Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

GIảI PHáP nhằm đẩy mạnh hoạt động TíN DụNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.47 KB, 20 trang )

GIảI PHáP nhằm đẩy mạnh hoạt động TíN DụNG
ĐốI VớI CHươNG TRìNH XOá ĐóI GIảM NGHèO
CủA NHNo & PTNT TỉNH HOà BìNH
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH HOÀ BÌNH TỪ NAY ĐẾN
NĂM 2005 VÀ MỐI QUAN HÊ VỚI “XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO”:
1. Định hướng chung về phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu xoá đói giảm
nghèo giai đoạn 2000 - 2005:
1.1. Định hướng chung về phát triển kinh tế - xã hội:
Do xuất phát điểm cho sự phát triến kinh tế - xã hội của tỉnh Hoà Bình
thấp, nên cần phấn đấu để có tốc độ cao hơn tránh tụt hậu so với các tỉnh miền
núi phía Bắc và tạo điều kiện sau một số năm đạt ngang với tốc độ phát triển
chung của toàn quốc. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện
mục tiêu chương trình xoá đói giảm nghèo được xác định như sau:
Một là: Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản
xuất hàng hoá đem lại hiệu quả kinh tế cao. Đây là việc làm thiết thực góp
phần đưa nông nghiệp tiến nhanh và vững chắc, tạo tiền đề để phát triển
công nghiệp chế biến, áp dụng công nghệ sinh học và đưa nhanh tiến bộ
khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, chế biến... Cần có quy hoạch tổng thể và
quy hoạch đất đai trên địa bàn tỉnh để xác định từng vùng trồng cây gì, nuôi
con gì cho thích hợp. Xác định các vùng chuyên canh, vùng kinh tế và có
hướng tiêu thụ sản phẩm. Có chủ trương, chính sách và biện pháp thích hợp
đối với vùng cao, vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện để các vùng đó phát triển,
xoá đói giảm nghèo.
Hai là: Xây dựng các mô hình kinh tế hộ cho phù hợp với cơ chế mới,
khuyến khích kinh tế hộ phát triển theo mô hình V.A.C, mô hình trang trại nông
- lâm kết hợp. Đổi mới các hợp tác xã theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ
VIII của Đảng: “Đổi mới và phát triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác từ
thấp đến cao, triển khai thực hiện luật hợp tác xã”. Mục tiêu chủ yếu của hợp
tác xã giai đoạn đầu là làm dịch vụ cho kinh tế hộ phát triển như cây, con
giống, hướng dẫn sản xuất, giải quyết đầu ra. Sự phát triển của kinh tế hộ theo
quy hoạch sẽ tạo cơ sở hình thành các vùng nguyên liệu lớn, tập trung phục vụ


yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực tế cho thấy, nếu thiếu người
hướng dẫn sản xuất (hợp tác xã) thì kinh tế hộ dễ phát triển theo hướng phân
tán, manh mún, tự cấp, tự túc.
Ba là: Phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp gắn với vùng
nguyên liệu, xây dựng các xí nghiệp quy mô nhỏ và vừa, nhằm khai thác tiềm
năng kinh tế trên địa bàn tỉnh. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của vùng kinh tế mà
xây dựng các loại hình xí nghiệp cho phù hợp với thực tế của địa phương.
Muốn cạnh tranh được trên thị trường thì công nghệ phải tiên tiến, mẫu mã
bao bì phải đẹp, hấp dẫn được người tiêu dùng. Cho nên, việc mở rộng các
doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh phải tính toán kỹ cả hiệu quả kinh tế
và xã hội. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng hình thành các vùng kinh tế là tiền
đề cho việc xây dựng các nhà máy chế biến, đáp ứng từng bước chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trên địa bàn. Về tiểu thủ công nghiệp, cần đẩy mạnh việc phát triển
ngành nghề để khai thác nguyên liệu sẵn có trên địa bàn. Từng bước xây dựng
và khôi phục lại các làng nghề truyền thống mây tre đan, dệt thổ cẩm, chế biến
nông - lâm sản phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Để có được làng nghề, cần có
thời gian và chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao tay nghề, có chính
sách kinh tế thực sự khuyến khích người lao động, coi trọng sử dụng các nghệ
nhân “bàn tay vàng” tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị thẩm mỹ cao và giá trị
xuất khẩu lớn.
Bốn là: Mở rộng dịch vụ du lịch trên địa bàn, tạo nguồn thu cho Ngân
sách. Hoà Bình có nhiều danh lam thắng cảnh, có tiềm năng du lịch lớn và có
nền văn hoá dân tộc cổ truyền phong phú nhưng chưa được khai thác và đầu
tư thích đáng. Du khách đến từ nhiều nơi thường lên thăm nhà máy thuỷ điện
Hoà Bình, xem văn hoá Mường, Thái và các dân tộc khác. Khách đến đông
nhưng dừng chân nghỉ lại Hoà Bình còn ít vì cơ sở hạ tầng yếu kém. Những
khách sạn ở Hoà Bình chưa hấp dẫn du khách vì trang thiết bị và các dịch vụ
chưa đồng bộ. Muốn đáp ứng dược yêu cầu của du khách trong điều kiện hiện
nay, các khách sạn của Hoà Bình cần được nâng cấp. Mặt khác, việc xây dựng
làng du lịch nhà sàn, làng văn hoá, du lịch sinh thái cũng cần được phát triển

đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách trong và ngoài nước.
Năm là: Coi trọng công tác giao đất, giao rừng, khoán rừng, bảo vệ rừng
đầu nguồn, rừng phòng hộ trên địa ban tỉnh, hoàn chỉnh xong việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân. Làm tốt công tác quy hoạch,
trồng mới, bảo vệ và tu bổ ba loại rừng: Rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng
sản xuất và có biện pháp quản lý và sử dụng hợp lý. Xây dựng mô hình kinh tế
gia đình theo hướng nông - lâm kết hợp, hình thành các chủ trang trại lớn làm
giàu cho gia đình và xã hội bằng chính nghề rừng.
Sáu là: Coi trọng việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phấn đấu 100% xã
có đường ô tô đến xã, xây dựng lưới điện, nước sạch, trường, trạm, chợ, các
“cụm xã”, các trung tâm kinh tế. Mặt khác, coi trọng bố trí gọn các khu dân cư
quá phân tán để quy hoạch vùng kinh tế, sử dụng cơ sở hạ tầng nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Bảy là: Tăng cường công tác xây dựng Đảng và đào tạo đội ngũ cán bộ,
đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ mới. Muốn thực hiện được các mục tiêu kinh tế -
xã hội do Đại hội lần thứ VII Đảng bộ tỉnh đề ra, cần thực hiện nhiệm vụ then
chốt là đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ở địa phương nhằm đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ nắm
được khoa học công nghệ, đủ sức giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra,
khắc phục tình trạng đội ngũ cán bộ xã, thôn bản yếu kém. Đào tạo các trí thức
người dân tộc phục vụ ngay trên địa bàn là hiệu quả nhất, có tính bền vững
nhất. Muốn vậy, cần phải mở thêm các trường dân tộc nội trú để đào tạo con
em các dân tộc vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Đây chính là nguồn bổ xung cán bộ
trực tiếp cho các vùng này.
1.2. Mục tiêu của chương trình xoá đói giảm nghèo:
a. Chủ trương - phương hướng:
Tiếp tục làm chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trong cấp uỷ, Chính
quyền và các tổ chức đoàn thể cũng như nhân dân các dân tộc trong tỉnh về
chủ trương XĐGN của Đảng và Nhà nước. XĐGN là trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân và của các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở, cộng đồng.

XĐGN đòi hỏi phải phát triển về nguồn lực, tạo vốn, tạo tư liệu sản xuất
đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác XĐGN có đủ trình độ khoa học kỹ thuật để
có đủ điều kiện, khả năng chuyển giao công nghệ khoa học cho những hộ đói
nghèo tăng cường khả năng sản xuất và kiến thức làm ăn.
- Ưu tiên các nguồn lực về XĐGN cho các hộ đói nghèo ở vùng cao, vùng
sâu đặc biệt là các hộ nghèo thuộc diện chính sách.
- Các địa phương, các ngành, các tổ chức đoàn thể phải xây dựng nội dung
chương trình XĐGN cho cấp mình, ngành mình và có kế hoạch triển khai thực
hiện các mục tiêu đề ra.
- Phải lồng ghép chặt chẽ giữa chương trình XĐGN với các chương trình
kinh tế - xã hội khác, có sự chỉ đạo thống nhất thông qua hệ thống tổ chức của
Ban chỉ đạo XĐGN từ tỉnh đến xã, phường, thị trấn một cách cụ thể.
- Xây dựng mô hình huyện, xã, thôn, hộ gia đình làm công tác XĐGN để từ
đó rút kinh nghiệm nhân diện rộng.
b. Chỉ tiêu:
- Không còn hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn dưới 10% vào năm
2005.
- Mỗi năm mỗi huyện giảm từ 1 đến 2 xã nghèo. Phấn đấu đến hết năm
2005 xóa xong xã nghèo.
- Tỷ trọng cơ cấu kinh tế đến năm 2005 theo xu thế: Nông, lâm, ngư
nghiệp: 44 - 46%; xây dựng cơ bản: 22 - 23%; các ngành dịch vụ: 32 - 33%.
2. Định hướng hoạt động tín dụng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn tỉnh Hoà Bình nhằm thực hiên mục tiêu chương trình xoá đói
giảm nghèo giai đoạn 2001:
2.1. Đối với cho vay hộ sản xuất:
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu chương trình xoá đói giảm nghèo do
Đảng và Nhà nước đề ra, ngành Ngân hàng nói chung đóng một vị trí quan
trọng trong việc giải quyết vấn đề này. Với mục tiêu đề ra của tỉnh, Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hoà Bình cần có những định hướng
cụ thể sau:

* Định huớng:
Một là: Huy động mọi nguồn tiền tệ nhàn rỗi để đầu tư cho hộ sản xuất
nói chung và hộ nghèo nói riêng.
Hai là: Ưu tiên vốn cho vay cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng
hoá, vùng chuyên canh tập trung, chú trọng cho vay các đối tượng khác. Đồng
thời cho vay khôi phục và mở rộng các ngành nghề thủ công, mây tre đan, dệt
thổ cẩm có tính chất hàng hoá. Cho vay để khôi phục một số loại cây trồng có
hiệu quả kinh tế trước đây như mía tím, đậu tương, lạc... ở một số vùng thuận
lợi.
Ba là: Ưu tiên những vùng sản xuất hàng hoá tập trung.
Bốn là: Khuyến khích đầu tư phát triển các mô hình kinh tế trang trại,
kinh tế hợp tác...
Năm là: Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra,
phúc tra ở các Ngân hàng cơ sở nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và hạn
chế những tồn tại mới phát sinh.
*Mục tiêu:
- Nguồn vốn tăng trưởng 20 - 25%.
- Dư nợ cho vay hộ sản xuất và hợp tác xã tăng 20%.
- Tỷ trọng tín dụng trung, dài hạn chiếm 45% tổng dư nợ.
- Thực hiện tốt việc cho vay từ nguồn vốn của các dự án tài trợ của nước
ngoài và làm dịch vụ tốt cho NHNg.
- Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 2%.
2.2. Định hướng trong hoạt động của NH phục vụ người nghèo:
Một là: Tiếp tục củng cố bộ máy tổ chức NHNg từ tỉnh
xuống huyện.
Hai là: Tranh thủ sự hỗ trợ nguồn vốn của Trung ương để cho
vay hộ nghèo trên địa bàn, chú trọng đầu tư cho các hộ nghèo vùng cao, dân
tộc ít người và hộ chính sách. Phấn đấu 100% số hộ nghèo được vay vốn
NHNg, nâng mức dư nợ bình quân 1 hộ lên 3 triệu đồng. Từ dó khơi tăng
nguồn vốn tại địa phương, tránh sự lệ thuộc quá lớn vào nguồn vốn của Trung

ương.
Ba là: Phối kết hợp với các ban ngành có liên quan điều tra, phân loại hộ
nghèo để có hướng đầu tư hợp lý, giúp hộ nghèo vươn lên.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CHƯƠNG
TRÌNH XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở NHNo & PTNT TỈNH HOÀ BÌNH
1. Giải pháp trực tiếp
1.1. Vấn đề nguồn vốn
Nguồn vốn là nguyên liệu “đầu vào”, là hoạt động thường xuyên, liên tục
của hệ thống Ngân hàng thương mại. Các Ngân hàng chỉ có thể đạt được mục
tiêu tăng trưởng tín dụng, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh một khi
Ngân hàng thực hiện tốt chức năng huy động vốn của mình. Đặc biệt hơn, hiện
nay Chính phủ đã cho phép Tổng công ty Bưu chính viễn thông được thực hiện
dịch vụ tiết kiệm bưu điện để bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển dưới hình
thức có kỳ hạn và không kỳ hạn. Đây là một đối thủ cạnh tranh “nặng ký” của
ngành Ngân hàng đặc biệt là đối với NHNo & PTNT. Bởi vậy, đòi hỏi NHNo &
PTNT phải đề ra được những đối sách hữu hiệu:
Một là: Luôn có cơ chế lãi suất cạnh tranh linh hoạt.
Lãi suất là yếu tố quan trọng giúp các Ngân hàng hấp dẫn được khách
hàng đến gửi tiền. Bởi vì, người gửi có tiền muốn đem tiền gửi Ngân hàng,
trước tiên họ sẽ so sánh lãi suất huy động nơi nào cao hơn, kế đến mới là vấn
đề an toàn tiền gửi cũng như các dịch vụ tiện ích mà họ được hưởng.
Để thực hiện cơ chế lãi suất huy động cạnh tranh, các Ngân hàng phải
thường xuyên theo dõi thống kê tình hình biến động lãi suất trên cùng địa bàn
hoạt động để có quyết định điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với mặt bằng lãi
suất trên thị trường. Tuy nhiên, cũng cần quan tâm đến lãi suất tín phiếu kho
bạc Nhà nước, bởi vì trên thực tế, Kho bạc thường phát hành tín phiếu trả lãi
cao hơn lãi suất huy động của Ngân hàng thường mại (do Kho bạc không bị
khống chế ở “trần” lãi suất). Hơn nữa, trên cùng địa bàn, các Ngân hàng
thương mại cũng có cơ chế lãi suất khác nhau do chi phí cho hoạt động huy
động vốn khác nhau. Thực tế, hoạt động của NHNo & PTNT chứa đựng rất

nhiều rủi ro, chi phí cho hoạt động huy động cũng như cho vay lớn hơn nhiều
so với hoạt động của các Ngân hàng thương mại khác. Do đó, để có thể điều
chỉnh lãi suất huy động ngang bằng với các lãi suất huy động của các Ngân
hàng thương mại khác buộc các NHNo phải tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng và
phấn đấu giảm thiểu mọi khoản chí phí khác.
Hai là: Phải đa dạng các kỳ hạn gửi tiền gửi tiền với nhiều mức lãi suất
khác nhau theo nguyên tắc kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao:
Các nguồn tiền nhàn rỗi, tiền để dành của người dân rất đa dạng, nếu
Ngân hàng chỉ huy động các kỳ hạn 3, 6, 9, 12 tháng... như hiện nay, thì với
những khoảng thời gian nhàn rỗi của đồng tiền “không khớp” với kỳ hạn huy
dộng của Ngân hàng sẽ không khuyến khích khách hàng gửi tiền. Tuy nhiên,
việc đa dạng hoá các kỳ hạn gửi tiền sẽ làm cho công việc giao dịch,quản lý, lưu
trữ hồ sơ của Ngân hàng có phần vất vả hơn nhưng không phải là không thực
hiện được.
Ba là: Cần đa dạng các hình thức trá lãi và hình thức thanh toán.
Khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng với nhiều mục đích khác nhau, có
người vì an toàn, có người vì mục đích hưởng lãi hàng tháng, có người dư dật
gửi tiền để đồng tiền ngày càng sinh sôi nẩy nở... Vì thế, cách trả lãi của Ngân
hàng cũng nên sao cho phù hợp với yêu cầu của từng đối tượng. Hiện nay, đa
số các Ngân hàng áp dụng hai hình thức trả lãi là trả lãi trước và trả lãi cuối
kỳ. Lý do là để đơn giản cho công tác huy động vốn, ổn định được vốn hoạt
động, dễ cân đối kế hoạch huy động và sử dụng vốn. Nếu Ngân hàng trả lãi
hàng tháng cho khách hàng thì phải huy động mới, vì thế mà sẽ gặp rất nhiều
trở ngại, nhất là trong những thời điểm khó khăn, vốn Ngân hàng không tăng
thêm được mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần điều chỉnh lãi suất huy động. Tuy
nhiên, phải thấy rằng: Mục tiêu của NHNo & PTNT hiện giờ là tranh thủ, thu
hút và khai thác tối đa mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Do đó, trong thời
gian này cần phải duy trì thường xuyên hình thức trả lãi tháng như đã từng
làm trước đây để thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với NHNo. Mặt
khác, cần phải quan tâm đến việc mở rộng khả năng thanh toán của thẻ tiết

kiệm. NHNo & PTNT có mạng lưới rộng khắp trên toàn quốc, từ thành thị đến
nông thôn và các vùng xa xôi hẻo lánh, hơn nữa, hầu hết các Ngân hàng đều đã
có mạng lưới vi tính rất thuận lợi cho việc thanh toán trong toàn hệ thống. Vì
vậy cần phải thu hút tiền gửi hơn nữa bằng cách mở ra loại tiết kiệm gửi một
nơi lĩnh nhiều nơi trong cùng một hệ thống Ngân hàng nông nghiệp.
Bốn là: Khuyến khích bằng lợi ích vật chất.
Khách hàng gửi tiền, ngoài việc so sánh lãi suất, họ còn quan tâm đến
những lợi ích vật chất mà họ được hưởng. Chẳng hạn như khách hàng gửi tiền
tiết kiệm loại có kỳ hạn 12 tháng nhưng vì có nhu cầu đột xuất nên khách yêu
cầu được rút trước hạn khi mới gửi được 7 tháng. Thay cho việc trả cho khách
hàng số lãi bằng lãi suất không kỳ hạn, Ngân hàng sẽ trả cho khách hàng số
tiền lãi bằng lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn 6 tháng cộng với một tháng lãi suất
không kỳ hạn, như vậy khách hàng đỡ thiệt thòi và sẽ lôi cuốn được khách
hàng hơn. Hoặc như trước đây, Ngân hàng đã phát hành loại tiền gửi tiết kiệm
có quay số mở thưởng, nên chăng hình thức này được khôi phục lại sẽ kích
thích được người gửi rất nhiều.
Năm là: Trụ sở làm việc khang trang, tác phong giao dịch lịch thiệp, tận
tình hướng dẫn khách hàng.
Với trụ sở làm việc khang trang, sẽ tạo cho khách hàng ân tượng ban đầu
về một Ngân hàng ăn nên, làm ra, là nơi tin cậy để mà yên tâm gửi tiền. Mặt
khác, trong thời buổi cạnh tranh hiện nay, phương tiện làm việc của hệ thống
NHNo & PTNT chưa được tự động hoá cao, thì chắc chắn khách hàng không
thể không quay lại nữa cho dù là khách có khó tính đến mấy.
Sáu là: Định kỳ quảng cáo, niêm yết công khai, đầy đủ lãi suất, thể lệ tiền
gửi tiết kiệm.

×