứ nhất, về phạm vi hành nghề. Có thể thấy rằng sau khi Pháp lệnh luật sư
năm 2001 và đặc biệt sau khi Luật Luật sư được ban hành, hoạt động hành nghề
luật sư ở Việt Nam có những bước chuyển rõ rệt. Theo quy định của Pháp lệnh
luật sư thì dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn
pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác. Luật Luật sư đã mở rộng hơn phạm vi hành
nghề luật sư với việc quy định luật sư được đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng.
Có thể nói trên cơ sở những quy định ngày càng thông thoáng hơn của pháp luật
cộng với sự nỗ lực của các luật sư, dịch vụ pháp lý của luật sư tăng đáng kể về số
lượng và nâng cao một bước về chất lượng.
+ Tham gia tố tụng là lĩnh vực hành nghề chủ yếu của các luật sư hiện nay.
Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia giải quyết hàng trăm nghìn vụ án. Vai
trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã có những bước phát triển về
chất. Xuất phát từ việc pháp luật tố tụng đang từng bước được hoàn thiện, các cơ
quan tiến hành tố tụng đã quan tâm hơn đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư
tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị can, bị cáo, đương
sự. Ý kiến của luật sư tại phiên toà đã được cơ quan công tố quan tâm và coi trọng.
Việc tham gia tố tụng của các luật sư không những bảo đảm tốt hơn quyền bào
chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố
tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật.
+ Tư vấn pháp luật là lĩnh vực hành nghề quan trọng của luật sư, đặc biệt
trong điều kiện nhu cầu về tư vấn pháp luật trong xã hội ngày càng tăng nhanh.
Các luật sư đã mở rộng và phát triển tư vấn trong các lĩnh vực kinh doanh, đầu tư,
thương mại. Trong lĩnh vực pháp luật dân sự thì tư vấn về đất đai, hôn nhân gia
Nguyễn Văn…

Trang 13


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

đình đang là mảng tư vấn phổ biến và sôi động nhất. Với điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế, toàn cầu hoá, các luật sư hoạt động trong lĩnh vực tư vấn pháp luật đang
phát huy vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp đàm phán, ký kết
hợp đồng, giải quyết các tranh chấp phát sinh đặc biệt trong các lĩnh vực mới mẻ
như đầu tư nước ngoài, sở hữu trí tuệ, quan hệ thương mại hàng hoá có yếu tố
nước ngoài...
Bên cạnh đó, các luật sư cũng đã tham gia tích cực vào hoạt động trợ giúp
pháp lý cho người nghèo, đối tượng thuộc diện chính sách. Việc tham gia vào hoạt
động này không chỉ thực hiện một cam kết mang tính chất nghĩa vụ của luật sư đối
với xã hội mà còn góp phần tạo lập sự công bằng cho các đối tượng được hưởng
trợ giúp pháp lý. Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia trợ giúp pháp lý cho
hàng chục nghìn vụ việc, góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho người nghèo, người thuộc diện chính sách. Có thể nói, mặc dù còn
những hạn chế, nhưng hoạt động của luật sư thời gian qua đã đáp ứng một phần
quan trọng nhu cầu giúp đỡ pháp lý của công dân và tổ chức, đóng góp đáng kể
trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác.
Thứ hai, về hình thức hành nghề của luật sư. Theo quy định của Pháp lệnh

luật sư năm 2001, luật sư chỉ được hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư
(thành lập hoặc tham gia thành lập Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh hoặc
làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư, kể cả tổ chức hành nghề
luật sư nước ngoài tại Việt Nam). Luật Luật sư đã mở rộng hình thức hành nghề
của luật sư, theo đó luật sư không chỉ hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư
như quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001, mà còn được phép hành nghề với
tư cách cá nhân dưới hình thức tự mình nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho
khách hàng theo hợp đồng dịch vụ pháp lý, hoặc làm việc cho cơ quan, tổ chức
theo hợp đồng lao động.
Thứ ba, về hình thức tổ chức hành nghề luật sư. Theo quy định của Luật
Luật sư thì tổ chức hành nghề luật sư bao gồm:
+ Văn phòng luật sư là tổ chức hành nghề luật sư do một luật sư thành lập
được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân;
+ Công ty luật bao gồm Công ty luật hợp danh và Công ty luật trách nhiệm
hữu hạn. So với Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư đã quy định thêm loại
hình Công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Hơn nữa , để phù hợp với quy định của
Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư còn quy định Công ty luật trách nhiệm hữu hạn
có thể là Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc Công ty luật
trách nhiệm hữu hạn một thành viên.

Nguyễn Văn…

Trang 14


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

Như vậy, hình thức tổ chức hành nghề luật sư cũng được mở rộng, tạo điều
kiện thuận lợi cho các luật sư lựa chọn mô hình hoạt động nhằm phát huy hết khả

năng sử dụng các điều kiện để hành nghề một cách thuận lợi nhất.
Về tổ chức luật sư và quản lý luật sư
Luật Luật sư hiện nay đã quy định hệ thống tổ chức luật sư từ trung ương
đến các địa phương, đó là Tổ chức luật sư toàn quốc và Đoàn luật sư ở các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương.
Hiện nay, Liên đoàn luật sư Việt Nam đã được thành lập gần một năm, với
việc quy định về Tổ chức luật sư toàn quốc và nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức
này, Luật Luật sư đã tăng cường đáng kể vai trò tự quản của tổ chức luật sư. Tới
đây, Liên đoàn luật sư Việt Nam sẽ ban hành Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư (thay thế Quy tắc mẫu do Bộ Tư pháp ban hành như hiện nay); phối
hợp với Bộ Tư pháp trong việc ban hành quy chế tập sự hành nghề luật sư, đào tạo
nghề luật sư, kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư. Hơn nữa Liên đoàn luật sư
Việt Nam còn được giao quyền cấp, thu hồi Thẻ luật sư, quy định mẫu trang phục
luật sư tham gia phiên toà…
Bên cạnh đó, Liên đoàn luật sư Việt Nam cũng đang hướng tới việc tổ chức
bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề và tổng kết,
trao đổi kinh nghiệm hành nghề luật sư trong cả nước.
Thời gian qua, công tác của các Đoàn luật sư đối với nghề luật sư đã có
nhiều chuyển biến tích cực. Căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn được giao, các Đoàn
luật sư đã thực hiện tương đối tốt công tác giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp
luật, tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, Điều lệ Đoàn luật
sư của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; kịp thời nhắc nhở, uốn nắn và có biện
pháp xử lý nghiêm minh các trường hợp luật sư vi phạm. Các Đoàn luật sư tích
cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, tham gia tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật cho nhân dân, trợ giúp pháp lý, tư vấn miễn phí, bào chữa miễn
phí.
Tuy vậy, hoạt động tự quản của các Đoàn luật sư còn một số hạn chế cần
sớm khắc phục như:
Thứ nhất, hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của nhiều Ban Chủ nhiệm
Đoàn luật sư trong cả còn chưa cao.

Thứ hai, một số Đoàn luật sư chưa quan tâm đúng mức đến công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp
cho luật sư; công tác giám sát, quản lý người tập sự hành nghề luật sư còn mang
tính hình thức.
Thứ ba, một số Đoàn luật sư phối hợp chưa tốt với cơ quan quản lý nhà
nước ở địa phương trong việc quản lý hành nghề luật sư, việc quản lý hành nghề
Nguyễn Văn…

Trang 15


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

luật sư ở những địa phương này kém hiệu quả, ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức và
hoạt động luật sư ở địa phương.
Thứ tư, các Đoàn luật sư chưa thực hiện tốt chức năng đại diện để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư. Đoàn luật sư chưa thực sự là nơi tập hợp
những bức xúc, khó khăn, vướng mắc, đề xuất, kiến nghị của luật sư liên quan đến
hoạt động hành nghề và đại diện cho luật sư trong việc kiến nghị với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Hơn nữa, đối với công tác tự quản của tổ chức luật sư, cũng cần nói đến vai
trò của các tổ chức hành nghề luật sư. Việc tổ chức, điều hành văn phòng luật sư,
công ty luật cũng được cải tiến, tiếp cận gần hơn với cách tổ chức, điều hành tiên
tiến, hiện đại của các công ty luật ở các nước trên thế giới. Một số tổ chức hành
nghề luật sư đã cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng cho cá nhân, tổ chức nước
ngoài, tham gia giải quyết tranh chấp lớn có yếu tố nước ngoài. Một số công ty luật
đã có nhu cầu, khả năng và trong thực tế đã thuê luật sư nước ngoài làm việc cho
công ty mình. Trong thời gian qua, đa số các tổ chức hành nghề luật sư đã làm tốt
công việc giáo dục, giám sát luật sư trong việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức

và ứng xử nghề nghiệp của luật sư. Tuy nhiên, một số tổ chức hành nghề luật sư
chưa thực sự quan tâm đến công việc này, đồng thời có biểu hiện lỏng lẻo trong
việc quản lý các luật sư của tổ chức mình, để xảy ra hiện tượng luật sư vi phạm
pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp mà tổ chức không biết hoặc bỏ qua.
Về việc bảo vệ quyền hành nghề luật sư và bảo vệ luật sư
Sở dĩ phải nói đến vấn đề này, bởi trên thực tế hiện nay, dù các quy định của
pháp luật đã quy định quyền tham gia tố tụng của luật sư, nhưng ở nhiều phiên tòa,
tiếng nói, vai trò của luật sư không thực sự có giá trị.
Nhiều luật sư trong quá trình hành nghề đã đành phải chấp nhận những rủi
ro ngoài mong muốn, họ thậm chí phải đổ máu vì nghề nghiệp. Mới đây, tại
Quảng Trị, một luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Hải Dương đã bị hành hung giữa
chốn công cộng sau khi tham gia phiên tòa giải quyết vụ ly hôn là một ví dụ về thái
độ coi thường pháp luật, cố ý xâm hại đến quyền hành nghề hợp pháp của luật sư
khi tham gia tố tụng.
Những biểu hiện về sự coi thường pháp luật, xâm hại đến quyền hành nghề
của luật sư cả trong và ngoài phiên tòa dường như đang diễn ra hàng ngày, tuy
nhiên chưa có những giải pháp thực sự hữu hiệu để đảm bảo rằng luật sư được
hành nghề với đầy đủ quyền của mình, đồng thời được bảo vệ khỏi sự xâm hại về
sức khỏe và tính mạng.
Như vậy, nghề luật sư ở Việt Nam nhìn nhận một cách khái quát ở các khía
cạnh vừa đề cập đã cho thấy chiều hướng ngày một được chuyên nghiệp hóa. Quy
định của pháp luật đối với nghề luật sư đã có những bước chuyển lớn và là nền
Nguyễn Văn…

Trang 16


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp


tảng để chúng ta tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, nhằm tạo điều kiện tốt nhất
cho nghề luật sư phát triển vững mạnh. Tuy nhiên, cũng qua đó để thấy, còn nhiều
những hạn chế, bất cập đã và đang nãy sinh trong hoạt động nghề nghiệp cũng như
công tác quản lý nghề luật sư rất cần những giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện,
nhằm nâng cao chất lượng, uy tín của nghề luật sư trong xã hội, cũng như để
khẳng định vị thế của luật sư Việt Nam trên bình diện quốc tế.
2.2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng, uy tín của nghề luật sư ở
Việt Nam
Trên cơ sở thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay, xin được liệt kê
một số ý kiến thể hiện phương hướng, giải pháp hoàn thiện các mặt để nâng cao vị
thế nghề luật sư nước nhà như sau:
+ Cần thiết xây dựng điều khoản mới về tội danh xâm phạm quyền bào
chữa và nhờ người khác bào chữa của công dân trong Bộ luật hình sự; sửa đổi và
bổ sung một số quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự về tư cách tham gia tố tụng
của luật sư, thời điểm tham gia bào chữa, việc tiếp xúc bị can, bị cáo trong trại tạm
giam, quyền điều tra và thu thập chứng cứ, cũng như một số hoạt động nghề
nghiệp khác của luật sư; hoàn thiện quy định để từng bước mở rộng tranh tụng tại
phiên tòa, đảm bảo quyền bào chữa của luật sư được thể hiện một cách thực chất.
+ Pháp luật về luật sư cần tập trung vào hai phạm vi là nhất thể hóa hoạt
động tư vấn pháp luật vào đối tượng hành nghề chuyên nghiệp là đội ngũ luật sư
và thể chế hóa phương hướng tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động luật sư,
xây dựng cơ chế pháp lý cho việc tham gia ngày càng nhiều hơn của luật sư trong
đàm phán thương mại quốc tế, giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài, tạo
môi trường cạnh tranh dịch vụ pháp lý lành mạnh trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc
bình đẳng và chủ quyền.
+ Cần sớm ban hành bộ quy tắc thống nhất về đạo đức nghề nghiệp luật sư
và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp luật sư. Hiện nay, đa số luật sư Việt Nam tuân
thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư và các quy định của pháp luật liên
quan đến tổ chức và hành nghề luật sư. Tuy nhiên, các quy tắc đó chưa được áp
dụng một cách thống nhất, mỗi Đoàn luật sư có một quy tắc đạo đức nghề nghiệp

riêng dựa trên bộ quy tắc mẫu, hơn nữa việc tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp
và kỷ luật hành nghề luật sư vẫn chưa được nhận thức một cách đầy đủ, chưa trở
thành ý thức tự giác đối với mỗi cá nhân luật sư trong hành nghề và trong cuộc
sống. Trên thực tế, vẫn còn một số luật sư quá coi trọng lợi ích vật chất dẫn đến vi
phạm các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư, thậm chí có luật sư vi phạm pháp
luật nghiêm trọng đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do vậy, cần thiết ban
hành sớm bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư áp dụng thống nhất trên toàn
quốc cùng với những biện pháp bảo đảm tuân thủ đúng đắn.
Nguyễn Văn…

Trang 17


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

+ Cần sớm ban hành các quy định điều chỉnh và giám sát nhằm cải tiến nội
dung, phương pháp để nâng cao chất lương đào tạo nghề luật sư, nâng cao chất
lượng tập sự hành nghề luật sư thông qua việc các Đoàn luật sư thực hiện nghiêm
túc cơ chế giám sát người tập sự hành nghề luật sư, luật sư hướng dẫn, tổ chức
hành nghề luật sư trong việc tuân theo Quy chế tập sự hành nghề luật sư; tạo điều
kiện thuận lợi để người tập sự được nghiên cứu, tiếp cận những kiến thức pháp luật
mới, đồng thời tạo cơ hội cho người tập sự được trực tiếp tham gia hoạt động nghề
nghiệp, nâng cao kỹ năng hành nghề luật sư.
+ Hoàn thiện các quy định pháp lý về chế độ bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp luật sư. Hành nghề luật sư là hoạt động đòi hỏi tính trách nhiệm cao, gây
thiệt hại là phải bồi thường do vậy luật sư tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp là một nghĩa vụ cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề trách nhiệm nghề nghiệp cũng
như bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư ở Việt Nam chỉ mới dừng lại trên
giấy mà chưa được thực thi. Do đó, cần có những quy định và những biện pháp cụ

thể để sớm áp dụng trong thực tiễn hoạt động nghề nghiệp của luật sư nhằm đem
lại sự hiệu quả cao nhất cho hoạt động đặc thù này.
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và thể chế hóa về mặt pháp luật chủ
trương hoàn thiện pháp luật về luật sư, trong đó cần thiết đưa vào văn kiện của
Đảng về chiến lược phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam trong thế kỷ mới. Xây
dựng các mô hình tổ chức hành nghề và mô hình quản lý đủ sức đáp ứng nhu cầu
dịch vụ pháp lý của công dân, tổ chức; phấn đấu xây dựng đội luật sư đạt cả về số
lượng lẫn chất lượng. Gắn việc hoàn thiện pháp luật về luật sư với chiến lược cải
cách tư pháp hiện nay. Nâng cao tính đồng bộ trong quá trình hoàn thiện pháp luật
về luật sư.
+ Mở rộng, nâng cao chất lượng đào tạo của các trưởng luật, các trưởng đào
tạo nghề luật sư để đảm bảo chất lượng, uy tín đội ngũ luật sư khi tham gia hành
nghề. Hiện nay, còn tình trạng chất lượng đào tạo ở các trường luật nặng về lý
thuyết, thiếu hụt kỹ năng hành nghề nên cần xây dựng chương trình đào tạo nghề
luật nhằm cung cấp những ký năng chung nhất cho các cử nhân luật. Bên cạnh đó,
cơ sở đào tạo nghề luật sư cũng không ngừng hoàn thiện và phát triển để đạo tạo
đội ngũ luật sư tương lai có chất lượng cao.

Nguyễn Văn…

Trang 18


Tiểu luận giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ Luật sư thực hiện quyền tư
pháp – Thực trạng và giải pháp

KẾT LUẬN
Nghề luật sư ở Việt Nam đang từng ngày đạt được những bước phát triển
đáng ghi nhận, vai trò của nghề luật sư trong xã hội ngày một được nâng cao, chất
lượng, uy tín của luật sư ngày một lớn hơn, hoạt động hành nghề của luật sư, các tổ

chức hành nghề luật sư ngày phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa.
Và hướng đến tương lai chúng ta thấy rằng, nhằm triển khai thực hiện Nghị
quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra nhiệm
vụ "đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo
đức, có trình độ chuyên môn" cũng như Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP ngày 27
tháng 02 năm 2007 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính
phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và
bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, ngày 18
tháng 01 năm 2010, Thủ tường Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 123/QĐTTg phê duyệt Đề án “Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế
từ năm 2010 đến năm 2020”.
Nhìn vào nội dung Đề án, có thể thấy được nỗ lực của Chính phủ trong việc
bắt tay vào xây dựng đội ngũ luật sư “giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, am hiểu luật
pháp và tập quán thương mại quốc tế, thông thạo tiếng Anh, thành thạo về kỹ
năng hành nghề luật sư quốc tế, có đủ khả năng tư vấn các vấn đề liên quan đến
hội nhập kinh tế quốc tế cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong xã hội,
trong đó có các cơ quan của Chính phủ, Ủy ban nhân dân một số tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, các tập đoàn kinh tế của Nhà nước”.Đồng thời “xây dựng
các tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh,
thương mại có yếu tố nước ngoài, có khả năng cạnh tranh với các tổ chức hành
nghề luật sư nước ngoài”.
Hành động thực tế mà Chính phủ triển khai là tín hiệu đáng lạc quan để
chúng ta có được đội ngũ luật sư có chất lượng chuyên môn cao và có các tổ chức
hành nghề luật sư hướng đến chuyên nghiệp.
Bên cạnh đó, thực trạng hành nghề luật sư ở Việt Nam như đã đặt ra ở trên
còn những vấn đề cần quan tâm, tìm kiếm giải pháp tốt nhất để hoàn thiện và phát
triển. Người thực hiện đề tài tiểu luận, qua tìm hiểu, học hỏi chỉ dám nêu lên
những nội dung đã được học, đã được tìm hiểu để, như một ý kiến nhỏ đóng góp
cho tiến trình tìm kiếm những gì tốt đép nhất cho nghề luật sư ở Việt Nam hôm
nay và trong tương lai./.

Nguyễn Văn…

Trang 19



×