Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Lý luận chung về hoạt động cho vay đối với DN vừa và nhỏ của NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.34 KB, 24 trang )

1/. Lý luận chung về hoạt động cho vay đối với
DN vừa và nhỏ của NHTM.
1.1/. Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trước tiên để hiểu về doanh nghiệp vừa và nhỏ chúng ta cần tìm hiểu khái niệm
doanh nghiệp như thế nào. Xuất phát từ các mục đích nhu cầu khác nhau, người
ta có quan niệm khác nhau về doanh nghiệp. Theo điều 3 - Luật doanh nghiệp
năm 2000 “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại doanh nghiệp, khi đề cập đến các
DNV&N là đề cập đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay qui mô
của doanh nghiệp. Mỗi quốc gia khác nhau có đặc điểm kinh tế khác nhau và
những đặc trưng riêng biệt nên khái niệm về DNV&N không thể đồng nhất. Do
vậy họ sử dụng các tiêu chí khác nhau để phân loại thế nào một doanh nghiệp là
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặt khác, ngay trong một quốc gia, tại các thời điểm,
môi trường kinh tế khác nhau mà khái niệm về DNV&N cũng có sự khác nhau.
Chính vì vậy, khái niệm DNV&N chỉ mang tính chất tương đối, nó thay đổi
theo từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định. Một số quốc gia việc
phân loại này chỉ dựa trên số lượng nhân viên (ít hơn hay bằng 250 nhân viên).
Một số nước khác sử dụng chỉ tiêu mức Doanh thu hàng năm, và một số nước
khác sử dụng các tiêu chí khác nhau đối với các ngành khác nhau.
Ví dụ một số khái niệm DNV&N ở một số nước trên thế giới như tại Malaysia
doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có ít hơn 75 công nhân viên, không
kể những người làm bán thời gian hoặc có vốn cổ phần không quá 1 triệu USD.
Tại Nhật Bản:
Các doanh nghiệp vừa
Khu vực Quy mô lao động/Vốn
Sản xuất, khai thác và chế biến <300 người/100 triệu Yên
Ngành bán buôn <100 người/30 triệu Yên
Bán lẻ và dịch vụ <50 người/10 triệu Yên


Các doanh nghiệp nhỏ
Khu vực Quy mô lao động/Vốn
Sản xuất <20 người
Thương mại và dịch vụ <5 người
Ở Việt Nam theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về
trợ giúp phát triển DNV&N đưa ra tiêu chí phân loại DNV&N như sau “Doanh
nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao
động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Từ khái niệm này cho thấy,
tuyệt đại đa số doanh nghiệp của chúng ta nằm trong “bảng”. Để hiểu rõ hơn về
DNV&N cần biết những đặc điểm nổi bật của nó trong phần tiếp sau đây.
1.1.2. Những đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đặc điểm về cơ cấu tổ chức.
Các DNV&N có những đặc thù riêng về cơ cấu tổ chức đó là qui mô doanh
nghiệp nhỏ, cơ cấu tổ chức giản đơn, phân tán, khả năng tổ chức liên kết với
nhau và với các doanh nghiệp lớn kém. Quan hệ giữa những người lao động
trong doanh nghiệp cũng chặt chẽ theo địa phương, họ hàng gia đình…
Thông thường ở các DNV&N số lượng nhân viên ít, các nhân viên đôi khi đảm
nhận nhiều công việc cùng một lúc. Phần lớn các nhà kinh doanh trong
DNV&N đảm nhận luôn vị trí của nhà quản trị.
Đại đa số các loại hình DNV&N mang tính chất sở hữu tư nhân dưới hình thức
công ty TNHH, Doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp vốn nước ngoài…
1.1.3. Đặc điểm về thị trường:
Có được chỗ đứng trong thị trường hay thị phần kinh doanh là điều kiện tối
quan trọng để bất cứ một doanh nghiệp nào tồn tại và phát triển. Chiếm thị phần
nhỏ nhưng các DNV&N vẫn giữ vai trò quan trọng không thể thiếu trong cơ chế
thị trường.
Những đặc thù về cơ cấu tổ chức đã tạo cho những DNV&N có tính nhạy cảm
cao đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, linh hoạt ứng phó nhanh với nhu cầu

thị trường nhất là những nhu cầu nhỏ lẻ có tính khu vực, địa phương. DNV&N
có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh, tăng
giảm lao động dễ dàng và thậm chí chuyển địa điểm cũng dễ dàng hơn các
doanh nghiệp lớn. Hơn nữa các DNV&N có khả năng chấp nhận rủi ro, mạo
hiểm có thể xảy ra nên chủ doanh nghiệp có thể mạnh dạn đầu tư vào các ngành
mới, sản phẩm mới và tìm cách chiếm lĩnh thị trường.
Các DNV&N trợ giúp các doanh nghiệp lớn trong sản xuất kinh doanh, tiêu thụ
hàng hóa, phân phối sản phẩm đáp ứng nhu cầu về hàng hoá tiêu dùng và 1
phần cho xuất khẩu
Đặc điểm về nhu cầu tài chính của DNV&N:
Đối với tất cả các doanh nghiệp nói chung và với DNV&N nói riêng vốn là điều
kiện tiên quyết để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như để phát triển.
Thông thường nguồn vốn này bao gồm vốn tự có, vốn đi vay của bạn bè, người
thân và các nguồn vốn vay ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác. Nguồn vốn
đáp ứng cho DNV&N gồm vốn tự có, nguồn vốn phi chính thức và nguồn chính
thức. Cũng hợp lý khi cho rằng nguồn tài trợ chính cho khu vực này là các ngân
hàng thương mại. Không may, vì các lý do sau đây điều này thường không
đúng. Về vấn đề tiếp cận các nguồn vốn, vấn đề “đầu tiên” có ý nghĩa quyết
định, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp khó khăn không nhỏ, nhất là các
khoản vay trung hạn, dài hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
Đặc biệt, các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các DNV&N ; việc
đầu tư vào khu vực DNV&N, do nhận thức chưa thông thoáng, cho nên bị hạn
chế rất nhiều. Thông thường sự phát triển của khu vực này được thúc đẩy bởi
hạn mức tín dụng do các tổ chức nước ngoài cấp.
Một số trường hợp, DNV&N được hỗ trợ bởi các chương trình đặc biệt của
chính phủ ví dụ như bảo lãnh tín dụng. Nhu cầu tài chính của DNV&N thường
thuộc 2 loại sau:
o Chi phí vốn – Nhà xưởng và thiết bị;
o Vốn lưu động
Nhu cầu vốn kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn bao gồm cả

ngắn hạn và dài hạn. Nhu cầu vốn ngắn hạn xuất hiện mang tính thời vụ của
hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt đối với các doanh nghiệp chuyên sản
xuất hay cung ứng một sản phẩm nhất định trong thời gian thường là cố định
trong năm.Các khoản vay ngắn hạn chủ yếu dựa trên những hợp đồng tiêu thụ
sẵn, hoặc các hợp đồng cung cấp đã ký. Quy mô khoản vay thường không lớn
nhưng các DNV&N thường vay nhiều lần với thời gian ngắn. Vốn dài hạn dùng
để tài trợ tài sản cố định và mở rộng sản xuất. Hầu hết các doanh nghiệp đều
muốn mở rộng quy mô hoạt động để trở thành các doanh nghiệp lớn hơn.Trong
những năm gần đây tổng dư nợ đối với các DNV&N đã tăng lên nhưng vẫn còn
ở mức khiêm tốn.
Ưu điểm nổi bật:
Các DNV&N có khả năng đổi mới công nghệ và khả năng chuyển hướng sản
xuất nhanh hơn các doanh nghiệp lớn. Họ có thể đầu tư ít vốn nhưng vẫn có khả
năng trang bị công nghệ mới và tương đối hiện đại do vậy thường đạt năng suất
và chất lượng cao.Các DNV&N không cần diện tích đất quá lớn để sản xuất tập
trung và có khả năng sản xuất phân tán. Do vậy đầu tư ban đầu cho cơ sở vật
chất của các doanh nghiệp này cũng không quá tốn kém, tận dụng được nguồn
lực phân tán, tạo tính linh hoạt cao trong tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý kinh
doanh, các quyết định quản lý được thực hiện nhanh, từ đó góp phần vào tiết
kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp.
Khi gặp những biến động trở ngại trong sản xuất kinh doanh, DNV&N có khả
năng chuyển hướng sản xuất nhanh mà các doanh nghiệp lớn không làm được.
Mặt khác hiệu quả kinh tế cao, vốn thu hồi nhanh, tạo ra sự hấp dẫn trong đầu
tư sản xuất kinh doanh của nhiều cá nhân ở mọi thành phần kinh tế đầu tư vào
khu vực này.
DNV&N tạo điều kiện tự do duy trì cạnh tranh, hoạt động với số lượng đông
đảo, thường không có tình trạng độc quyền, dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự
do cạnh tranh. Các DNV&N có tính tự chủ cao, không ỷ lại vào sự giúp đỡ của
Nhà nước và vì mưu lợi các doanh nghiệp sẵn sàng khai thác cơ hội để phát
triển mà không ngại rủi ro. Các DNV&N buộc phải duy trì phát triển nếu không

sẽ bị phá sản. Chính điều đó làm cho nền kinh tế sôi động và thúc đẩy việc sử
dụng tối đa các tiềm năng của đất nước.
Một số hạn chế của DNV&N:
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật trên đây, các DNV&N còn bộc lộ một số
những hạn chế nhất định. Thứ nhất là nguồn tài chính bị hạn chế, nhất là nguồn
dùng để mở rộng qui mô doanh nghiệp, do vậy để đáp ứng nhu cầu tín dụng của
mình các DNV&N vay vốn chủ yếu từ các tổ chức phi chính phủ, lãi suất cho
vay cao hơn nhiều so với vay ngân hàng, không thể đáp ứng được nhu cầu tín
dụng của mình
Thứ hai công nghệ được sử dụng trong DNV&N hầu hết vẫn còn lạc hậu, cơ sở
sản xuất, trang thiết bị kỹ thuật còn yếu kém. Hơn nữa họ lại ít có khả năng huy
động vốn để đầu tư đổi mới công nghệ.
Thứ ba hiện nay đa số các DNV&N hoạt động có hiệu quả mong muốn mở rộng
sản xuất kinh doanh đều nằm trong tình trạng thiếu đất để làm mặt bằng. Việc
xin cấp đất, hoặc thuê đất của DNV&N bị cản trở bởi hồ sơ, thủ tục khá phức
tạp. Tất nhiên có một số địa phương tạo điều kiện tương đối thuận lợi, nhưng đó
chỉ là số ít. Trước sức ép của thời buổi “tấc đất tấc vàng”, có chủ doanh nghiệp
đã phải thốt lên: “Nghĩ đến chuyện xin cấp đất, thuế đất tôi như nhìn thấy trên
con đường có những tấm rào không thể vượt qua”. Làm con đường, chỉ cho
người ta đích nhưng lại xây rào quá dày, quá cao thì còn nói chuyện gì nữa”.
Thứ tư sức cạnh tranh còn thấp do tiềm lực tài chính nhỏ, thường bị động trong
các quan hệ thị trường, khả năng tiếp thị kém. Chính vì vậy, vị thế của các
doanh nghiệp này trên thị trường còn thấp.
Thứ năm là khả năng hạn hẹp trong đào tạo nhân lực & cải tiến công nghệ, trình
độ quản lý nói chung bị hạn chế, ít được đào tạo cơ bản, ít có khả năng thuê
chuyên gia cao cấp.
Thứ sáu là các DNV&N thường gặp nhiều khó khăn trong việc thiết lập và mở
rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài. Trong quá trình hoạt động các doanh
nghiệp này còn bộc lộ nhiều yếu kém: trốn lậu thuế, một số doanh nghiệp trốn
đăng kí kinh doanh hoặc đăng kí kinh doanh không đúng ngành nghề, làm hàng

giả, hàng dởm, hoạt động phân tán khó quản lý.
Thứ bảy là các DNV&N trong một số trường hợp thường bị động vì phụ thuộc
vào xu hướng phát triển của các doanh nghiệp lớn và tồn tại như một bộ phận
của doanh nghiệp lớn.
Đặc điểm của DNV&N ở Việt Nam:
Do những lợi thế nhờ quy mô đem lại nên trong nền kinh tế doanh nghiệp lớn
thường đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, để cho nền kinh tế phát triển một cách
cân đối, toàn diện và bền vững, thì cần phải có các DNV&N. Các DNV&N ở
Việt Nam ra đời từ rất sớm, được hình thành cùng với nghề thủ công, làng nghề
truyền thống ở nông thôn. Ngoài mang những đặc điểm chung trên đây của
DNV&N, DNV&N ở Việt Nam còn có một số đặc điểm riêng, và những hạn
chế nội tại sau.
Trước tiên, các DNV&N ở nước ta tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau: công
ty TNHH, công ty cổ phần, công ty liên doanh, các doanh nghiệp tư nhân…Các
doanh nghiệp này đều có trình độ khoa học công nghệ chủ yếu vẫn ở mức thấp
và chậm tiến bộ so với các nước khác trong khu vực. Tình trạng máy móc thiết
bị cũ, công nghệ lạc hậu đã và đang là nguyên nhân chính của tình trạng lãng
phí trong sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu và ô nhiễm môi trường, đặc biệt
là trong sản xuất công nghiệp. Ngay như đối với các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực dệt là lĩnh vực có nhiều khả năng đổi mới công nghệ những vẫn
còn gần 50% thiết bị dệt đã sử dụng trên 20 năm và hầu như đã hết khấu hao,
80% số máy dệt là máy dệt thoi khổ hẹp nên chất lượng hàng dệt thấp hơn nhiều
so với tiêu chuẩn quốc tế, mới đáp ứng được khoảng 30% nguyên liệu cho may
xuất khẩu. Đối với ngành may mặc, thiết bị máy móc của ta lạc hậu từ 5 -7 năm,
phần mềm điều khiển lạc hậu từ 15 - 20 năm so với các nước Thái Lan, Trung
Quốc. Một bộ phận lớn các DNV&N ở Việt Nam nằm ở các làng nghề, vùng
truyền thống nên nó có tính độc đáo và sản phẩm dễ phù hợp với thị trường xuất
khẩu như nghề mây tre nan, dệt thổ cẩm, thêu ren…
Thứ hai là tỷ lệ lao động được đào tạo còn thấp hầu như chưa qua đào tạo… Do
vậy không đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa. Thậm chí còn có hiện tượng

khan hiếm lao động dẫn đến tình trạng tranh giành lao động có chất lượng tại
các trung tâm công nghiệp. Người lao động chưa được đào tạo và chuẩn bị tốt
về tác phong công nghiệp nên thường phải đào tạo lại để đáp ứng yêu cầu của
doanh nghiệp... Điều đó làm tăng đáng kể chi phí về sử dụng lao động. Trong
khi đó, nhiều doanh nghiệp còn có chưa quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng lao
động.
Thứ ba năng lực và hiệu quả quản lý doanh nghiệp nhìn chung còn thấp, không
ít doanh nghiệp chưa xây dựng nôi quy, chưa thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các
quyền dân chủ cổ đông, của người góp vốn… Các doanh nhân, các nhà quản lý
doanh nghiệp còn chưa được đào tạo, chỉ có khoảng hơn 30% chủ doanh nghiệp
có bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên, nên còn thiếu hiểu biết đầy đủ để quản lý
doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Một số doanh nghiệp có
vị thế độc quyền chậm cải tiến quản lý, hạ giá thành, minh bạch đối với khách
hàng cũng như trong nội bộ doanh nghiệp. Luật phá sản doanh nghiệp không
phát huy được tác dụng đào thải các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản,
làm ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh, làm cho mức độ rủi ro trong
kinh doanh cao, tổ chức sản xuất chưa hợp lý (ví dụ như ngành may mới chỉ huy
động được khoảng 60% năng lực máy móc thiết bị hiện có).
Thứ tư năng lực thị trường của các doanh nghiệp còn yếu, không có chiến lược
sản xuất kinh doanh dài hạn cũng như chưa có kế hoạch chi tiết dài hạn về phát
triển thị trường, thiếu hiểu biết đầy đủ pháp luật về thương mại quốc tế và các
nước… Nhiều doanh nghiệp chưa xây dựng được chiến lược kinh doanh, chưa
tiến hành nghiên cứu thị trường nên không biết rõ về khách hàng và các đối thủ
cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Khả năng thiết kế và triển khai
tạo mẫu mã sản phẩm còn yếu, sức cạnh tranh của sản phẩm chưa cao, tính rủi
ro còn nhiều. Vì vậy, khả năng xuất khẩu trực tiếp còn hạn chế và thường phải
xuất khẩu gián tiếp qua nước thứ 3. Do chưa nhận rõ vai trò của thương hiệu
nên hầu hết các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc xây dựng và bảo hộ
thương hiệu. Những năm gần đây, số doanh nghiệp đăng ký thương hiệu Việt
Nam tuy có tăng nhưng vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với số doanh nghiệp hoạt

động sản xuất kinh doanh trong thực tế.Trong số 100000 nhãn hiệu được bảo hộ
ở nước ta thì số doanh nghiệp trong nước đăng ký chỉ chiếm có 20%. Năm 2001
chỉ có 2085 nhãn hiệu trong nước được đăng ký trong khi đến năm 1999 đã có
25000 nhãn hiệu nước ngoài đăng ký ở Việt Nam. Theo kết quả thăm dò, trong
số các doanh nghiệp được hỏi có đến 74% các doanh nghiệp đầu tư dưới 5%
cho thương hiệu, 20% số doanh nghiệp không hề chi cho việc xây dựng thương
hiệu. Tình trạng đó dẫn đến những thua thiệt lớn của một số doanh nghiệp kinh
doanh xuất khẩu trên thị trường nước ngoài, chỉ đến khi các thượng hiệu có tên
tuổi của ta đứng trước nguy cơ bị mất nhãn hiệu, bị “đăng ký” mất tại một số
nước trên thế giới thì các doanh nghiệp Việt Nam mới bừng tỉnh. Ví dụ như các
nhãn hiệu: Petro, Trung Nguyên bị lấy mất tên ở Mỹ, Vinataba bị mất tên ở
Campuchia…
Số lượng DNVVN chiếm trên 90% trong tổng số DN, song tổng số vốn cho sản
xuất, kinh doanh mới chỉ bằng 30% so với tổng vốn của các doanh nghiệp trong
cả nước. Điều này một mặt phản ánh khả năng thu hút vốn vào sản xuất, kinh
doanh của các DNVVN còn thấp, mặt khác cho thấy các DNVVN chưa được
quan tâm đầu tư vốn để mở rộng sản xuất. DNVVN giải quyết nhu cầu vốn chủ
yếu dựa vào thị trường tài chính phi chính thức, ít tiếp cận được các nguồn tín
dụng chính thức thông qua các tổ chức tín dụng do hạn chế về tài sản đảm bảo
và thiếu các điều kiện khác.
Một vấn đề khác nữa cũng hay được nhắc khi nói tới các DNV&N của chúng ta
là, thường phải chịu thiệt thòi, phải gánh chịu những thông lệ và điều kiện cạnh
tranh không bình đẳng ở thị trường trong nước; khả năng tiếp xúc thương mại,
tiếp cận với thị trường trong nước và quốc tế rất khó khăn; điều kiện tiếp cận
với thông tin về văn bản, pháp luật, thị trường, tiến bộ công nghệ... còn tản mạn
và hạn chế.
Trên đây là một số những hạn chế của các DNV&N nói chung và DNV&N ở
Việt Nam nói riêng. Xác định tầm quan trọng của DNV&N đối với phát triển
kinh tế đất nước theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 5 năm trở lại đây, Chính
phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu

quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình kinh tế này,
trong nhiều năm qua, thông qua nhiều cải cách về cơ chế, chính sách, Nhà nước
ta đã khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho DNVVN phát triển. Có thể
thấy rõ, hệ thống pháp luật, môi trường kinh doanh đang dần được cải thiện và
ngày càng có chuyển động tích cực. Các DNV&N ngày càng được hưởng nhiều
chính sách ưu đãi và bình đẳng hơn, tình trạng phân biệt, đối xử so với các
DNNN giảm nhiều. Đặc biệt, ở một số yếu tố quan trọng, có tính chất sống còn
với sự tồn tại và phát triển của các DNV&N như việc tiếp cận với các nguồn
vốn, công nghệ, đất đai, lao động, thông tin thị trường đã được mở thông thoáng
hơn rất nhiều so với những năm trước đây. Đó là các Luật điều chỉnh như Luật
Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Hợp tác xã… và các văn bản
dưới luật như Nghị định số 02/2000/NĐ- CP; Nghị định số 90/2001 NĐ-CP
ngày 23/11/2001 đã định nghĩa rõ loại hình DNVVN cũng như nêu rõ những

×