Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

TÌNH HÌNH THẾ CHẤP BẢO LÃNH BẤT ĐỘNG SẢN TẠI NHNO VÀ PTNT HUYỆN GIA LỘC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.38 KB, 41 trang )

TÌNH HÌNH THẾ CHẤP BẢO LÃNH BẤT ĐỘNG SẢN TẠI NHNO
VÀ PTNT HUYỆN GIA LỘC
I. Khái quát về NHNo & PTNT huyện Gia Lộc
1. Quá trình hình thành và phát triển.
1.1. Thông tin chung:
- Tên: NHNo&PTNT huyện Gia Lộc hay NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh
huyện Gia Lộc.
- Tính chất sở hữu: Mang hình thức doanh nghiệp nhà nước.
- Địa chỉ giao dịch: Thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
- Trụ sở chính: Thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
- Ngoài ra còn có 02 chi nhánh ngân hàng cấp dưới và 02 văn phòng giao
dịch
1.2. Quá trình hình thành và phát triển
NHNo&PTNT Gia Lộc là một Chi nhánh trực thuộc NHNo&PTNT Việt
Nam. Tiền thân của nó là NHNo & PTNT Hải Hưng được thành lập vào
01/8/1988 nhưng thực sự đi vào hoạt động theo đúng nghĩa một NHTM kể từ
ngày 01/10/1991 trên địa bàn tỉnh Hải Hưng. Năm 1997, khi tỉnh Hải Hưng
được tách thành 2 tỉnh là Hải Dương và Hưng Yên, NHNo&PTNT Hải Hưng
cũng tách thành 2 bộ phận: NHNo & PTNT Hải Dương và NHNo & PTNT Hưng
Yên. NHNo & PTNT huyện Gia Lộc cũng ra đời trong thời gian đó.
Là một Chi nhánh NHTM quốc doanh lớn trên địa bàn huyện, có tổ chức
mạng lưới rộng khắp các xã ,phường trong toàn huyện. Với chức năng kinh
doanh tiền tệ tín dụng trên mặt trận Nông nghiệp, Nông thôn và các thành
phần kinh tế khác trên địa bàn, đã và đang giữ vai trò chủ đạo trên thị trường
và tài chính, tín dụng ở nông thôn.
Từ một Chi nhánh Ngân hàng có nhiều khó khăn khi mới thành lập thiếu
vốn, chi phí kinh doanh cao, dư nợ quá hạn lớn, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu,
trình độ nghiệp vụ non kém, tổn thất rủi ro cao, kinh doanh thua lỗ. Nhờ kiên
trì khắc phục khó khăn, quyết tâm đổi mới cùng với sự giúp đỡ của các cấp uỷ
Đảng, chính quyền địa phương, sự quan tâm của NHNo & PTNT Việt Nam, Chi
nhánh NHNo & PTNT Gia Lộc không những đã khẳng định được mình mà còn


vươn lên phát triển trong cơ chế thị trường, thật sự là một Chi nhánh của
NHTM quốc doanh lớn, kinh doanh tổng hợp, có xu hướng mở rộng tới tất cả
các dịch vụ Tài chính - Ngân hàng hiện đại.
Nhờ hoạt động ngày càng có hiệu quả, uy tín của NHNo & PTNT Gia Lộc
ngày càng được nâng cao và trở thành người bạn đồng hành không thể thiếu
của người nông dân.
2. Cơ cấu tổ chức.
2.1 Về tổ chức bộ máy
+ Chi nhánh NHNo & PTNT huyện Gia Lộc có 05 phòng với số cán bộ là 35
người
Phòng Kiểm tra, kiểm toán nội bộ Phòng
Hành chính
Phòng Thẩm định
Phòng kế toán - Ngân quỹ
Phòng Tín Dụng
+ Về đào tạo nhân lực: Ngay từ đầu năm, đơn vị đã xây dựng kế hoạch
đào tạo năm 2004. Trong năm đã sắp xếp công việc cho 1.624 lượt cán bộ tham
gia các hình thức đào tạo với tổng cộng 14.804 ngày học, trung bình mỗi cán
bộ tham gia học tập 29 ngày/năm (kế hoạch đề ra là 25 ngày/năm), trong đó:
- Số ngày đào tạo nghiệp vụ: 16 ngày
- Số ngày đào tạo dài hạn: 13 ngày
- Tỷ lệ khá giỏi đạt 25%
- Có trên 90% cán bộ đạt trình độ tin học cơ bản
2.2 Về cơ sở vật chất phục vụ cho kinh doanh
+ Về phương tiện đi lại vận chuyển: Toàn chi nhánh có 02 ô tô. Trong đó,
có 01 ô tô chuyên dùng. Mỗi ngân hàng huyện cấp dưới có một ô tô chủ yếu là
để chuyển tiền và đưa cán bộ về các xã để cho vay, đảm bảo việc giải ngân
được nhanh chóng và an toàn.
+ Về trụ sở giao dịch: Tại chi nhánh NHNo & PTNT hyện trước đây còn
nhờ NHNN, ngày 19/2/2000 đã có trụ sở khang trang tại số Thị trấn Gia Lộc,

huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương từ đó hoạt động tăng thêm uy tín, tín nhiệm và
thu hút thêm khách hàng. Trụ sở của các xã mới tách ra được xây dựng mới,
một số trụ sở của ngân hàng xã cũng được sửa sang lại đẹp hơn và chất lượng
hơn.
+ Về hệ thống máy móc và đổi mới hoạt động ở các phần hành nghiệp
vụ: Toàn huyện hiện có 35 máy tính, mỗi xã có từ 7 – 8 máy, các hoạt động từ
văn thư, thống kê, báo cáo, điện báo hàng ngày cho vay thu nợ, sao kê nợ. đều
được làm bằng máy, giảm được một khối lượng cán bộ đáng kể để bổ sung cho
đội ngũ cán bộ tín dụng và giảm bớt sự quá tải của ngân hàng.
+ Với những máy tính hiện đại và chính xác giúp cho lãnh đạo nhanh
chóng thu thập được nhiều thông tin để phân tích đánh giá tình hình và có
những quyết định xử lý kịp thời, phù hợp hiệu quả.
+ Nghiệp vụ tín dụng cũng được thực hiện bằng máy để đảm bảo việc
tập hợp theo dõi các thông tin về khách hàng được chi tiết chính xác, nhằm
phát hiện sai sót để ngăn ngừa các sai phạm và rủi ro.
+ Về thực hiện nghiệp vụ thanh toán: Hiện nay, từ ngân hàng tỉnh đến
các ngân hàng huyện đều tiến hành thanh toán chuyển tiền điện tử, nhanh
chóng và an toàn gấp nhiều lần phương thức thanh toán lạc hậu trước đây,
phục vụ nhu cầu của khách hàng. Nên đã thu hút được nhiều khách hàng đến
NHNo để quan hệ thanh toán. Tỷ lệ thu nhập của dịch vụ này trong tổng thu
nhập của chi nhánh ngày càng tăng.
+ Hoạt động dịch vụ cho ngân hàng phục vụ người nghèo luôn được
quan tâm cải tiến cách làm để giải ngân nhanh chóng, chất lượng tín dụng tốt,
tranh thủ được nhiều vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo Việt Nam.
Sự hoạt động năng nổ nhiệt tình của tất cả các phong ban đã cung cấp
thông tin kịp thời, chính xác cho ban Giám đốc đưa ra những quyết định sáng
suốt, duy trì và phát triển theo đúng chính sách của Đảng và nhà nước.
3. Đặc điểm địa bàn hoạt động của Chi nhánh NHNo & PTNT huyện Gia Lộc.
Gia lộc là một huyện thuộc trung tâm của tỉnh.
Có diện tích đất tự nhiên là 130 km

2
và 28 xã với tổng số dân khoảng
150.000 người trong đó 87% sống bằng nông nghiệp.
Tình hình kinh tế, chính trị trên địa bàn huyện Gia Lộc những năm gần
đây rất ổn định, phát triển kinh tế trên địa bàn luôn cao hơn trung bình cả
nước: Năm 2002 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12,1%.
Năm 2003 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12,8%
Năm 2004 tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng 9,0%.
Cơ cấu kinh tế đang được chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng của ngành dịch vụ và công
nghiệp được nâng lên. Nông nghiệp được chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá. Các làng nghề truyền
thống được khôi phục và phát triển. Thị trường hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng, hoạt động
thương mại diễn ra rất sôi động. Chất lượng hàng hoá ngày càng được nâng cao. Đó là những tiềm năng
mới cho sự phát triển kinh tế địa phương nói chung và hoạt động Ngân hàng nói riêng. Với những đặc điểm
về kinh tế xã hội nêu trên thì hoạt động của NHNo & PTNT huyện Gia Lộc có những thuận lợi và khó khăn
nhất định.
* Thuận lợi.
- Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội trên địa bàn ổn định giúp các thành
phần kinh tế có điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, mở rộng thị phần,
mạnh dạn đầu tư. Đây là điều kiện thuận lợi để các NHTM trên địa bàn mở
rộng hoạt động cho vay, dịch vụ đối với các thành phần kinh tế này qua đó thu
hút được nguồn vốn nhàn rỗi với chi phí thấp.
- Do nhận thức được tầm quan trọng và vị trí chiến lược của tỉnh, các ban
ngành, lãnh đạo địa phương đã ban hành nhiều chủ trương khuyến khích đầu
tư phát triển, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư mới, đồng thời cải tiến công tác
xét duyệt các dự án, giảm thời gian cấp phép đầu tư, tạo điều kiện tốt nhất cho
các doanh nghiệp, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, đặc biệt với các dự án, các
khu công nghiệp nằm dọc quốc lộ 5. Đây chính là một cơ hội cho các NHTM nói
chung và NHNo & PTNT huyện Gia Lộc nói riêng.
- Trên địa bàn huyện Gia Lộc có 85% diện tích và 80% dân số thuộc về nông
nghiệp. Đây chính là đối tượng phục vụ chủ yếu của NHNo & PTNT Hải Dương.

NHNo & PTNT Gia Lộc có một hệ thống mạng lưới Chi nhánh phòng giao dịch,
bàn tiết kiệm rộng khắp thuận tiện cho công tác huy động vốn và cho vay.
- Trong lĩnh vực Ngân hàng: Chính phủ, NHNN có nhiều chính sách mới
nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho các tổ chức tín dụng và khách
hàng, nâng cao tính tự chủ, tính tự chịu trách nhiệm của các TCTD như: sửa
đổi bổ sung nghị định bảo đảm tiền vay, ban hành quy chế cho vay, quy chế
đồng tài trợ, áp dụng quy chế lãi suất thoả thuận. Những chính sách đó đã tác
động tích cực đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đặc biệt là việc ban
hành quy chế cho vay mới, sửa đổi nghị định đảm bảo tiền vay đã tạo hành
lang pháp lý thông thoáng, đơn giản hoá thủ tục cho vay, mở rộng đối tượng
vay vốn phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân.
* Khó khăn:
- Khách hàng của NHNo & PTNT Gia Lộc chiếm trên 90% là hộ sản xuất,
chủ yếu là hộ nông dân với những món vay nhỏ lẻ. Hoạt động của họ phụ thuộc
nhiều vào thiên nhiên. Sản phẩm nông sản còn khó tiêu thụ, giá bán thấp do đó
dễ gây rủi ro cho Ngân hàng. Mặt khác, khách hàng của NHNo & PTNT Gia Lộc
phân tán trên địa bàn rộng đòi hỏi Ngân hàng phải bố trí mạng lưới rộng làm
cho chi phí hoạt động cao, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động chung của Ngân
hàng.
- Thời tiết diễn biến phức tạp, đầu năm rét đậm, rét hại kéo dài đến giữa
năm mưa lớn gây úng lụt trên diện rộng, cùng với nạn dịch cúm gia cầm bùng
phát và lan rộng ở hầu hết các địa phương trong tỉnh nên đã ảnh hưởng rất
lớn đến sản xuất nông nghiệp
- Chỉ số giá tiêu dùng trong năm tăng 9,5% so với đầu năm, làm giảm sức
cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân
nhất là những người có thu nhập thấp, cán bộ, công chức nhà nước. Giá vàng,
ngoại tệ biến động thất thường luôn giữ ở mức cao phần nào tác động đến
hoạt động tiền tệ – tín dụng trên địa bàn.
- Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng dự trữ bắt buộc đối với các NHTM,
NHNo & PTNT Việt Nam quy định điều chỉnh lãi suất tiền vay, tăng tiền gửi duy

trì tại NHCSXH ảnh hưởng trực tiếp đến công tác điều hành kế hoạch kinh
doanh.
- Kho bạc Nhà nước phát hành trái phiếu Chính phủ vượt 71% kế hoạch
với lãi suất cao nên công tác huy động vốn của các TCTD trên địa bàn nói
chung và NHNo nói riêng cũng gặp không ít khó khăn
- Toàn Chi nhánh thực hiện thí điểm bàn giao dư nợ sang NHCSXH tháng
5/2004 và việc khai trương chi nhánh NHPT Nhà đồng bằng sông Cửu Long
tháng 12/2004 càng làm tăng tính cạnh tranh gay gắt.
- Cơ sở vật chất của một số chi nhánh thuộc NHNo & PTNT chưa tương
xứng với mô hình hoạt động, đặc biệt là các chi nhánh trên địa bàn thành phố
trong môi trường cạnh tranh hết sức quyết liệt nhưng trụ sở giao dịch chật
hẹp (chi nhánh thành phố), còn phải đi thuê (chi nhánh số 2,3)
- Tiến trình hiện đại hoá của Ngân hàng còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của các nghiệp
vụ Ngân hàng hiện đại do nền kinh tế đòi hỏi, trong khi các NHTM trên địa bàn đã có được những nghiệp vụ
vượt trội như thanh toán Quốc tế, thực hiện giao dịch mở cửa… Do đó đã làm giảm khả năng cạnh tranh của
Ngân hàng.
II. Thực trạng về công tác huy động vốn tại NHNo & PTNT huyện Gia Lộc
1. Những kết quả đã đạt được.
1.1. Những kết quả đã đạt được về các loại nguồn vốn.
Đối với các NHTM, nguồn vốn huy động tại địa phương là nguồn vốn quan
trọng nhất và luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn. Việc các
NHTM đảm bảo huy động đủ vốn cho công tác sử dụng vốn vừa đảm bảo thu
hút được mọi nguồn vốn nhà rỗi trong xã hội vào công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước vừa đảm bảo cho hoạt động của NHTM được ổn định và đạt
hiệu quả cao.
Không giống các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, hoạt
động của các NHTM dựa chủ yếu vào nguồn vốn huy động, Nguồn vốn tự có
chiếm một tỷ trọng rất nhỏ và chủ yếu được đầu tư vào cơ sở vật chất, tạo uy
tín đối với khách hàng. Ngoài ra các NHTM còn sử dụng một số nguồn vốn
khác như đi vay, vồn tài trợ, uỷ thác đầu tư. Nhưng những nguồn vốn này

chiếm một tỷ trọng rất nhỏ.
Nhận thức được điều đó NHNo & PTNT Gia Lộc đã tập trung mọi nỗ lực
và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Chi nhánh nên vốn huy động đã tăng
cả về số lượng và chất lượng.
Các hình thức huy động chủ yếu được áp dụng tại NHNo & PTNT Gia Lộc
trong thời gian qua bao gồm:
- Nhận tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
- Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế.
Xác định được tầm quan trọng của nguồn vốn huy động NHNo & PTNT
Hải Dương đã trú trọng các biện pháp nhằm tăng trưởng nguồn vốn như: mở
rộng mạng lưới, tạo mọi điều kiện cho khách hàng, linh hoạt điều hành lãi suất
trong phạm vi cho phép… Nhờ đó mà công tác huy động vốn trong những năm
qua của Chi nhánh đã đạt được thành tích rất đáng khích lệ. Ta có thể thấy
thông qua bảng sau:
Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004
Số tiền % Số tiền % Số tiền %
1- Nguồn vốn huy động 69 65,45 90 67,39 153 80,18
2- Nguồn vốn UTĐT 36 34,55 40 30,52 25 14,24
3- Nguồn vốn đi vay 28 2,09 101 5,58
4- Nguồn vốn tự có
Tổng nguồn vốn 105 100 158 100 279 100
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của NHNo & PTNT huyện Gia Lộc )
Nhìn vào bảng trên ta thấy Tổng nguồn vốn đến 31/12/2003 đạt 158 tỷ, tăng
33 tỷ (+26%) so với cuối năm 2002. Tổng nguồn vốn đến 31/12/2004 đạt 279
tỷ, tăng 73 tỷ (+35%) so với cuối năm 2003 (do bàn giao nguồn vốn sang
NHCSXH nên thực chất nguồn vốn NHNo tăng 97 tỷ, tỷ lệ tăng 46,7%), cao hơn
tỷ lệ tăng trưởng chung của toàn hệ thống NHNo 2,3% (toàn hệ thống là

2,35%), bình quân 1 cán bộ viên chức đạt 3,5 tỷ nguồn vốn, cao hơn năm 2003
là 1 tỷ/người. Tuy nhiên, so với bình quân 1 cán bộ viên chức toàn hệ thống
NHNo mới bằng 70% và thấp hơn 2,2 tỷ (bình quân/người toàn hệ thống là
5,7 tỷ)
Tổng nguồn vốn huy động đều tăng qua các năm và khá ổn định. Năm 2002
huy động được 69 tỷ. Năm 2003, tổng nguồn vốn huy động đạt 90 tỷ, tăng 21
tỷ so với năm 2002, tương đương tăng 29,56%. Năm 2004, tổng nguồn vốn
huy động đạt 153 tỷ, tăng 43 tỷ so với năm 2003, tương đương tăng 60,91%.
Sự tăng lên của nguồn vốn huy động phù hợp với sự tăng lên của tổng nguồn.
Năm 2002 nguồn vốn huy động chiếm 65,45% so với tổng nguồn.
Năm 2003 nguồn vốn huy động chiếm 67,39% so với tổng nguồn.
Năm 2004 nguồn vốn huy động chiếm 80,18% so với tổng nguồn vốn.
Nhờ duy trì được tỷ trọng cao của nguồn vốn huy động so với tổng nguồn vốn
nên Chi nhánh NHNo & PTNT Hải Dương luôn chủ động trong công tác sử
dụng vốn, đáp ứng được tốt nhất nhu cầu nguồn vốn của khách hàng và tăng
khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Để đánh giá một cách chính xác về kết quả của quá trình huy động vốn của NH,
chúng ta sẽ xem xét cơ cấu nguồn vốn huy động.
Bảng 2: Cơ cấu nguồn vốn huy động
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004
Số tiền % Số tiền % Số tiền %
I- Nhận tiền gửi
63 91,54 87
96,7
9
143
98,7
6

1- Tiền gửi thanh toán 18 29,47 25 29,18 39 27,17
2- Tiền gửi các TCTD 2 0,31 1 0,11 25 17,7
3- Tiền gửi của dân cư 44 70,22 61 70,71 79 55,13
II- PH giấy tờ có giá 5 8,46 3 3,21 2 1,24
1- Kỳ phiếu 3 50,85 2,2 75,86 16 8,88
2- Chứng chỉ tiền gửi 2,9 49,15 1 20,69 1 3,56
3- Trái phiếu 0 1 2,45 1 2,56
Tổng cộng VHĐ 137,9 100 634,2 100 306 100
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của NHNo & PTNT huyện Gia Lộc )
Qua biểu trên cho thấy. Cơ cấu nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT Gia Lộc bao gồm: Nhận tiền
gửi và Phát hành giấy tờ có giá.
Nguồn vốn từ Nhận tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn (91,54%). Trong đó tiền gửi tiết kiệm của dân cư
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động. Đây là nguồn vốn có tính ổn định cao, tạo điều kiện
thuận lợi cho Ngân hàng trong quá trình sử dụng tiền gửi của các tổ chức kinh tế luôn chiếm một vị trí quan
trọng trong tổng nguồn vốn huy động. Vì đây là nguồn vốn huy động có chi phí thấp nhất, tạo điều kiện cho
Ngân hàng tăng sức cạnh tranh trên thị trường, tăng được tỷ trọng nguồn này nghĩa là Ngân hàng đã thắng
trong kinh doanh không chỉ trong hoạt động tín dụng mà còn trong công tác dịch vụ Ngân hàng.
Nguồn vốn do phát hành kỳ phiếu của Ngân hàng NHNo & PTNT Hải
Dương chiếm một tỷ trọng rất nhỏ (8,46%), mặc dù đây là nguồn vốn có chi
phí huy động cao hơn các nguồn vốn khác nhưng nó cũng chính là nguồn vốn
mà Ngân hàng có thể chủ động huy động cả về số lượng, lãi suất và thời điểm
huy động. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này cho đầu tư trung và dài hạn
một lĩnh vực đang mở ra rất nhiều tiềm năng cho Ngân hàng. Chính vì vậy mà
NHNo & PTNT Gia Lộc nên tăng tỷ trọng nguồn vốn này để có thể chủ động
trong công tác đầu tư trung và dài hạn, đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn
tại địa phương.
Để hiểu hơn về cơ cấu các nguồn vốn trong Ngân hàng chúng ta sẽ xem
xét kỹ từng thành phần trong nguồn vốn huy động.
* Tiền gửi thanh toán.
Đây là các khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp dùng

để thực hiện các khoản đảm bảo thanh toán để chi trả tiền nguyên vật liệu,
hàng hoá, trả dịch vụ. Nhưng tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng trong một thời
gian nhất định. Đối với các NHTM do thời gian và số lượng các khoản tiền
thanh toán là không giống nhau do luôn có những khoản thanh toán đi ra và
vào Ngân hàng nên tại Ngân hàng luôn tồn tại một khoản tiền ổn định và Ngân
hàng có thể sử dụng cho các doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn vay trong ngắn
hạn. Như vậy, các NHTM có thể bù đắp được các chi phí bỏ ra khi thực hiện
quản lý tài khoản của khách hàng.
Trong những năm gần đây, nguồn tiền gửi thanh toán không ngừng tăng
lên. Điều đó chứng tỏ số lượng các tổ chức kinh tế trên địa bàn có xu hướng
ngày càng tăng, mở ra cho Ngân hàng một nguồn huy động vốn dồi dào trong
tương lai.
Tiền gửi thanh toán năm 2002 là 18 tỷ (chiếm 29,47%), năm 2003 là 25
tỷ, tăng 9 tỷ (+35%) so với năm 2002; năm 2004 là 39 tỷ, tăng 14 tỷ (+21%) so
với năm 2003. Trong tiền gửi thanh toán, tiền gửi không kỳ hạn chiếm 80%.
Đây là nguồn vốn có chi phí đầu vào rất thấp, nó tạo điều kiện cho Ngân hàng
trong việc giảm chi phí đầu vào. Tuy nhiên, tiền gửi không kỳ hạn là loại để
biến động, sự biến động của nó phụ thuộc vào mùa vụ và chu kỳ kinh tế.
Tại Chi nhánh NHNo & PTNT Gia Lộc, do làm tốt công tác khách hàng nên
đã thu hút được một lượng lớn các tổ chức kinh tế xã hội trên địa bàn tham
gia mở tài khoản như: Bảo hiểm xã hội, công ty xăng dầu, công ty điện lực, tiết
kiệm bưu điện, đặc biệt là tiền gửi kho bạc. Trong tổng tiền gửi thanh toán của
tổ chức, doanh nghiệp thì tiền gửi kho bạc Nhà nước chiếm tỷ trọng rất lớn:
năm 2002 chiếm 71,6%, năm 2003 chiếm 63,8%, năm 2004 chiếm 80%. Nếu số
dư loại tiền gửi này năm 2002 đạt 14 tỷ (chiếm 21% tổng nguồn vốn huy
động) thì đến năm 2004 đạt 20 tỷ (chiếm 14% tổng nguồn vốn huy động). Đây
là nguồn vốn huy động có lãi suất thấp (từ 01/5/2000 trở lại đây lãi suất
0,2%/tháng) do đó đã góp phần rất quan trọng trong việc hạ thấp lãi suất đầu
vào.
Đạt được kết quả trên có nguyên nhân chủ quan do NHNo & PTNT Gia Lộc

đã áp dụng chính sách khách hàng đúng đắn, luôn tạo điều kiện cho khách
hàng trong quá trình thanh toán, ứng dụng tin học vào quá trình thanh toán.
Mặc dù công tác thanh toán không phải mục đích sinh lời chính nhưng nó lại
tạo uy tín để mở rộng nguồn vốn làm cơ sở tăng trưởng tín dụng, tiết kiệm chi
phí.
Mặc dù trong năm qua số vốn tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế
có tăng lên nhưng vẫn chưa cao so với sự phát triển về số lượng cũng như về
chất lượng các doanh nghiệp. Ngân hàng cần phải chú ý hơn nữa đến chiến lược
khách hàng, tạo thói quen cho khách hàng thanh toán không dùng tiền mặt qua
Ngân hàng vừa ổn định tiền tệ quốc gia, vừa an toàn thuận lợi cho khách hàng,
vừa tăng nguồn thu cho Ngân hàng. Do đó, Ngân hàng cần phải có những biện
pháp hữu hiệu để thu hút lượng tiền gửi của tổ chức kinh tế ngày càng có hiệu
quả.
∗ Tiền gửi các TCTD.
Đây là khoản tiền mà ngân hàng gửi tại các TCTD khác thông qua các
quan hệ trong thanh toán với nhau. Nhìn vào bảng 2 ta thấy, khoản tiền này
chiếm một tỷ trọng nhỏ (0,31% năm 2002, 0,11% năm 2003, 17,7% năm 2004)
trong Nhận tiền gửi.
∗ Nguồn tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động vốn truyền thống của Ngân hàng
được nhân dân quen dùng và trở thành tập quán của dân cư khi có nhu cầu
gửi tiền vào Ngân hàng để hưởng lãi hoặc tiết kiệm cho chi tiêu trong tương
lai. Nguồn tiền gửi tiết kiệm của dân là nguồn vốn rất quan trọng của mỗi
Ngân hàng, nó là một trong ba bộ phận lớn trong tổng nguồn vốn huy động.
Đây là nguồn vốn chủ yếu cho các Ngân hàng thực hiện đầu tư.
Để thu hút tối đa nguồn vốn này NHNo & PTNT Gia Lộc luôn điều chỉnh lãi
suất tiền gửi, đưa ra mức lãi suất nhạy cảm, phù hợp với thị trường, thực hiện
đổi mới trong phong cách phục vụ, mở rộng mạng lưới huy động, trang bị
thêm cơ sở vật chất và các trang thiết bị khác, không ngừng đổi mới phong
cách giao dịch.

Nhờ thực hiện tốt những biện pháp trên mà công tác huy động tiền gửi
tiết kiệm tại Chi nhánh đã đạt kết quả tốt. Trong những năm gần đây, tiền gửi
tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn huy động.
Năm 2002 số dư tài khoản là 48 tỷ, chiếm 70,22% khoản mục nhận tiền
gửi
Năm 2003, số dư tiền gửi tiết kiệm đạt 61 tỷ, chiếm 70,71% khoản mục
nhận tiền gửi, bằng 126,6% so với năm 2002.
Năm 2004, số dư tiền gửi tiết kiệm đạt 79 tỷ, chiếm 55,13% khoản mục
nhận tiền gửi, bằng 127,9% so với năm 2003.
Một điều đáng ghi nhận là từ năm 2003 trở lại đây, chi nhánh NHNo &
PTNT Gia Lộc đã đưa vào áp dụng hình thức tiết kiệm bậc thang (từ
18/02/2003), nhờ vậy số dư tiền gửi kì hạn trên 12 tháng tăng đáng kể (chiếm
38,8% so với tổng nguồn vốn), góp phần duy trì tốc độ tăng của tổng nguồn
tiền gửi tiết kiệm.
Trong tổng tiền gửi tiết kiệm của Chi nhánh, tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại
tệ quy đổi chiếm một tỷ trọng rất nhỏ. Đây là một nghiệp vụ mới được triển
khai tại Chi nhánh từ 05/9/2000. Tuy kết quả đạt được chưa lớn nhưng đây
cũng là một sự cố gắng, nỗ lực của toàn Chi nhánh, nó mở ra triển vọng cho
Chi nhánh để có thể tăng cường huy động nguồn vốn bằng ngoại tệ, đáp ứng
nhu cầu sử dụng ngoại tệ của Chi nhánh.
* Phát hành giấy tờ có giá.
Nền kinh tế phát triển ổn định với tốc độ cao, nhu cầu vốn trung và dài
hạn cho đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ hiện đại hoá sản xuất
ngày càng tăng. Do đó các Ngân hàng thường huy động vốn bằng cách phát
hành kỳ phiếu, trái phiếu. Đây là hình thức huy động vốn linh hoạt nhằm giải
quyết nhu cầu vốn tức thời, Ngân hàng căn cứ vào từng thời điểm để quyết
định đưa ra hình thức huy động này một cách chủ động. Nguồn vốn này có tính
ổn định cao do đó Ngân hàng có thể tăng được hệ số sử dụng vốn, tăng tỷ lệ
đầu tư trung và dài hạn. Kỳ phiếu có thể trả lãi trước hoặc trả lãi sau nên
Ngân hàng có thể sử dụng hình thức này để chủ động thanh toán, hoạch định

tài chính, kết quả kinh doanh. Tuy nhiên, cũng như tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu
có nhược điểm là chi phí huy động cao. Chính vì vậy mà cách thức huy động
này chỉ được sử dụng trong trường hợp thiếu vốn hoặc tại những khu vực có
tính cạnh tranh cao.
Trong những năm vừa qua, Chi nhánh NHNo &PTNT Gia Lộc đã thực hiện huy động vốn bằng phát
hành kỳ phiếu Ngân hàng nhưng với quy mô nhỏ và không thường xuyên: Năm 2002 NHNo & PTNT Gia Lộc
phát hành được 3 tỷ, năm 2003 đạt 7 tỷ, năm 2004 phát hành được 9 tỷ.
Đây là một kết quả khá khiêm tốn của Chi nhánh. Và trong thời gian tới
Ngân hàng sẽ phải chú trọng hơn tới nguồn vốn này bởi lẽ hiện nay Ngân hàng
đang gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ của các Ngân hàng khác trên cùng địa
bàn, hơn nữa nhu cầu sử dụng vốn đang tăng rất mạnh. Huy động vốn qua
phát hành kỳ phiếu sẽ là hướng đi mới bảo đảm cho sự ổn định về nguồn vốn
của Ngân hàng.
Để hiểu rõ hơn, chúng ta cùng theo dõi bảng cơ cấu nguồn vốn theo kỳ
hạn:
Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn huy động phân theo kỳ hạn
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2002 2003
So sánh
2002
2004
So sánh
2003
Số tiền Số +/- % Số +/- %
tiền tiền
1- TG không kỳ hạn
22 25 3 14,41 52 27
104,3
3

- Tiền gửi Kho bạc 14 14,8 0,8 0,6 15 0 0
- Bảo hiểm xã hội 2 2 0 0 2 0 0
2- TG kỳ hạn < 12T 19 15,6 -3,4 -19,17 30 14,4 95,51
3- TG từ 12 trở lên 28 49 21 74,47 63 14 27,64
Tổng 85 106.4 20,6 29,56 162 55,8 60,91
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của NHNo & PTNT huyện Gia Lộc )
Năm 2003, nguồn vốn huy động tăng 20 tỷ (+29,56%) so với năm 2002.
Trong đó, tiền gửi không kì hạn đạt 25 tỷ, chiếm 28,13% tổng nguồn vốn huy
động, tăng 3 tỷ (+14,41%). Riêng tiền gửi kho Bạc đạt 14,8 tỷ chiếm 58% tổng
tiền gửi không kỳ hạn và chiếm 16,4% tổng nguồn vốn huy động. Và Bảo hiểm
xã hội đạt 2 tỷ chiếm 1,9% tiền gửi không kỳ hạn và chiếm 0,6% tổng nguồn
vốn huy động.
Năm 2003, tiền gửi có kì hạn dưới 12 tháng đạt 15,6 tỷ chiếm 17,28%
tổng nguồn vốn huy động, giảm 37 tỷ (-19,17%) so với 2002.
Tiền gửi có kì hạn trên 12 tháng trở lên đạt 49 tỷ chiếm 54,5% tổng
nguồn vốn huy động, tăng 21 tỷ (+74,47%) so với năm 2002.
Năm 2004, nguồn vốn huy động tăng 55 tỷ (+60,91%) so với năm 2003.
Trong đó, tiền gửi không kì hạn đạt 52 tỷ, chiếm 35,72% tổng nguồn vốn huy
động, tăng 26,5 tỷ (+104,33%). Riêng tiền gửi kho Bạc đạt 148 tỷ chiếm
28,52% tổng tiền gửi không kỳ hạn và chiếm 10,18% tổng nguồn vốn huy
động. Và Bảo hiểm xã hội đạt 2 tỷ chiếm 0,96% tiền gửi không kỳ hạn và chiếm
0,34% tổng nguồn vốn huy động.
Năm 2004, tiền gửi có kì hạn dưới 12 tháng đạt 30 tỷ chiếm 20,29% tổng
nguồn vốn huy động, tăng 14 tỷ (+95,51%) so với 2003.
Tiền gửi có kì hạn trên 12 tháng trở lên đạt 63 tỷ chiếm 43,22% tổng
nguồn vốn huy động, tăng 137 tỷ (+27,64%) so với năm 2003.

×