Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TTQT CỦA NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.25 KB, 29 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TTQT CỦA
NHTM
1.1 Khái quát về các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế, quá trình hình thành và phát triển của nó gắn liền với sự phát triển của
nền sản xuất hàng hoá. Sự phát triển của nền kinh tế và sự phát triển của Ngân
hàng có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau; quá trình phát triển
kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của Ngân hàng; đến lượt mình, sự
phát triển của hệ thống Ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển
nền kinh tế. Từ khi ra đời, các NHTM đã cung cấp các dịch vụ tài chính quan
trọng cho nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, các NHTM ngày càng hoàn
thiện và đa dạng hoá các sản phẩm do mình cung cấp, và cho đến nay Ngân
hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế. Trong các hoạt động của Ngân hàng có thể
rút ra được các hoạt động cơ bản chính đươc Ngân hàng thực hiện ngay từ trong
thời gian đầu ra đời như sau:
1.1.1 Hoạt động nhận tiền gửi
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, trong xã hội luôn tồn tại hai nhóm
người: các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu
dùng và đầu tư vượt quá thu nhập; và những cá nhân và tổ chức thặng dư trong
chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu, do đó họ có
một khoản tiết kiệm.Trên thực tế, mặc dù luôn tồn tại hai nhóm người này
nhưng sự tiếp xúc trực tiếp để hình thành nên mối quan hệ tài chính giữa hai
nhóm bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không
gian…Đây là điều kiện cho sự ra đời chức năng trung gian tài chính của Ngân
hàng: với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Để thực hiện
được chức năng trung gian tài chính của mình Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền
gửi đẻ giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó Ngân hàng huy
động tiền của doanh nghiệp, các chức và dân cư với cam kết hoàn trả đúng hạn.
Để thu hút được nguồn tiền gửi, các NHTM đã đưa ra nhiều hình thức nhận tiền


gửi khác nhau:
- Tiền gửi thanh toán: Đây là khoản tiền của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
gửi vào ngân hàng để nhờ Ngân hàng giừ hộ và thực hiện các nhu cầu thanh
toán, chi trả của doanh nghiệp và cá nhân. Do loại tiền này các doanh nghiệp và
tổ chức gửi vào Ngân hàng với mục đích thuận tiện cho hoạt động thanh toán
của mình nên lãi suất của các khoản tiền gửi này là rất thấp và Ngân hàng chỉ
thực hiện thanh toán trong phạm vi số dư cho phép.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh
toán, song nó lại có nhược điểm là lãi suất thấp. Nhiều khoản tiền dư thừa của
doanh nghiệp và các cá nhân không được sử dụng trong một khoảng thời gian xác
định. Do đó, để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, Ngân hàng đã đưa ra loại
hình tiền gửi có kỳ hạn với lãi suất cao hơn tiền gửi thanh toán.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Để đáp ứng nhu cầu cho dân cư khi có các
khoản tiền gửi tiết kiệm để đáp ứng nhu cầu bảo toàn và sinh lời đối với các
khoản tiết kiệm này.
- Tiền gửi của các NHTM khác: Các NHTM thường mở tài khoản tiền gửi
thanh toán và gửi tiền tại các NHTM khác để phục vụ cho hoạt động thanh toán
bù trừ giữa các ngân hàng và một số mục đích khác.
1.1.2 Hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động đặc trưng của NHTM và là hoạt động sinh lời cao,
đem lại phần thu nhập quan trọng nhất cho Ngân hàng. Các NHTM là tổ chức
cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình, nhà nước…
Ngân hàng cung cấp các khoản vay cho doanh nghiệp để mở rộng sản xuất, xây
dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị…;các khoản vay tiêu dùng của Ngân
hàng cho cá nhân đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, góp phần nâng cao đời sống của
người dân. Ngoài ra, Ngân hàng cũng là tổ chức quan trọng tài trợ cho nhu cầu
chi tiêu của Chính phủ trong trường hợp ngân sách tạm thời thâm hụt. Có nhiều
tiêu thức để phân loại các khoản cho vay, sau đây là cách phân loại theo thời
gian cho vay:
- Khoản cho vay ngắn hạn: Khoản cho vay này có thời hạn từ 12 tháng trở

xuống
- Khoản cho vay Trung hạn: Khoản cho vay này có thời hạn từ trên 1 năm
đến 5 năm
- Khoản cho vay dài hạn: Khoản cho vay này có thời hạn tử 5 năm trở lên.
1.1.3 Hoạt động thanh toán
Khi huy động các khoản tiền gửi của tổ chức và dân cư, ngoài việc thực
hiện chức năng bảo quản tiền gửi, các NHTM còn thực hiện vai trò trung gian
thanh toán cho khách hàng thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán của họ. Nhờ
có vai trò trung gian thanh toán của Ngân hàng, việc thanh toán hàng hoá, dịch
vụ của Ngân hàng trở lên nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và tiết kiệm chi phí.
Để việc thanh toán qua Ngân hàng được thuận tiện, Ngân hàng đã áp dụng
nhiều hình thức thanh toán như: Séc, Uỷ nhiệm thu, Nhờ thu, L/Cho vay mở
L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…
1.1.4 Các hoạt động khác
- Mua bán ngoại tệ: Đây là một trong những dịch vụ đầu tiên của các NHTM
trong quá trình hình thành. Sản xuất càng phát triển xuất hiện nhu cầu trao đổi
hàng hoá giữa các quốc gia và để quá trình này diễn ra thuận tiện các Ngân hàng
đứng ra thực hiện việc mua bán ngoại tệ tức là mua bán một loại tiền này lấy
một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Đây là hoạt động chứa đựng rủi ro cao
và yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao vì thế hoạt động này thường được
các Ngân hàng lớn thực hiện.
- Bảo lãnh: Các NHTM nhận tiền gửi của khách hàng và thường họ có năng
lực tài chính tốt nên có uy tín trong việc bảo lãnh cho khách hàng của mình để
mua hàng hoá, trang thiết bị, tham gia dự thầu, phát hành chứng khoán…
- Cho thuê tài sản: Thông thường, các NHTM cho khách hàng vay tiền để họ
mua sắm tài sản, tuy nhiên để mở rộng hoạt động cho vay đối với những khách
hàng không đủ điều kiện vay vốn, các NHTM bỏ tiền mua các tài sản theo yêu
cầu của khách hàng sau đó cho khách hàng thuê. Hình thức tài trợ này ít rủi ro
hơn do các Ngân hàng có quyền thu hồi lại tài sản khi người thuê không trả
được nợ.

- Ngoài ra các NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác như: Bảo quản vật có
giá, Quản lý ngân quỹ, Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ, Cung cấp các
dịch vụ uỷ thác và tư vấn, Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán…
1.2 Hoạt động thanh toán quốc tế của NHTM
1.2.1 Cơ sở hình thành và khái niệm về hoạt động TTQT của NHTM
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa hoc kỹ thuật như hiện nay, trên
thế giới đang diễn ra xu hướng hội nhập của nền kinh tế thế giới, các nước đều
không ngừng phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, trong đó thương mại quốc tế
đóng vai trò quan trọng, là động lực phát triển của quốc gia. Bất cứ một quốc
gia nào muốn phát triển kinh tế, đều phải phát triển hoạt động xuất nhập khẩu,
mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Điều này xuất phát từ nguyên nhân
do mỗi nước có điều kiện khác biệt nhau về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên,
…mỗi quốc gia chỉ có điều kiện thuận lợi để sản xuất một hoặc một số loại sản
phẩm nhất định. Để tận dụng được tối đa được những lợi thế so sánh của đất
nước mình, mỗi quốc gia sẽ tập trung vào sản xuất những mặt hàng này với chi
phí thấp nhất để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, mỗi quốc
gia chỉ có lợi thế trong việc sản xuất một số loại sản phẩm, trong khi nhu cầu
của con người thì rất đa dạng vì thế mỗi quốc gia sẽ nhập khẩu những loại hàng
hoá mà họ không thể sản xuất hoặc sản xuất ra với giá thành cao hơn các quốc
gia khác. Như thế, các quốc gia trên thế giới diễn ra quá trình trao đổi hàng hoá
với nhau. Điều này làm xuất hiện nhu cầu TTQT giữa các quôc gia. Kinh tế mở
rộng dẫn đến sự phát triển của TTQT vừa về chất vừa về lượng là một tất yếu
khách quan để đáp ứng nhu cầu thương mại quốc tế như thanh toán nhập khẩu,
các giao dịch trên thị trường vốn quốc tế.
Ngoài ra, hoạt động thương mại quốc tế gặp phải những khó khăn nhất
định do mỗi nước có hệ thống tiền tệ riêng, không đồng nhất, trở ngại về bất
đồng ngôn ngữ, môi trường văn hoá, phong tục tập quán khác nhau, môi trường
pháp lý và luật pháp ở các quốc gia khác nhau, các chế độ kinh tế- chính trị
khác nhau… Mặt khác, sự xa cách về mặt địa lý của người mua và người bán,
năng lực tài chính của người mua và người bán ở các nước khác nhau thì không

giống nhau cũng là những trở ngại không nhỏ ảnh hưởng đến quá trình trao đổi
hàng hoá, dịch vụ và thanh toán của cả hai bên. Do đó, các NHTM có vai trò rất
quan trọng đối với thương mại quốc tế khi cung ứng các các dịch vụ TTQT
nhằm làm cho quá trình này diễn ra một cách suôn sẻ. Vậy Thanh toán quốc tế
là gì
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát
sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức
kinh tế, giữa các hãng, các cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu
trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển tiền
hay bù trừ trên các tài khoản tại các Ngân hàng. Căn cứ vào mối quan hệ trong
TTQT, họat động thanh TTQT được chia làm hai loại như sau:
- Thanh toán mậu dịch: là các khoản thanh toán phát sinh trên cơ sở các hợp
đồng thương mại liên quan tới việc mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa
các quốc gia với nhau. Đây là hoạt động chủ yếu trong hoạt động TTQT và là
hoạt động quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển quan hệ thương mại quốc
tế.
- Thanh toán phi mậu dịch: là hoạt động thanh toán không liên quan tới hoạt
động thương mại giữa các quốc gia, hoạt động thanh toán này không nhằm mục
đích thanh toán cho bất kỳ một hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ nào. Hoạt
động thanh toán phi mậu dịch để thực hiện thanh toán trên các lĩnh vực chính
trị, văn hoá, hợp tác khoa học - kỹ thuật, …giữa các quốc gia với nhau.
1.2.2 Vai trò của hoạt động TTQT của NHTM
Ngày nay, trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới, các mối
quan hệ kinh tế quốc tế đang diễn ra hết sức sôi động và kéo theo đó là sự đa
dạng, phức tạp trong hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hoá quốc tế. Chính vì
thế, hoạt động TTQT cũng gặp rất nhiều khó khăn do những trở ngại về vị trí
địa lý, luật pháp mỗi nước…Do đó, phần lớn các doanh nghiệp, tổ chức và cá
nhân không thể tự thực hiện hoạt động TTQT cho mình mà phải nhờ tới vai trò
của các NHTM. Nhờ chức năng làm trung gian thanh toán, các NHTM đã góp
phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và của bản thân Ngân hàng mình,

đồng thời làm cho quá trình thanh toán của khách hàng thêm thuận tiện.
1.2.2.1 Đối với nền kinh tế
Hoạt động TTQT phát triển tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động
thương mại quốc tế giữa các quốc gia. Khi hoạt động TTQT được thực hiện
nhanh chóng, an toàn, chính xác sẽ giúp cho quá trình trao đổi, buôn bán hàng
hoá được thực hiện thuận tiện, dễ dàng hơn. Và điều này sẽ đẩy mạnh hoạt động
sản xuất, lưu thông hàng hoá góp phần phát triển kinh tế.
1.2.2.2 Đối với khách hàng
Nhờ hoạt động TTQT mà các tổ chức và cá nhân thực hiện được các hợp
đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ quốc tế. Trong hoạt động thương mại quốc tế,
các bên tham gia ở các quốc gia khác nhau nên có rất ít hiểu biết về năng lực tài
chính của nhau làm cho quan hệ thương mại rất khó khăn. Nhưng do có sự tham
gia của các NHTM, họ đứng ra bảo lãnh cho các khoản thanh toán trực tiếp
nhận nhiệm vụ thu tiền cho nhà xuất khẩu khiến cho hoạt động xuất nhập khẩu
được tiến hành nhanh chóng hơn. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện hoạt động
thanh toán, các NHTM có thể nhận chiết khấu chứng từ xuất khẩu cho khách
hàng khi khách hàng có nhu cầu vốn ngay.
1.2.2.3 Đối với bản thân Ngân hàng
Họat động TTQT là hoạt động cơ bản và không thể thiếu của NHTM và
được ra đời ngay từ thời gian đầu xuất hiện Ngân hàng. Hoạt động TTQT đem lại
cho Ngân hàng nguồn thu đáng kể từ phí dịch vụ thanh toán, đóng góp không nhỏ
vào lợi nhuận của ngân hàng. Cũng chính nhờ sự phát triển của hoạt động TTQT
giúp cho các NHTM đẩy mạnh các hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu và
các loại hình dịch vụ như: bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ…
Hoạt động TTQT giúp các NHTM mở rộng các mối quan hệ với các
Ngân hàng, các tổ chức quốc tế, qua đó nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị
trường thế giới cũng như đối với khách hàng.Và đã tạo lập được uy tín sẽ giúp
Ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng trong và ngoài nước đến sử dụng
dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác của ngân hàng, tăng khả năng cạnh tranh
của ngân hàng. Hoạt động TTQT cũng giúp thực hiện chức năng làm trung gian

trong TTQT, các NHTM nắm giữ các khoản tiền ký quỹ của khách hàng, các
khoản tiền chưa đến hạn thanh toán, các nguồn vốn tài trợ của các Ngân hàng
nước ngoài, làm tăng vốn tạm thời của ngân hàng.
1.2.3 Các điều kiện TTQT của NHTM
Hoạt động TTQT liên quan tới lợi ích của các tổ chức, cá nhân ở các quốc
gia khác nhau nên đây là hoạt động rất phức tạp do sự khác biệt về ngôn ngữ,
tiền tệ, quy chế của mỗi quốc gia là khác nhau. Do đó, để đảm bảo lợi ích cho
các bên tham gia, việc thanh toán cần phải thoả thuận các vấn đề cụ thể liên
quan tởi quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên khi thực hiện hợp đồng. Những vấn
đề này trở thành các điều kiện trong TTQT, bao gồm:
- Điều kiện về tiền tệ
- Điều kiện về địa điểm
- Điều kiện về thời gian thanh toán
- Điều kiện về phương thức thanh toán
Trong từng trường hợp, những điều kiện này được quy định trong các
điều khoản của các hợp đồng thương mại quốc tế để đảm bảo quyền lợi của các
bên tham gia.
1.2.3.1 Điều kiện về tiền tệ
Do các bên tham gia trong TTQT ở các nước khác nhau nên thường sử
dụng các đồng tiền khác nhau nên các bên phải thoả thuận sử dụng đồng tiền
nào trong thanh toán và quy định các xử lý khi có sự biến động về giá trị của
đồng tiền đó. Việc lựa chọn đồng tiền nào phải được sự đồng ý của cả hai bên
mua – bán. Đồng tiền sử dụng trong TTQT có nhiều cách phân loại khác nhau
căn cứ vào các tiêu thức khác nhau:
- Phân loại theo phạm vi lưu thông của tiền tệ chia thành 3 loại: Tiền tệ thế
giới (World Currency) là Tiền vàng; Tiền tệ quốc tế là tiền của khối nước hay
hiệp định quốc tế (international currency); Tiền tệ quốc gia (National currency)
là tiền tệ của từng nước.
- Phân loại theo hình thức tồn tại của đồng tiền gồm hai loại: Tiền mặt (Cash)
là tiền mặt, tiền kim loại đang tồn tại trong lưu thông của mỗi quốc gia; Tiền tín

dụng (Credit currency) là tiền trên tài khoản, tiền ghi sổ.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng đồng tiền trong thanh toán: Tiền tính toán
(Account currency) và tiền tệ thanh toán (payment currency).
- Căn cứ vào sự chuyển đổi của tiền tệ, chia thành ba loại tiền sau: Tiền tệ tự
do chuyển đổi (Free convertible currency) là những đồng tiền quốc gia có thể
được chuyển đổi tự do ra các đồng tiền khác; Tiền tệ chuyển nhượng
(Transferable currency) là tiền tệ được quyền chuyển nhượng từ người này sang
người khác qua hệ thống tài khoản mở tại Ngân hàng; Tiền tệ song biên
(Clearing currency) là tiền tệ ghi trên tài khoản và không được chuyển dịch sang
tài khoản khác.
Các bên tham gia hợp đồng thương mại quốc tế sẽ phải đàm phán để
quyết định loại tiền sẽ sử dụng để thanh toán, tuy nhiên việc lựa chọn đồng tiền
của nước xuất khẩu; của nước nhập khẩu hay của một nước thứ ba sẽ chịu tác
động của các yếu tố sau:
+ Sự so sánh lực lượng của các bên mua và bán
+ Vị trí của đồng tiền lựa chọn trên thị trường quốc tế
+ Tập quán sử dụng đồng tiền thanh toán trên thế giới
Mặc dù việc TTQT thường chọn các loại tiền mạnh và có xu hướng ổn
định nhưng do sự biến động của thị trường thế giới gây ra những tổn thất cho các
bên tham gia hoạt động thương mại quốc tế: Các khoản thu ngoại hối bị tổn thất do
ngoại hối đó sụt giá hoặc những khoản chi ngoại hối bị tổn thất do ngoại hối đó
tăng giá. Do đó, để hạn chế những tổn thất đó, các bên tham gia thanh toán thoả
thuận với nhau các điều kiện đảm bảo hối đoái nhằm bảo đảm giá trị thực tế của
các khoản thu nhập bằng tiền khi tiền tệ lên xuống thất thường. Các điều kiện đảm
bảo hối đoái thường được áp dụng trong TTQT bao gồm:
- Điều kiện đảm bảo bằng vàng: Từ xưa, vàng đã được coi như là thước đo
của giá trị hàng hoá nên người ta đã sử dụng điều kiện đảm bảo vàng để phòng
tránh những biến động về tỷ giá. Hình thức đơn giản nhất của điều kiện đảm
bảo này là giá cả hàng hoá và tổng giá trị hợp đồng được quy định trực tiếp
bằng một số lượng vàng nhất định. Tuy nhiên, ngày nay hình thức này hầu như

không còn được sử dụng do người ta không sử dụng vàng để thể hiện giá cả và
thanh toán mà thường sử dụng ngoại tệ để thanh toán. Hình thức thường được
áp dụng của điều kiện đảm bảo vàng là giá trị của hàng hoá và tổng giá trị hợp
đồng mua bán được quy định bằng đồng tiền nào đó và xác định trị giá vàng
của đồng tiền này. Giá cả của hàng hoá và tổng trị giá của hợp đồng mua bán phải
được điều chỉnh theo giá trị vàng của đồng tiền đó.
- Điều kiện đảm bảo ngoại hối: Tức là hai bên sẽ lựa chọn một đồng tiền
tương đối ổn định và xác định mói quan hệ tỷ giá với đồng tiền được lựa chọn
thanh toán để đảm bảo giá trị của đồng tiền thanh toán. Tuy nhiên, trong trường
hợp hai đồng tiền cùng sụt giá, hay cùng lên giá thì điều kiện đảm bảo hối đoái
sẽ mất tác dụng.
- Điều kiện đảm bảo theo “rổ” tiền tệ: Trong điều kiện hiện nay, tỷ giá trên thị
trường thế giới thường xuyên biến động, bị “thả nổi” và không chịu tác động bởi
hàm lượng vàng của tiền tệ nên việc áp dụng các điều kiện đảm bảo hối đoái
không phát huy được tác dụng. Do đó, người ta thường lựa chọn một loạt ngoại tệ
để đảm bảo giá trị cho đồng tiền được sử dụng trong thanh toán gọi là cách đảm
bảo hối đoái theo “rổ” tiền tệ. Vấn đề quan trọng khi sử dụng phương pháp này là
các bên phải thoả thuận số lượng ngoại tệ đưa vào “rổ” và cách lấy tỷ giá trung
bình của cả “rổ” ngoại tệ này với tổng tiền dùng để thanh toán.
- Điều kiện đảm bảo căn cứ vào tiền tệ quốc tế: SDR, ECU
Khi sử dụng phương pháp này, tổng trị giá hợp đồng được tính toán và
thanh toán bằng một ngoại tệ nào đó và lựa chọn SDR (hay ECU) để đảm bảo
cho đồng tiền thanh toán. Căn cứ vào chênh lệch giữa tỷ giá của SDR (hay
ECU) và đồng tiền sử dụng trong hợp đồng vào ngày thanh toán so với ngày ký
hợp đồng để điều chỉnh tổng trị giá của hợp đồng.
1.2.3.2 Điều kiện về địa điểm thanh toán
Các bên thoả thuận với nhau về địa điểm thanh toán trong hợp đồng
thương mại quốc tế để quy định nghĩa vụ thanh toán tiền sẽ được trả tiền ở đâu.
Do các nước xuất khẩu và nhập khẩu thường có vị trí cách xa nhau nên việc lựa
chọn địa điểm thanh toán cũng rất quan trọng vì nếu bên nào giành được quyền

thanh toán ở nước mình sẽ có những lợi thế như: Đỡ bị đọng vốn do đến ngày
trả tiền mới phải chi tiền ra và có thể thu tiền về nhanh chóng nếu thanh toán ở
nước xuất khẩu; tạo điều kiện thu được phí nghiệp vụ cho Ngân hàng nước
mình; ngoài ra còn có thể tạo điều kiện nâng cao được địa vị của thị trường tiền
tệ nước mình trên thị trường tiền tệ thế giới.
Việc xem xét, lựa chọn địa điểm thanh toán chịu tác động của nhiều
nhân tố như: Tương quan lực lượng của các bên, ngoài ra còn chịu chi phối của
việc lựa chọn đồng tiền trong thanh toán vì thế địa điểm thanh toán được lựa
chọn có thể là nước xuất khẩu, nhập khẩu hay ở nước thứ ba có đồng tiền sử
dụng thanh toán.
1.2.3.3. Điều kiện về thời gian thanh toán
Điều kiện này quy định về thời hạn mà bên nhập khẩu phải trả tiền cho
bên xuất khẩu, thời gian thanh toán ảnh hưởng tới việc luân chuyển vốn, lợi tức,
những rủi ro về tỷ giá hối đoái, lãi suất, vì thế đây là vấn đề quan trọng và
thường xảy ra tranh chấp giữa các bên trong các hợp đồng thương mại quốc tế.
Điều kiện về thời gian thanh toán thường có ba cách sau:
- Thời gian trả tiền trước: Hình thức này được sử dụng với mục đích để cấp
tin dụng ngắn hạn cho người xuất khẩu hoặc nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng
của người nhập khẩu, khi đó bên nhập khẩu trả cho bên xuất khẩu toàn bộ hay
một phần số tiền hàng sau khi ký hợp đồng hoặc sau khi bên xuất khẩu chấp
nhận đơn đặt hàng của bên nhập khẩu nhưng trước khi giao hàng. Có hai loại trả
tiền trước gồm: Người mua trả tiền trước cho người bán x ngày kể từ sau ngày
ký hợp đồng hoặc sau ngày hợp đồng có hiệu lực và Người mua trả tiền trước
cho người bán x ngày trước ngày giao hàng.
- Thời gian trả ngay: Là cách trả tiền khi toàn bộ giá trị hàng hoá được thanh
toán trong khoảng thời gian từ lúc chuẩn bị xong hàng để bốc lên tàu cho đến khi
hàng đến tau người nhập khẩu. Có 5 loại được coi là trả tiền ngay:
+ Người nhập khẩu trả tiền cho bên xuất khẩu ngay sau khi người nhận
được điện báo của người xuất khẩu là hàng đã sẵn sàng bốc lên tàu trở đi (Cash
on Delivery)

+ Người nhập khẩu trả tiền ngay cho người xuất khẩu khi nhận được
điện báo của thuyền trưởng là hàng đã bốc xong lên tàu tại cảng đi (C.O.B –
Cash on Board)
+ Người nhập khẩu trả tiền ngay sau khi nhận được bộ chứng từ, hàng
hoá đã gửi (D/P – Documents Against Payment)
+ Người nhập khẩu trả tiền ngay sau khi nhận được bộ chứng từ hàng
hoá vài ngày (5-7 ngày)
+ Người nhập khẩu trả tiền sau khi nhận hàng hoá tại cảng đến (C.O.R –
Cash on Receipt)
- Thời gian trả tiền sau: Theo hình thức này, người nhập khẩu trả tiền cho
xuất khẩu sau khi giao hàng một thời gian nhất định, bản chất là việc cấp tín
dụng cho người nhập khẩu của người xuất khẩu. Cách trả tiền này được sử dụng
để hỗ trợ cho người nhập khẩu có điều kiện mua nhiều hàng hoá và giúp cho

×