Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

NHŨNG LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU ĐẦU TƯ THEO NGÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.23 KB, 23 trang )

NHŨNG LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU ĐẦU TƯ THEO NGÀNH
1.1. Vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.1.1. Khái niệm và phân loại đầu tư
Đầu tư là "sự bỏ ra, sự hy sinh" những cái gì đó ( tiền, sức lao động, của
cải vật chất, trí tuệ) ở hiện tại nhằm đạt được những kết quả có lợi hơn cho
người đầu tư trong tương lai. Hay nói cách khác, đầu tư là sự hy sinh những
lợi ích hiện tại để nhằm thu về lợi ích lớn hơn trong tương lai.
Căn cứ vào bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại có thể chia đầu
tư thành 3 loại chủ yếu sau:
1.1.1.1. Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho
vay hoặc mua chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất phụ
thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài chính
không làm tăng tài sản của nền kinh tế ( nếu không xét đến quan hệ quốc tế
trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá
nhân đầu tư. Với hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển
dễ dàng và là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
1.1.1.2. Đầu tư thương mại: là loại đầu tư mà người có tiền bỏ tiền ra mua
hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá
khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền
kinh tế ( nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính
của người đầu tư trong quá trình mua đi, bán lại. Tuy nhiên, đầu tư thương
mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát
triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển.
1.1.1.3 Đầu tư phát triển: là hoạt động đầu tư mà trong đó người có tiền bỏ
tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế,
làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và các hoạt động xã hội khác, là điều
kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã
hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã
hội, mua sắm trang thiết bị, bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện
các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm
duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho


nền kinh tế xã hội.
Nhìn chung đối tượng nghiên cứu trong Luận văn chỉ là nghiên cứu về
đầu tư phát triển - loại hình đầu tư gắn trực tiếp với sự tăng trưởng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
1.1.2. Nguồn gốc và bản chất của vốn đầu tư
Trong tác phẩm "Tư bản", với giả định nền kinh tế không có ngoại
thương, K. Marx đã chỉ ra: để đảm bảo quá trình tái sản xuất mở rộng không
ngừng, nền sản xuất xã hội cần phải đảm bảo V+M của khu vực I ( khu vực sản
xuất ra tư liệu sản xuất) lớn hơn tiêu hao vật chất của khu vực II ( khu vực sản
xuất ra tư liệu tiêu dùng): C
II
, tức là:
(V+M)
I
> C
II
Trong đó: C là phần tiêu hao vật chất
hay
:
(C+V+M)
I
> C
I
+C
II
V+M là phần giá trị mới sáng tạo ra
Điều này có nghĩa là tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ
bồi hoàn cho những tiêu hao vật chất C
I
và C

II
ở cả hai khu vực của nền kinh tế,
mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá
trình sản xuất tiếp theo.
Còn ở khu vực II ( sản xuất tư liệu tiêu dùng) thì:
( C+V+M)
II
> (V+M)
I
+ (V+M)
II


nghĩa là tư liệu tiêu dùng do khu vực II tạo ra không chỉ bù đắp tư
liệu tiêu dùng ở cả hai khu vực mà còn phải thừa để đảm bảo thoả mãn nhu
cầu tư liệu tiêu dùng tăng thêm do quy mô của nền sản xuất xã hội được mở
rộng.
Để có dư thừa tư liệu sản xuất, một mặt phải tăng cường sản xuất tư
liệu sản xuất ở khu vực I, mặt khác phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả
hai khu vực. Để có dư thừa tư liệu tiêu dùng, một mặt phải tăng cường sản
xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, mặt khác phải sử dụng tiết kiệm tư liệu tiêu
dùng ở cả hai khu vực. Từ đó có thể rút ra kết luận:
Con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là
phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm cả trong sản xuất và trong tiêu
dùng.
Vấn đề này cũng đã được kinh tế học hiện đại chứng minh. Thật vậy, nếu
gọi GDP là tổng sản phẩm quốc nội, C là tiêu dùng (tiêu dùng cá nhân và tiêu
dùng của Chính phủ), I là đầu tư của doanh nghiệp ( bổ sung vốn lưu động và
cố định) thì:
GDP = C + I

Phần đầu tư I của doanh nghiệp chính là phần dư ra ( hay tiết kiệm)
không tiêu dùng đến từ GDP. Nếu gọi phần tiết kiệm là S thì:
GDP = C + S
Từ đó suy ra I = S
Như vậy, tăng GDP cho phép tăng C + S hay C+I. Nếu C+I càng lớn thì sản
xuất càng được mở rộng; đến lượt mình, sản xuất càng mở rộng, GDP càng
tăng và càng có điều kiện tăng tiêu dùng, nâng cao đời sống nhân dân và mở
rộng sản xuất.
Trong điều kiện nền kinh tế mở (nền kinh tế có ngoại thương):
GDP = C+I+X-M Trong đó: X là giá trị hàng hoá xuất khẩu
M là giá trị hàng hoá nhập khẩu
GDP = C+S
Vậy: S = I+X- M hay I - S = M - X
Nếu M - X > 0 thì I - S >0.
Như vậy, trong điều kiện nền kinh tế mở, nguồn vốn để đầu tư ngoài tiết
kiệm trong nước còn có thể huy động vốn từ nước ngoài trong trường hợp tiết
kiệm không đáp ứng nhu cầu đầu tư, thâm hụt tài khoản vãng lai. Vay nợ nước
ngoài là hình thức chủ yếu để tài trợ cho đầu tư nhằm phát triển kinh tế trong
trường hợp thâm hụt tài khoản vãng lai.
Từ đây có thể rút ra định nghĩa về vốn đầu tư theo nguồn hình thành và
mục tiêu sử dụng như sau: Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở
sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các
nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm
duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội.
1.1.3. Vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Từ sự xem xét bản chất của vốn đầu tư, các lý thuyết kinh tế, đều coi vốn
đầu tư là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng
trưởng. Vai trò này được thể hiện trên các mặt sau:
1.1.3.1. Vốn đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu:
Về tổng cầu: Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn

bộ nền kinh tế quốc dân . Theo Ngân hàng Thế giới , đầu tư thường chiếm 24-
28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu
tác động của đầu tư là ngắn hạn, khi mà tổng cung chưa thay đổi, sự tăng lên
của đầu tư làm cho tổng cầu tăng ( đường D
1
dịch chuyển sang D
2
) kéo sản
D1
D2
Eo
E1
P1PoP2
Qo Q1 Q2
E2
Q
P
S1
S1
Hình1
lượng cân bằng tăng theo từ Q
0
đến Q
1
và giá cân bằng tăng từ P
0
đến P
1
. Điểm
cân bằng dịch chuyển từ E

0,
đến E
1
.
Về tổng cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực
mới do đầu tư tạo ra đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài
hạn tăng lên ( đường S
1
dịch chuyển sang S
2
), kéo theo sản lượng tiềm năng
tăng từ Q
1
đến Q
2
và do đó giá cả sản phẩm giảm từ P
1
đến P
2
. Sản lượng tăng,
giá giảm xuống, cho phép tiêu dùng tăng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp
tục kích thích sản xuất phát triển hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ
bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao
động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.


1.1.3.2 .Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Đầu tư tạo ra năng lực sản xuất mới, làm tăng năng lực sản xuất của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung do đó làm tăng tốc độ tăng trưởng và
phát triển của nền kinh tế. Mức ảnh hưởng của đầu tư đối với tốc độ tăng

trưởng kinh tế phụ thuộc vào tổng vốn đầu tư và hệ số ICOR. Mối quan hệ đó
được thể hiện qua công thức:
Vốn đầu tư Vốn đầu tư
Mức tăng GDP( ∆GDP) = ----------------- hay ICOR = ------------------
ICOR ∆ GDP
Hệ số ICOR cho thấy hiệu quả đầu tư của nền kinh tế, nói lên lượng vốn
đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị GDP tăng thêm. Về phương diện lý thuyết
khi hệ số ICOR càng thấp chứng tỏ nền kinh tế càng có hiệu quả. Tuy nhiên,
trên thực tế ICOR còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như nền kinh tế đang ở
trong giai đoạn phát triển nào, đã công nghiệp hoá chưa? Đó là nền kinh tế
"đóng" hay "mở"? Mức độ tác động của bối cảnh quốc tế thuận lợi hay khó
khăn? Chất lượng quản lý nhà nước về đầu tư cao hay thấp?...
Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn do thừa vốn, thiếu lao động, vốn
được sử dụng nhiều thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có
giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thường thấp do thiếu vốn, thừa
lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử
dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. ICOR trong nông nghiệp thường thấp hơn
trong công nghiệp. Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc
vào vốn đầu tư.
1.2. Phân loại vốn đầu tư
1.2.1. Phân loại vốn đầu tư theo nguồn hình thành
Ngày nay vốn đầu tư của mỗi nước thường gồm 2 nguồn: vốn đầu tư
trong nước và vốn đầu tư nước ngoài.
1.2.1.1. Vốn đầu tư trong nước bao gồm các nguồn: Vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước, vốn tín dụng đầu tư, vốn đầu tư từ các nguồn tự có của doanh
nghiệp, vốn đầu tư tích luỹ của dân cư.
- Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là nguồn vốn hình thành trong quá
trình hoạt động thu - chi ngân sách nhà nước theo luật ngân sách. Nguồn vốn
này chủ yếu được đầu tư cho cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của đất nước, ngoài
ra để thực hiện các chương trình mục tiêu kinh tế - xã hội quốc gia. Vốn đầu tư

từ ngân sách nhà nước có thể cấp phát không thu hồi và có thể thu hồi thông
qua hình thức tín dụng nhà nước.
- Vốn tín dụng đầu tư là nguồn vốn huy động và cho vay của ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng dùng để cho vay trung và dài hạn đối với
nền kinh tế. Nguồn vốn này do ngân hàng quản lý và cho vay theo luật ngân
hàng và luật các tổ chức tín dụng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp bao gồm vốn doanh nghiệp tích luỹ từ thu
nhập kinh doanh, vốn ngân sách cấp vốn điều lệ, vốn khấu hao cơ bản và các
nguồn vốn huy động khác.
- Vốn đầu tư tích luỹ của dân cư là bộ phận vốn nhàn rỗi chưa sử dụng
trong dân cư có thể huy động cho đầu tư phát triển.
Xét về lâu dài, vốn trong nước là nguồn vốn quan trọng đảm bảo cho sự
tăng trưởng kinh tế liên tục, vững chắc và không phụ thuộc của nền kinh tế các
nước. Kinh nghiệm thực tế của các nước trong khu vực và của nước ta trong
những năm qua, đặc biệt là từ cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực gần đây
càng chứng tỏ điều này.
1.2.1.2. Vốn đầu tư nước ngoài bao gồm: vốn viện trợ phát triển chính thức
( ODA), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn viện trợ của các tổ chức phi
chính phủ (NGO
S
), vốn tín dụng thương mại nước ngoài.
- Vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
- Vốn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO)
- Vốn tín dụng thương mại nước ngoài
1.2.1.3. Mối quan hệ giữa vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài.
Đối với các nước nghèo, để phát triển kinh tế nhanh thì một vấn đề đặt
ra là thiếu vốn gay gắt. Do thiếu vốn nên thiếu nhiều điều kiện cho sự phát
triển như thiếu công nghệ, thiếu cơ sở hạ tầng... Do dó trong bước đi ban đầu
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế thì không thể không huy

động vốn từ nước ngoài. Ngày nay không có một nước chậm phát triển nào
trên con đường phát triển lại không tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ nước
ngoaì, nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở.
Tuy nhiên, cơ sở để tiếp thu và phát huy tác dụng của vốn đầu tư nước
ngoài lại chính là cơ sở vật chất kỹ thuật và khối lượng vốn đầu tư trong nước.
Tỷ lệ giữa vốn đầu tư huy động từ trong nước để tiếp nhận và sử dụng có hiệu
quả vốn nước ngoài tuỳ thuộc vào đặc điểm và điều kiện phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi nước. Với Trung quốc tỷ lệ này là 5:1, một số nước khác thường là
3:1,với Việt Nam theo các nhà kinh tế thì tỷ lệ hợp lý là 2:1.
Do đó, xét về lâu dài thì nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế
liên tục, vững chắc và không phụ thuộc phải là nguồn vốn đầu tư từ trong
nước. Kinh nghiệm của các nước trong khu vực, nhất là kinh nghiệm từ cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam Á vừa qua càng chứng tỏ
điều này.
1.2.2. Phân loại vốn đầu tư theo mục đích sử dụng
Theo mục đích sử dụng vốn đầu tư được phân loại theo nhiều tiêu thức
khác nhau:
• Theo mục đích đầu tư vào các ngành kinh tế thì vốn đầu tư chia
thành: vốn đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, vốn đầu tư vào lĩnh vực
dịch vụ, vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.
• Theo mục đích đầu tư vào tài sản, vốn đầu tư chia thành: vốn đầu tư
hình thành tài sản cố định ( vốn đầu tư dài hạn) và vốn đầu tư hình
thành tài sản lưu động ( vốn đầu tư ngắn hạn ).
• Theo lĩnh vực đầu tư, vốn đầu tư chia thành: vốn đầu tư cho cơ sở hạ
tầng và vốn đầu tư cho kinh doanh. Vốn đầu tư cơ sở hạ tầng không
mang lại hiệu quả tài chính trực tiếp mà thông qua đánh giá tổng thể
hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư kinh doanh nhằm tăng
năng lực sản xuất, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm...
• Theo khu vực phát triển, vốn đầu tư chia thành: vốn đầu tư vào khu
vực đô thị, vốn đầu tư vào khu vực nông thôn đồng bằng, vốn đầu tư

vào miền núi... Riêng đối với Hà Nội, đó là vốn đầu tư cho khu vực nội
thành và vốn đầu tư cho khu vực ngoại thành.
• Theo nội dung đầu tư, vốn đầu tư chia thành: vốn đầu tư cho xây lắp,
vốn đầu tư cho thiết bị và vốn đầu tư cho kiến thiết cơ bản khác.
1.3 . Cơ cấu vốn đầu tư và phân loại cơ cấu vốn đầu tư
Cũng như mọi khái niệm về cơ cấu, cơ cấu vốn đầu tư là một phạm trù
phản ánh mối quan hệ về chất và tỷ lệ về lượng giữa các yếu tố cấu thành bên
trong của hoạt động đầu tư vốn cũng như giữa các yếu tố đó với tổng thể các
mối quan hệ hoạt động kinh tế khác trong quá trình tái sản xuất xã hội.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, cơ cấu vốn đầu tư thường được đề cập từ
khía cạnh nguồn vốn hay từ khía cạnh thực hiện vốn đầu tư.
Phân tích cơ cấu vốn đầu tư theo khía cạnh nguồn hình thành vốn rất có
ý nghĩa đối với việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư. Thực chất của cơ cấu này là
quy định rõ tính chất sở hữu của nguồn vốn đầu tư, từ đó quyết định tính chất
sở hữu đối với các tài sản được hình thành từ nguồn vốn đầu tư và do vậy quy
định thu nhập và phân phối thu nhập có được do năng lực sản xuất mới tăng
thêm tạo ra. Cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn vốn tác động trực tiếp đến việc
hình thành cơ cấu thành phần kinh tế.
Cùng với việc nghiên cứu cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn vốn, việc nghiên
cứu cơ cấu vốn đầu tư theo khía cạnh thực hiện vốn có ý nghĩa rất quan trọng
vì nó nói rõ vốn được phân bổ vào đâu? được sử dụng như thế nào? Theo giác
độ thực hiện vốn đầu tư có thể nghiên cứu cơ cấu vốn đầu tư theo rất nhiều
khía cạnh khác nhau. Với mục đích nghiên cứu cơ cấu vốn đầu tư phục vụ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thường chỉ tập trung nghiên cứu cơ cấu thực hiện
vốn đầu tư trên khía cạnh :
- Cơ cấu thực hiện vốn đầu tư theo ngành: Đây là loại cơ cấu vốn đầu tư
có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu này quy
định tỷ lệ phân bổ vốn đầu tư vào các ngành kinh tế, qua đó quyết định quan
hệ tỷ lệ về vốn sản xuất giữa các ngành và cuối cùng quyết dịnh mối quan hệ
giữa các ngành về mặt định tính cũng như định lượng.

- Cơ cấu kỹ thuật của vốn đầu tư: cơ cấu vốn đầu tư này quyết định tỷ lệ
vốn đầu tư phân bổ cấu thành kết cấu kỹ thuật của các công trình đầu tư như:
vốn xây lắp, vốn thiết bị, vốn cho kiến thiết cơ bản khác. Cơ cấu đầu tư này có
tác động tích cực hình thành cơ cấu kỹ thuật của nền kinh tế.
Tuy nhiên trong Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu cơ cấu thực hiện vốn
đầu tư theo ngành
1.4. Quan hệ giữa cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế và sự cần thiết phải
định hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư.
1.4.1 Cơ cấu kinh tế và những vấn đề lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo ngành.
1.4.1.1 Cơ cấu kinh tế .
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận cấu thành của nền kinh tế, cùng
các mối quan hệ chủ yếu về định tính và định lượng, ổn định và phát triển giữa
các yếu tố cấu thành của nền kinh tế đối với nhau hay toàn bộ hệ thống trong
những điều kiện của một nền tái sản xuất xã hội trong hoàn cảnh kinh tế nhất
định và trong khoảng thời gian nhất định. Cơ cấu kinh tế không chỉ thể hiện ở
quan hệ tỷ lệ mà quan trọng hơn là mối quan hệ tác động qua lại về nội dung
bên trong của hệ thống kinh tế.
+ Cơ cấu kinh tế có các đặc trưng chủ yếu như:
- Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan
- Cơ cấu kinh tế mang tính lịch sử
- Cơ cấu kinh tế mang tính hệ thống
- Cơ cấu kinh tế có tính chất động
- Cơ cấu kinh tế có tính hướng đích hay mục tiêu
- Cơ cấu kinh tế mang tính kế thừa rất rõ rệt
+ Cơ cấu kinh tế bao gồm các loại chính như sau:
- Cơ cấu ngành: là sự kết hợp giữa các ngành trong nền kinh tế quốc
dân hoặc từng loại hình sản xuất, từng xí nghiệp trong nội bộ ngành.
- Cơ cấu lãnh thổ: là sự kết hợp giữa các vùng, lãnh thổ trong toàn quốc hoặc
từng đơn vị cơ sở trong mỗi vùng.

- Cơ cấu các thành phần kinh tế
- Cơ cấu kinh tế-kỹ thuật: là quan hệ kết hợp theo quy mô trình độ tập trung
hoá, chuyên môn hoá, cơ giới hoá...
- Cơ cấu kinh tế chung: là quan hệ giữa các chỉ tiêu chủ yếu , các mối quan
hệ cân đối trong nền kinh tế quốc dân như quan hệ tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu
dùng, trong thu nhập quốc dân, giữa đầu tư với tổng sản phẩm quốc dân...
- Cơ cấu kinh tế quản lý: phản ánh mối quan hệ kết hợp giữa các cấp quản lý
kinh tế như Trung ương, địa phương.
Trong cơ cấu kinh tế thì cơ cấu ngành là quan trọng nhất vì nó phản ánh
tập trung nhất trình độ phát triển của phân công lao động xã hội. Ngành được
biểu hiện ở tổng thể các đơn vị kinh tế cùng thực hiện một loại chức năng
trong hệ thống phân công lao động xã hội. Nó được phân biệt theo tính chất và
đặc điểm của sản phẩm một trong những cách phân loại cơ cấu ngành là cơ
cấu: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
Các bộ phận hợp thành của cơ cấu kinh tế có mối quan hệ tác động qua
lại chặt chẽ với nhau, tính hợp lý của một cơ cấu kinh tế chính là sự hài hoà, ăn
khớp giữa các bộ phận cấu thành, cho phép sử dụng hiệu quả nhất các nguồn
lực của xã hội phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng giai
đoạn cụ thể.
Để đánh giá hiệu quả của một cơ cấu kinh tế cần phải đưa ra các chỉ tiêu
đánh giá toàn diện cả về mặt định tính cũng như định lượng.
Về mặt định tính: Đó là sự phù hợp, đáp ứng được các mục tiêu, nhiệm
vụ kinh tế-chính trị-xã hội đặt ra trong từng thời kỳ cụ thể. Đối với nước ta
hiện nay, quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thập niên 90 được Đại

×