Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.82 KB, 43 trang )

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM.
1. Quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
theo nhiều nguồn khác nhau:
- Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, tồn tại và phát triển từ thời kỳ kinh tế
kế hoạch hoá tập trung.
- Các doanh nghiệp do Nhà nước thành lập trong cơ chế cũ (các doanh
nghiệp nhà nước Trung ương và địa phương).
- Mới thành lập trong thời kỳ đổi mới cơ chế: do sắp xếp lại các doanh
nghiệp quốc doanh, thành lập theo các luật ban hành từ 1996,...
Quá trình phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ diễn ra theo nhiều
giai đoạn với những đặc điểm khác nhau. Thời kỳ khôi phục kinh tế trước
1960, Việt Nam thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, nhưng số
doanh nghiệp lúc bấy giờ còn rất ít, chủ yếu là các cơ sở tiểu thủ công nghiệp.
Từ đầu năm 1960 đến 1986, hình thức doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu
là các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và hộ kinh
tế cá thể. Trong đó có các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã được khuyến
khích phát triển.
Sau khi thống nhất đất nước (1975), riêng trong công nghiệp, cả nước
có 1.913 xí nghiệp và công tư hợp doanh (miền Bắc có 1.279, niềm Nam có 634
xí nghiệp) với 520 ngàn cán bộ, công nhân, trong số đó phần lớn là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Sau hơn 10 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, đến 1985, số xí
nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh trong công nghiệp lên tới 3.220 xí
nghiệp, số hợp tác xã và tổ hợp tiểu thủ công nghiệp lên tới 29.971 cơ sở, khu
vực tư nhân, cá thể chỉ còn 1.951 cơ sở.
Từ 1986 đến nay, với chính sách đổi mới kinh tế, các thành phần kinh tế
chính thức được thừa nhận và được hoạt động lâu dài. Tiếp đó, một loạt văn
kiện ra đời: Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị (1988), Nghị định 27, 28, 29/HĐBT
(1988) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình, Nghị định 66/HĐBT về


nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định; và các luật: Luật Doanh nghiệp tư nhân,
Luật Công ty, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Khuyến
khích đầu tư trong nước... đã tạo cơ sở pháp lý và khuyến khích các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh và các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thực sự được quan tâm và khuyến khích phát triển.
Thời gian qua, mặc dù số lượng doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác
xã giảm mạnh, nhưng tính chung trong toàn nền kinh tế, số lượng các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tăng lên nhanh chóng. Tính riêng trong công nghiệp, số
doanh nghiệp nhà nước giảm liên tục từ 3.141 (1986) xuống 2.002 (2000). Số
lượng hợp tác xã giảm mạnh, từ 37.649 cơ sở (1986) xuống còn 13.086 (1996)
và 1.199 cơ sở (2001) . Trong khi đó, khu vực tư nhân trong công nghiệp (cả
hình thức doanh nghiệp và công ty) tăng rất nhanh: từ 567 doanh nghiệp
(1986) trên 959 doanh nghiệp (1997) và 6.311 doanh nghiệp (2001). (Xem
bảng)
Bảng 7: Số lượng các doanh nghiệp công nghiệp
Năm
Doanh nghiệp quốc
doanh
Ngoài quốc doanh
Trung ương HTX Tư nhân Hộ cá thể
1996 2.762 589 13.086 770 376.900
1997 2.599 546 8.829 959 446.771
1998 2.268 537 5.723 1.114 368.000
1999 2.030 522 5.287 3.322 452.866
2000 2.002 528 1.648 4.909 493.046
Nguồn: Niên giám thống kê 2001. NXB Thống kê, Hà Nội 2002 tr 196, 389.
Cùng theo xu hướng dịch chuyển như trên, từ năm 2001 trở lại đây, số
doanh nghiệp nhà nước cũng giảm liên tục từ 1.973 doanh nghiệp xuống còn
1.786 doanh nghiệp (2005). Số lượng doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh
tăng từ 612.977 doanh nghiệp (2001) lên tới 615.453 doanh nghiệp (2005).

Còn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh hơn từ 239 doanh nghiệp
(2001) lên đến 959 doanh nghiệp (2005). (Xem số liệu)
Bảng số 8: Số cơ sở sản xuất công nghiệp phân theo khu vực và thành
phần kinh tế
Năm Tổng số
Chia ra
Khu vực DNNN
Ngoài quốc
doanh
Đầu tư trực
tiếp nước
ngoài
2001 615.389 1.973 612.977 439
2002 626.129 1.879 623.710 540
2003 617.805 1.843 615.296 666
2004 592.948 1.821 590.240 881
2005 618.198 1.768 615.453 959
Nguồn: Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 1997 - 2006. Tổng cục
thống kê, Hà Nội 2/2007 tr 140.
Trong toàn bộ nền kinh tế, số lượng doanh nghiệp phân theo hình thức
tổ chức sản xuất thuộc các thành phần kinh tế. (Xem bảng sau)
Bảng 9: Số doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế đến 1 - 7 -2001
Loại hình doanh nghiệp
Trong toàn bộ
nền kinh tế
Chia ra
CN, XD
Thương
nghiệp, KS
Ngành

khác
Tổng số doanh nghiệp 23.411 11.299 10.277 1.905
Doanh nghiệp nhà nước 5.962 3.291 1.849 822
Doanh nghiệp tập thể 1.810 1.199 282 329
Doanh nghiệp tư nhân 10.818 4.568 5.918 332
Công ty cổ phần 138 51 30 57
Công ty TNHH 4.015 1.697 2.063 260
Doanh nghiệp vốn nước
ngoài
668 428 135 105
Kinh tế cá thể 1.882.798 707.053 940.994 243.751
Nguồn: Niên giám thống kê, 2001, NXB Thống kê, Hà Nội 2001, tr 389.
Số liệu thống kê 2001 cho thấy, trong tất cả nền kinh tế quốc dân, bình
quân một doanh nghiệp có 434 triệu đồng vốn, 87 lao động. Đối với kinh tế cá
thể, lao động bình quân một cơ sở là 1,7 người. Nếu xét theo ngành nghề, hình
thức tổ chức, sở hữu thì tình hình các doanh nghiệp vừa và nhỏ được thể hiện
như sau: (Xem thêm bảng sau)
Bảng 10: Một số chỉ tiêu của doanh nghiệp nhà nước theo quy mô vừa
và nhỏ năm 2001.
Phân theo
nguồn vốn
Số doanh nghiệp Bình quân một doanh nghiệp
Số lượng Tỷ lệ (%) Vốn (tỷ đồng)
Lao động
(người)
Tổng số 6.544 100 6,9 278
<1 tỷ 3.266 49,9 0,4 96
1-5tỷ 2.281 34,9 2,3 239
Tổng số 2.271 100 9,6 327
<1 tỷ 1.055 46,4 0,4 101

1-5tỷ 845 37,2 2,3 247
Tổng số 1.774 100 5,3 149
<1 tỷ 844 47,6 0,4 59
1-5tỷ 582 32,8 2,4 150
Nguồn: Tổng cục thống kê.
- Doanh nghiệp nhà nước: vốn bình quân một doanh nghiệp là 6,9 tỷ
đồng, lao động bình quân một doanh nghiệp là 279 người. Số liệu thống kê cho
thấy hơn 84,8% doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ, riêng quy mô
nhỏ là 49,9%.
- Khu vực kinh tế tư nhân: Các chỉ số nói trên thấp hơn nhiều so với
doanh nghiệp nhà nước. Số liệu thống kê bảng sau của Tổng cục thống kê cho
thấy: Quy mô trung bình của một doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh
(công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã) là 31,3 lao
động, 1.116,5 triệu đồng vốn kinh doanh. Trong đó, số lao động bình quân một
doanh nghiệp cao nhất là hợp tác xã (102 người), thấp nhất là doanh nghiệp
tư nhân (gần 112 người). Vốn kinh doanh thực tế bình quân một doanh
nghiệp: cao nhất là công ty cổ phần (32,2 tỷ đồng) và thấp nhất là doanh
nghiệp tư nhân (211 triệu đồng).
Bảng 11: Lao động, vốn trung bình một doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh
2000
Tính
chung
Công ty
TNHH
Công ty
cổ phần
Doanh
nghiệp
tư nhân
Hợp tác


Số lao động (người) 31,3 33 56 10,6 102
Vốn thực tế (triệu đồng) 1.165,5 1.498,1 32.177 211,1 757,2
Nguồn: Tổng cục thống kê.
2. Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2.1. Về sản lượng.
Theo đánh giá của một số chuyên gia, sản lượng của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng khoảng 60 - 99% trong giá trị tổng sản lượng trong
tất cả các lĩnh vực và thành phần kinh tế.
Trong công nghiệp, tỷ trọng sản lượng của các doanh nghiệp nhà nước
quy mô vừa và nhỏ chiếm khoảng 60% tổng sản lượng công nghiệp.
Đối với khu vực ngoài quốc doanh, con số này khoảng 99%.
2.2. Tốc độ phát triển sản xuất.
Tốc độ phát triển sản xuất thể hiện bằng tốc độ phát triển giá trị tổng
sản lượng. Riêng trong công nghiệp, tốc độ phát triển sản xuất mỗi năm từ
2001 đến 2006 tăng 13,5%. (Xem bảng).
Bảng 12: Chỉ số phát triển giá trị sản xuất công nghiệp phân theo khu
vực và thành phần kinh tế.
Năm
Tính
chung
Chia ra
Khu vực DNNN
Ngoài quốc
doanh
Đầu tư trực
tiếp nước
ngoài
2001 114,5 114,9 116,9 108,8
2002 141,1 111,6 111,5 121,7

2003 113,8 110,8 109,5 123,2
2004 112,5 107,7 107,5 124,4
2005 111,6 105,4 110,9 121,6
2006 115,7 112,1 118,3 118,6
2002-
2006
113,5 109,5 111,5 121,8
Nguồn: Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 1997 - 2006. Tổng cục
thống kê, Hà Nội 2/2007 tr 152.
Tuy sản lượng các doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh, nhưng giá trị
tổng sản lượng của chúng lại tăng 9,5% mỗi năm. Còn các khu vực khác thì
tăng mạnh hơn, đặc biệt là khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nhìn chung, sự phát triển của các khu vực kinh tế vẫn chủ yếu theo chiều
rộng (tăng giá trị chủ yếu là tăng số doanh nghiệp). Sự đầu tư phát triển theo
chiều sâu còn nhiều hạn chế. Theo số liệu thống kê, mức độ phát triển của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế không cao: 59% số doanh nghiệp không tăng
quy mô vốn sản xuất, chỉ có 6,2% số doanh nghiệp tăng quy mô vốn gấp đôi.
Mức độ phát triển theo chiều sâu của khu vực ngoài quốc doanh (chủ yếu là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ) lại càng thấp hơn. Gần 70% doanh nghiệp tư
nhân và 61% số hợp tác xã không tăng quy mô vốn. (Xem bảng sau)
Bảng 13: Mức độ tăng quy mô vốn theo loại doanh nghiệp những năm
2001 - 2002.
Đơn vị: %
Tổng
số
Mức độ phát triển so với trước
Như cũ
Mở rộng
dưới 1,5
lần

Mở rộng
dưới 1,5-
2 lần
Mở rộng
> 2 lần
Toàn bộ nền KT 100 59 27,7 8,7 4,6
Công nghiệp 100 51,6 30,0 12,2 6,2
Ngoài quốc doanh
Công ty TNHH 100 44,79 35,31 12,38 7,51
Công ty cổ phần 100 22,45 24,49 33,67 19,39
Doanh nghiệp tư
nhân
100 69,95 22,39 5,49 2,17
Hợp tác xã 100 61,09 26,51 7,96 4,44
Nguồn: Kinh tế ngoài quốc doanh thời mở cửa 1997 - 2001. NXB Thống kê. Hà
Nội, 2002.
2.3. Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ còn nhiều hạn chế so với với các doanh nghiệp quy mô lớn. Nó được thể
hiện trong tất cả các ngành kể cả công nghiệp hay thương mại và trong tất cả
các thành phần kinh tế từ khu vực nhà nước đến khu vực tư nhân. Tuy nhiên,
đó chỉ là hiệu quả kinh tế đơn thuần dựa trên một số tiêu thức truyền thống.
Ngoài ra, nếu tính hiệu quả kinh tế - xã hội trong tổng thể thì hiệu quả kinh
doanh của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ lớn hơn nhiều. Điều đó thể hiện
qua những vấn đề dưới đây:
- Thu hút một nguồn lực vốn nhàn rỗi rất lớn trong dân (không sinh lãi
hoặc sinh lãi thấp) vào hoạt động sinh lãi cao hơn.
- Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp chủ yếu bằng vốn của dân mà lẽ
ra Nhà nước phải tốn rất nhiều vốn đầu tư để giải quyết việc làm.
Để đánh giá kết quả hiệu quả sản xuất kinh doanh ta có thể xem xét các

chỉ tiêu đạt được trong năm 2004 và so sánh với năm 2003 của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ dựa vào số liệu trong bảng sau:
* Các chỉ tiêu đạt được năm 2004.
Bảng 14: Các chỉ tiêu đạt được của các doanh nghiệp vừa và nhỏ năm
2003, 2004
Đơn vị: %
Tỷ lệ DN 2003 2004
1. Tăng sản xuất
Trong đó > 15%
81
70
48
32
2. Tăng doanh thu
Trong đó tăng đáng kể
75
60
63
39
3. Tăng xuất khẩu
Trong đó tăng đáng kể
70
56
31
19
4. Tăng lợi nhuận
Trong đó tăng đáng kể
65
27
17

28
5. Tăng mức nộp thuế
Trong đó tăng đáng kể
77
58
55
32
Nguồn: Theo phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI.
* Các chỉ tiêu đạt được năm 2004
- Sản xuất: 48% doanh nghiệp có tăng trưởng (trong đó 32% tăng thêm
15%)
- Doanh thu: 63% doanh nghiệp tăng doanh thu (trong đó 39% tăng
đáng kể).
- Xuất khẩu: 31% doanh nghiệp tăng xuất khẩu (trong đó 19% tăng
đáng kể).
- Lợi nhuận: 47% doanh nghiệp tăng xuất khẩu (trong đó 28% tăng
đáng kể).
* So sánh các chỉ tiêu đạt được trong năm 2004 với năm 2003:
So với các chỉ tiêu đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong năm 2003, các chỉ tiêu của năm 2004 đều thấp hơn. thậm chí nhiều chỉ
tiêu giảm đáng kể. Điều này cho thấy rằng trong những năm qua, nhiều doanh
nghiệp đang trong tình trạng khó khăn. Thêm vào đó, do sự khủng hoảng kinh
tế khu vực năm 2004 làm mất giá đồng nội tệ hay tăng tỷ giá ngoại tệ
(USD/VNĐ). Có thể nói, đây là hiện trạng chung của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Việt Nam hiện nay.
- Tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế do số lượng doanh nghiệp và số
lượng chủng loại sản phẩm tăng lên rất lớn.
- Làm cho nền kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn hoạt động hiệu
quả hơn.
- Tăng mức độ an toàn, giảm bớt rủi ro trong nền kinh tế thị trường đầy

biến động do tăng lượng hàng hoá cũng như số công ty có thể thay thế.
- Đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng với giá thành rẻ
hơn và thuận tiện hơn...
- Đa dạng hoá và tăng thu nhập dân cư, góp phần xoá đói giảm nghèo.
2.4. Tình hình thiết bị công nghệ.
Thiết bị, công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất lạc hậu. Chỉ trừ
một số ít các doanh nghiệp mới thành lập, còn phần lớn sử dụng thiết bị lạc
hậu tới 20 - 50 lần so với các nước trong khu vực.
Bảng 15: Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị đang sử dụng tại Thành
phố Hồ Chí Minh so với cùng loại trên thế giới (%)
Loại doanh nghiệp
Trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị
Hiện đại Trung bình Lạc hậu
1. Quốc doanh 11,4 53,1 35,5
2. Ngoài quốc doanh 0,7 27 60,3
- Công ty cổ phần, TNHH 19,4 54,8 25,8
- Doanh nghiệp tư nhân 19,7 30,3 50
- Hợp tác xã 16,7 33,3 50
- Tổ hợp, cá thể 3,6 22,8 73,6
Chung 10 38 52
Nguồn: Phát triển kinh tế, số 6 - 2003, tr 16.
Năng lực công nghệ và kỹ thuật hạn chế, trang bị vốn thấp (chỉ bằng 3%
mức trang bị kỹ thuật trong doanh nghiệp công nghiệp lớn). Tỷ lệ đổi mới
trang bị rất thấp, nếu lấy Thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm công nghệ cao
nhất cả nước làm ví dụ thì tỷ lệ này cũng chỉ là khoảng 10%/một năm tính
theo vốn đầu tư. Như vậy phải mất 10 năm mới khấu hao hết máy móc thiết bị.
Nhiều sản phẩm công nghệ hiện nay như các sản phẩm điện tử, viễn thông, hoá
thực phẩm có chu kỳ sống rất ngắn. Tỷ lệ công nghệ lạc hậu quá cao. Trong đó
66,3% công nghệ của khu vực ngoài quốc doanh thuộc loại lạc hậu và rất lạc
hậu. Nên với tốc độ đổi mới máy móc thiết bị như trên thì nước ta không thể

tránh được sự tụt hậu kinh tế so với khu vực và trên thế giới. Do đó mà năng
suất thấp, chi phí cao, rất khó cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc
tế. Có thể nói, các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ đang đứng trước một thức thức lớn khi nước ta đã cam kết thực hiện
AFTA, gia nhập APEC, và trong tương lai sẽ tham gia WTO khi đủ điều kiện.
2.5. Trình độ lao động và quản lý.
Nhìn chung trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ lao động ít được đào tạo
cơ bản qua các trường chính thống mà chủ yếu theo phương pháp truyền
nghề, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt là nhóm lao động trong cơ sở sản xuất
kinh doanh nhỏ. Số liệu điều tra cho thấy: 74,8% lao động trong các doanh
nghiệp vừa và nhỏ chưa học hết phổ thông trung học, chỉ có 5,3% lao động
trong khu ngoài quốc doanh có trình độ đại học, trong đó tập trung chủ yếu
vào các công ty TNHH và công ty cổ phần (hơn 80%). Ngoài ra lao động ít
được đào tạo nghề và nâng cao tay nghề, do đó mà ảnh hưởng tới chất lượng
sản phẩm, năng suất lao động thấp.
Về chủ doanh nghiệp: Chủ doanh nghiệp trong khu vực quốc doanh phần
lớn mới làm quen với cơ chế thị trường nên còn nhiều bỡ ngỡ. Trong khu vực
ngoài quốc doanh, phần lớn các doanh nghiệp mới thành lập nên chủ doanh
nghiệp chưa được đào tạo cũng như chưa có kinh nghiệm. Trong số các chủ
doanh nghiệp ngoài quốc doanh 42,7% là những người đã từng là cán bộ, công
nhân viên nay đứng ra lập doanh nghiệp. Trên 48,2% số chủ doanh nghiệp
không có bằng cấp, chỉ có 31,2% số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh có
trình độ cao đẳng trở lên.
3. Môi trường kinh doanh đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Môi trường kinh doanh là yếu tố quan trọng đối với hoạt động của
doanh nghiệp. Khái niệm môi trường kinh doanh rất rộng lớn và có nhiều cách
phân loại khác nhau. Theo cách phân loại khá phổ biến hiện nay, môi trường
kinh doanh bao gồm: Môi trường kinh tế (trong đó, yếu tố quan trọng nhất là
thị trường); Môi trường thể chế, pháp lý; Môi trường chính trị - xã hội; Môi
trường khoa học công nghệ; Môi trường văn hoá - xã hội; Môi trường tự nhiên.

Để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể phát triển thuận lợi, môi trường
kinh doanh cần phải ổn định, an toàn. Các yếu tố của môi trường kinh doanh
phải đồng bộ.
Ở Việt Nam, việc chuyển sang cơ chế thị trường và những cố gắng của
Nhà nước trong việc cải cách nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội bước đầu đã tạo
môi trường thuận loại cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Điều đó
thể hiện như sau: Đảm bảo ổn định chính trị, kiềm chế lạm phát, xử lý lãi suất
theo quan hệ thị trường, ban hành một số luật, cải cách hệ thống thuế, khuyến
khích xuất khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế. Tuy vậy, môi trường kinh
doanh chung còn gặp nhiều khó khăn. Để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể
hoạt động hiệu quả, cần phải giải quyết nhiều vấn đề tạo lập môi trường kinh
doanh thuận lợi hơn. Đây chỉ là một yếu tố quan trọng và cấp bách hiện nay
trong môi trường kinh doanh đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta:
Môi trường luật pháp: Thời gian qua Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong
việc tạo lập khuôn khổ pháp lý cho các loại hình doanh nghiệp hoạt động. Tính
đến cuối năm 2002 nước ta đã có 55 luật, 64 pháp lệnh, 251 Nghị định. Trong
đó có các luật quan trọng mới được ban hành như: Luật Khuyến khích đầu tư
trong nước, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã... Đặc biệt là Luật
Doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá X thông qua ngày 12-6-2005 thay thế cho Luật Công ty, Luật Doanh
nghiệp tư nhân trước đây.
Tuy vậy, hệ thống pháp luật chung cho toàn bộ nền kinh tế chưa hoàn
chỉnh, thiếu đồng bộ, thiếu những đạo luật quan trọng khác. Đồng thời qua
việc thực thi luật pháp và các chính sách, trên thực tế đã bộc lộ nhiều nhược
điểm như:
- Môi trường pháp lý đối với các loại hình doanh nghiệp chưa bình đẳng,
kể cả khi hình thành doanh nghiệp cũng như quốc tế hoạt động kinh doanh.
Việc hoạch định chính sách chủ yếu vẫn theo loại hình sở hữu, chưa chú trọng
ngành nghề, quy mô doanh nghiệp. Thiếu bình đẳng giữa luật đầu tư trong
nước và luật đầu tư nước ngoài theo hướng có lợi cho các doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài.
- Môi trương pháp lý thiếu ổn định, thường xuyên thay đổi trong các quy
định pháp lý đối với các doanh nghiệp, gây tác dụng xấu đến môi trường đầu
tư do mức độ rủi ro cao.
- Nhiều quy định pháp lý hiện nay còn rắc rối, rườm rà, việc tuyên truyền
lại hạn chế khiến cho các doanh nghiệp có tâm lý ngại không muốn thực hiện
các quy định đó.
- Các văn bản pháp quy thường ban hành không kịp thời, thiếu đồng bộ,
nhiều quy định pháp lý không còn phù hợp chưa được rà soát kịp thời vừa gây
khó khăn, bó buộc hoạt động của các doanh nghiệp, vừa tạo ra những kẽ hở để
các doanh nghiệp lợi dụng, làm mất hiệu lực quản lý nhà nước, đặc biệt là
những thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh, thủ tục vay vốn, xuất nhập
khẩu, thuê đất.
- Việc thi hành pháp luật và xử lý vi phạm thiếu nghiêm minh đã dẫn đến
tình trạng kinh doanh thiếu lành mạnh, gây rối loạn trong hoạt động kinh
doanh.
- Chưa có luật khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ như ở các
nước khác. Chẳng hạn, ở Hàn Quốc, có Luật Cơ bản về doanh nghiệp vừa và
nhỏ (1966), luật khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ (1978). Nhiều nước
khác đều có luật riêng để khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Môi trường thị trường: Thị trường là một trong những khó khăn đối với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra, thị
trường trong nước và thị trường nước ngoài. Nói đến khó khăn về thị trường
phải nói đến 2 nguyên nhân: Từ phía doanh nghiệp vừa và nhỏ (chưa thích
nghi kịp với thị trường, sản xuất xấu, kém, giá thành cao... nên chưa thâm nhập
được thị trường) và từ phía Nhà nước (tạo lập môi trường thị trường).
Thị trường nước ta còn kém phát triển, thiếu đồng bộ và bị chia cắt.
Hiện nay mới có thị trường hàng hoá và dịch vụ, còn các thị trường khác chưa
hoặc còn manh nha. Ví dụ: Thị trường vốn còn kém hiệu quả, đặc biệt là vốn
dài hạn. Tuy nhiên, vào tháng 7/2006 thị trường chứng khoán Việt Nam cũng

đã ra đời và đi vào hoạt động một cách chập chững và nó không phải là thị
trường vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, thị trường còn bị độc
quyền và đặc quyền nặng nề, làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngay từ khi
ra đời đã phải cạnh tranh không cân sức. Thị trường đầu vào như đất đai,
vốn... đang khó khăn lớn, về cơ bản vẫn là cơ chế "xin cho" bất lợi cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Khó khăn lớn nhất của thị trường trong nước là sức mua
thấp, đặc biệt là ở nông thôn, phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa
vươn ra được thị trường ngoại tỉnh và nước ngoài. Thị trường đầu ra bị chèn
ép do hàng ngoại nhập lậu tràn lan, phần lớn thị trường tiêu dùng bị hàng hoá
nước ngoài chiếm lĩnh, thiếu thông tin hướng dẫn về thị trường.
Về thị trường nước ngoài: Do hạn chế về công nghệ, chất lượng sản
phẩm thấp, thiếu thị trường và ít có điều kiện tiếp xúc với thị trường nước
ngoài nên khó xuất khẩu. Nhiều ngành nghề như thủ công mỹ nghệ, mây tre
đan, chạm khảm... bị đình đốn khi mất thị trường Liên Xô và Đông Âu, hơn nữa,
chính sách xuất khẩu theo hạn ngạch hoặc quy định mức vốn tối thiểu đối với
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu đã gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp.
Trên thực tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta chủ yếu làm gia công cho
các tổ chức trung gian trong và ngoài nước, xuất khẩu uỷ thác qua các doanh
nghiệp nhà nước quy mô lớn.
Như vậy, khó khăn về thị trường do cả 2 phía: Một mặt, do năng lực,
trình độ hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chất lượng hàng hoá thấp,
trình độ quản lý kém; mặt khác, do môi trường thị trường chưa tốt: sức mua
thấp, giá đầu vào cao, thiếu thông tin, bị hàng ngoại chèn ép.
4. Những khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Do đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là quy mô nhỏ, vốn ít,
trình độ công nghệ thấp, năng lực quản lý hạn chế nên các doanh nghiệp này
gặp rất nhiều khó khăn trở ngại trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Dưới
đây là một trong số những khó khăn trở ngại đó.
* Về tài chính: Thiếu vốn đang là một trong những khó khăn tài chính
lớn nhất đối với doanh nghiệp. Nguyên nhân của tình trạng đó vừa mang tính

chủ quan (từ phía doanh nghiệp) vừa do các yếu tố khách quan (từ phía môi
trường kinh doanh) và có thể là:
- Phần lớn các doanh nghiệp huy động vốn phi chính thức, lãi suất cao,
không ổn định.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không đáp ứng được các yêu cầu của
ngân hàng (về tài sản thế chấp và phương án kinh doanh).
- Khó xác định giá trị tài sản thế chấp, chuyển nhượng đất (vật thế chấp
chủ yếu) còn phức tạp.
- Ngân hàng chưa sẵn sàng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vì mức
rủi ro cao.
- Chưa có thị trường vốn (đặc biệt là vốn dài hạn) cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
- Hiệu quả sử dụng vốn của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ thấp.
- Chưa có sự hỗ trợ của các tổ chức trung gian như tổ chức bảo lãnh tín
dụng.
Thực tế cho thấy, phần vốn huy động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
từ nguồn phi chính thức chiếm tỷ lệ cao, mức độ rủi ro lớn.
* Năng lực công nghệ và kỹ thuật hạn chế, trang bị vốn thấp (chỉ bằng
3% mức trang bị kỹ thuật trong các doanh nghiệp lớn). Nguyên nhân là do
thiếu vốn để trang bị công nghệ hiện đại, chưa quan tâm đúng mức tới phát
triển công nghệ, thiếu thông tin về công nghệ...
* Trình độ lao động và quản lý hạn chế.
* Thiếu thông tin, kiến thức, thiếu mặt bằng sản xuất, sự cạnh tranh gay
gắt của hàng ngoại đang là những khó khăn trở ngại lớn nhất đối với các
doanh nghiệp.
* Thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước: Đây là một trong những khó khăn bao
trùm, vì thiếu sự hỗ trợ cần thiết các doanh nghiệp này sẽ gặp rất nhiều khó
khăn trong hoạt động kinh doanh, nhất là hỗ trợ lập nghiệp, chuyển giao công
nghệ, bảo lãnh tín dụng. Hơn nữa, nhiều vấn đề tự thân các doanh nghiệp
không thể giải quyết được như cơ sở hạ tầng và môi trường kinh doanh nói

chung.
* Chưa có sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng như các
hiệp hội nghề nghiệp.
Trên là những khó khăn cơ bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam hiện nay. Tuy nhiên, để tìm ra nguyên nhân của vấn đề cần đánh giá mức
độ khó khăn của các yếu tố khác nhau đối hoạt động của doanh nghiệp. Có
nghĩa là cần xem xét những yếu nào ảnh hưởng lớn nhất tới doanh nghiệp.
Trên cơ sở đó mà có những giải pháp phù hợp cho việc hỗ trợ phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Ta xem xét cách đánh giá sau:
Tiêu chí đánh giá theo thang điểm 1 - 5 (1. Không ảnh hưởng; 5. Ảnh
hưởng rất nhiều). Điểm bình quân của tất cả các yếu tố được xếp từ cao đến
thấp như sau:
* Những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp (điểm
từ 3-5)
- Thị trường xuất khẩu hạn chế: 3,5
- Luật lệ thiếu rõ ràng hay thay đổi: 3,4
- Thuế cao: 3,14
- Thiếu thông tin: 3,09
- Nhu cầu trong nước chưa cao: 3,09
- Vay vốn khó khăn: 3,04
Cùng với cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực, vấn đề mà tất cả
các doanh nghiệp thực sự vấp phải là thiếu thị trường xuất khẩu (các doanh
nghiệp đánh giá mức độ không thuận lợi là 3,5/5). Trong năm 2004 vừa qua,
mặc dù Chính phủ đã có nhiều cố gắng trong sửa đổi luật pháp, tạo môi trường
thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhưng vấn đề luật lệ thiếu rõ ràng, hay thay
đổi dẫn đến không đồng bộ được các doanh nghiệp đánh giá ảnh hưởng không
thuận lợi đứng thứ hai. (Điểm 3,4/5)
* Những yếu tố có ảnh hưởng không thuận lợi tương đối lớn, trên mức
trung bình (2,5 điểm trở lên).
- Buôn lậu, hàng giả: 2,84

- Chi phí vận tải, điện, thông tin liên lạc: 2,8
- Công nghệ, thiết bị lạc hậu: 2,79
- Năng lực đội ngũ quản lý: 2,68.
* Những nhân tố ảnh hưởng thấp hơn (2,5 điểm trở xuống).
- Lao động chưa đủ tay nghề: 2,46
- Thiếu mặt bằng sản xuất, kinh doanh: 2,42.
- Thiếu vật tư, nguyên vật liệu: 2,42
- Lao động dư thừa, chưa sắp xếp được: 1,84
Những yếu tố bên ngoài tác động gây khó khăn được doanh nghiệp đánh
giá cao, còn những yếu tố phát sinh từ nội lực doanh nghiệp đều được đánh
giá thấp hơn. Đây là vấn đề đòi hỏi Chính phủ, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam(VCCI) cùng với các hiệp hội cần có các giải pháp thích hợp hỗ
trợ, đồng thời doanh nghiệp cần tìm hiểu rõ nguyên nhân thực tế, đúng đắn để
giải quyết những khó khăn của chính mình.
II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM.
Ở Việt Nam các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm trong
hệ thống chính sách chung của toàn bộ nền kinh tế, chưa có chính sách riêng
đối với các doanh nghiệp này.
Như trên đã nói, các chính sách tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp
vừa và nhỏ bao gồm: Các chính sách kinh tế vĩ mô (tác động tới toàn bộ nền
kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ) và các chính sách đặc thù hỗ
trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chủ trương phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở nước ta đã được khẳng định trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII
và Nghị quyết Hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (khoá VIII).
Đây là định hướng chiến lược đúng đắn trong điều kiện nền kinh tế vận động
theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước và thích ứng với quá trình
hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể là:
- Hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đảm bảo và nâng
cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế. phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ chính là thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần có chú ý

theo chiều sâu.
- Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là nhằm huy động mọi nguồn vốn,
tạo nhiều việc làm, góp phần thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.

×