Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.84 KB, 25 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM.
I. VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ĐỐI VỚI NHTM.
1. Các hoạt động chủ yếu của NHTM.
1.1. Khái niệm NHTM.
Sự hình thành hệ thống NHTM là hệ quả tất yếu của việc xây dựng nền
kinh tế thị trường, đó là sản phẩm của cơ chế thị trường hay là yếu tố cấu
thành thị trường tài chính; NHTM nói riêng và thị trường tài chính nói chung
có tác động qua lại tương hỗ lẫn nhau; hệ thống NHTM ổn định, phát triển
toàn diện là động lực thúc đẩy thị trường tài chính phát triển và ngược lại.
Việt Nam đang trong tiến trình xây dựng và phát triển một mô hình thị
trường tài chính với nòng cốt là hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động
dưới sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã được
đổi mới một cách đáng kể trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý, của nhà nước. Từ
mô hình hệ thống ngân hàng của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển
sang mô hình ngân hàng của nền kinh tế thị trường, mô hình tổ chức có sự
thay đổi căn bản đó là tách biệt chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, tín dụng
với chức năng kinh doanh tiền tệ, đa dạng hóa các loại hình ngân hàng, từng
bước xóa bỏ độc quyền, chuyển sang cạnh tranh có sự quản lý của nhà nước.
Tại Việt Nam kể từ năm 1988 bắt đầu hình thành mô hình hệ thống ngân hàng
2 cấp và 2 pháp lệnh ngân hàng( pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước, Pháp lệnh
Ngân hàng HTX tín dụng và công ty Tài chính) đã chính thức hợp pháp hóa sự
thay đổi này, Mô hình hệ thống ngân hàng ở thời điểm này bao gồm:
- Ngân hàng Nhà nước: cơ quan quản lý cấp nhà nước trong lĩnh vực
tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.
- Các NHTM: đóng vai trò là các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh
tiền tệ.
Theo luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ tháng 10 năm 1998, NHTM
được định nghĩa như sau: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khác hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm


phương tiện thanh toán”.
Định nghĩa trên đã khẳng định NHTM là một doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực tiền tệ, trong đó có hai mặt cơ bản:
- Nhận ký thác của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức, cơ quan
nhà nước.
- Sử dụng các khoản ký thác đó để cho vay và chiết khấu.
Các loại hình của NHTM:
+ NHTM quốc doanh: là NHTM được thành lập bằng 100% vốn của nhà
nước.
+ NHTM cổ phần: là NHTM được thành lập dưới hình thức công ty cổ
phần.
+ Chi nhánh NHTM nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo luật
pháp nước ngoài nhưng hoạt động theo luật pháp nước sở tại.
+ Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của
bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam
và hoạt động theo luật pháp Việt Nam.
Quá trình phát triển của NHTM gắn liền với quá trình phát triển của thị
trường tài chính thông qua các giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp. Khi mới ra đời, tổ chức và nghiệp vụ hoạt động rất đơn giản nhưng
càng về sau, theo đà phát triển của kinh tế hàng hóa, tổ chức cũng như các
nghiệp vụ của các ngân hàng càng phát triển và hoàn thiện hơn. Ngày nay các
NHTM có xu hướng phát triển ngày càng toàn diện với quy mô rộng cùng nhiều
loại hình dịch vụ huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu
tư cho vay. Sự phát triển của các ngân hàng không còn nằm trong phạm vi
quốc gia mà mang tính chất toàn cầu. Ví dụ: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân
hàng Phát triển Châu á (ADB)… việc áp dụng công nghệ thông tin và hệ thống
trang thiết bị hiện đại càng làm cho hoạt động ngân hàng trở nên hoàn thiện
Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam cũng trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, chứng kiến bước
chuyển mình vượt qua những chặng đường khó khăn dưới chế độ bao cấp

bước sang nền kinh tế thị trường . Trải qua hơn 10 năm đổi mới, sau khi Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ban hành nghị định 53
HĐBT (26/3/1988) với nội dụng “Cải tổ ngân hàng từ hệ thống ngân hàng
một cấp duy nhất trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung thành định
chế ngân hàng hai cấp theo hướng kinh tế thị trường”. Ngày 23/5/1990
nhà nước đã ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng. Ngày 26/12/1997, hai
pháp lệnh trên được thay thế bằng hai luật: Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật
các tổ chức tín dụng, tạo được một hành lang pháp lý khá đầy đủ cho hoạt
động ngân hàng. Bộ mặt ngành ngân hàng đã thay đổi, hoạt động của ngân
hàng trở nên chuyên nghiệp và năng động hơn, đánh dấu sự thay đổi to lớn
trong cách nghĩ cũng như cách làm.
Hệ thống NHTM Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay đã dần khẳng định
được vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong việc thực thi
chính sách tài chính – tiền tệ nói riêng. Vẫn với chức năng nhận tiền gửi để cho
vay đối với nền kinh tế, với vai trò trung gian tài chính trong hoạt động của
mình, NHTM vẫn phải tuân theo sự quản lý của Nhà nước mà trực tiếp là sự
quản lý của Ngân hàng Trung ương. Chính dưới sự quản lý này, hệ thống
NHTM đã thực hiện được chức năng của mình đối với nền kinh tế. Để hiểu rõ
hơn vê NHTM, đặc biệt là tầm quan trọng của NHTM đối với quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, ta sẽ tìm hiểu các hoạt động chủ yếu của
NHTM.
1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM.
Cũng giống như một doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng là tối đa hóa lợi nhuận hay nói đúng hơn là tối đa hóa
giá trị tài sản của ngân hàng và thông qua đó thực hiện tốt vai trò là trung
gian tài chính trong nền kinh tế. Ngân hàng tạo ra lợi nhuận bằng cách bán
những tài sản nợ có một số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và
lợi tức) và dùng tiền thu được để mua những tài sản có một số đặc tính khác.
Như thế các ngân hàng cung cấp một dịch vụ chuyển một loại tài sản thành
một loại tài sản khác cho công chúng. Nghiệp vụ này đã tạo ra lợi nhuận thặng

dư cho ngân hàng đồng thời tạo tiện ích cho khách hàng để đôi bên cùng có lợi.
Nghiệp vụ tài sản nợ (Nguồn vốn):
Đây là nghiệp vụ tạo điều kiện và tiền đề cho hoạt động của NHTM. Các
NHTM thực hiện huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế
dưới mọi hình thức để thực hiện nhiệm vụ đầu tư, cho vay đối với các thành
phần kinh tế, giúp họ đổi mới trang thiết bị sản xuất, nâng cấp nhà xưởng
phục vụ kinh doanh…
Nghiệp vụ tài sản có (Sử dụng vốn):
- Nghiệp vụ dữ trữ tiền mặt:
Ngân hàng dự trữ tiền mặt nhằm duy trì khả năng thanh khoản của
ngân hàng, đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên, liên tục của
khách hàng vào bất cứ lúc nào. Dự trữ tiền mặt cao hay thấp phụ thuộc vào
quy mô hoạt động, cơ cấu và tính chất nguồn vốn của NHTM. Các khoản dự trữ
của NHTM không sinh lời.
- Nghiệp vụ đầu tư: Ngân hàng tham gia góp vốn liên doanh, liên kết,
thành lập công ty con...
- Nghiệp vụ cho vay: Cho vay là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận chủ yếu cho
các NHTM. Các NHTM sử dụng phần lớn số tiền huy động được để cho vay đối
với nền kinh tế. Lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay là nguồn thu nhập
chính để bù đắp các loại chi phí trong hoạt động của Ngân hàng và thu lợi của
NHTM.
Các dịch vụ Ngân hàng:
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình, các NHTM đã tiến hành
cung ứng các dịch vụ phục vụ khách hàng như: dịch vụ thanh toán, đại lý, tư
vấn tài chính,... trên cơ sở đó Ngân hàng thu phí dịch vụ. Ngày nay do nhu cầu
phát triển của nền kinh tế đòi hỏi hoạt động dịch vụ Ngân hàng ngày càng mở
rộng về số lượng và chất lượng. Các Ngân hàng đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật
chất, áp dụng các công nghệ tiên tiến vào hoạt động Ngân hàng, thực hiện tốt
khâu thanh toán không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thanh
toán séc, thanh toán bù trừ, thực hiện chuyển tiền nhanh qua mạng máy tính,

thực hiện thanh toán bằng thẻ tín dụng…
Thực hiện tốt khâu cung ứng dịch vụ góp phần làm tăng thu nhập cho
Ngân hàng vì xu hướng phát triển trong hoạt động của NHTM hiện đại là mở
rộng các hoạt động dịch vụ, đồng thời vẫn duy trì các nghiệp vụ Ngân hàng
truyền thống, thông qua việc đa dạng hoá các hoạt động, các NHTM có thể vừa
tăng thu nhập vừa có thể cạnh tranh với các định chế tài chính phi Ngân hàng
trong lĩnh vực cung ứng các sản phẩm tài chính.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ đem lại cho Ngân hàng những khoản thu
nhập từ chênh lệch tỷ giá và các dịch vụ thanh toán quốc tế, đó chính là doanh
lợi hối đoái.
Như vậy, thành phần chính trong cơ cấu tổng thu nhập của NHTM là lãi
cho vay, lợi tức từ các khoản đầu tư, dịch vụ phí và doanh lợi hối đoái.
2. Nguồn vốn của NHTM.
Hoạt động của NHTM luôn gắn liền với công tác huy động vốn. Vậy ta
hiểu như thế nào là vốn?
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, việc tạo nguồn vốn và
đầu tư vốn là công việc của Nhà nước, nghĩa là Nhà nước đóng vai trò vừa
là người cấp phát vốn đầu tư cho các thành phần kinh tế, vừa là người tiêu
thụ các sản phẩm mà các thành phần kinh tế đó sản xuất. Vốn của các doanh
nghiệp chủ yếu do ngân sách của Nhà nước cấp hoặc vay tín dụng ngân
hàng với lãi suất thấp. Thực tế cho thấy, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp
là rất lớn trong khi nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp lại có hạn và nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân cư không thu hút được,vì chính sách huy động vốn
chưa hợp lý, thủ tục gửi tiền và rút tiền còn rườm rà… Như vậy cơ chế bao
cấp đã làm cho đồng tiền không được lưu thông và sử dụng có hiệu quả,
không có nơi giao dịch mua bán trên thị trường. Mặt khác cơ chế huy động
vốn và sử dụng vốn trong thời kỳ này chưa được quan tâm đúng mức.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, với chính sách phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, Nhà nước đã khuyến khích các thành
phần kinh tế tự bỏ vốn đầu tư. Điều đó làm cho vốn trở thành yếu tố quan

trọng hàng đầu và là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình đầu tư sản xuất
kinh doanh. Các doanh nghiệp Nhà nước không thể bỗng dưng mà có được
vốn vì không được cấp vốn như trước nữa, cho nên buộc họ phải tìm cách
mua vốn trên thị trường tài chính. Như thế người mua vốn phải trả lãi cho
người có vốn trên thị trường một khoản phí để có được quyền sử dụng vốn
trong thời gian xác định. Thông qua thị trường, vốn được lưu chuyển rộng
rãi, từ đó nó mới có thể thể hiện đủ bản chất và vai trò của mình. C.Mác đã
khái quát hoá phạm trù vốn là: “Tư bản” qua định nghĩa hết sức cô đọng: “tư
bản là giá trị mang lại thặng dư”.
Như vậy, vốn phải được biểu hiện dưới hình thái giá trị của tài sản
tức là vốn phải được đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản nhất
định. Mặt khác vốn không chỉ biểu hiện thành tiền (tiền giấy, vàng, bạc, đá
quý…) và phản ánh giá trị những tài sản hữu hình (máy móc thiết bị, đất đai,
nhà cửa…) mà còn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản vô hình
(uy tín, trình độ, phát minh, sáng chế, thông tin, công nghệ…) chính vì sự
biểu hiện dưới các hình thức phong phú và đa dạng đó mà vốn cần phải
được khai thác, sử dụng có hiệu quả mới đem lại lợi nhuận cao. Và cũng qua
đó giúp ta phân biệt với tiền lương dễ dàng hơn: nếu có một lượng tiền
được in không được phát hành trên cơ sở giá trị thực của hàng hoá để đưa
vào đầu tư thì đó chỉ là vốn giả tạo chứ không phải là vốn đầu tư, thực chất
chỉ những đồng tiền phát hành trên cơ sở đảm bảo bằng giá trị thực của
hàng hoá mới được gọi là vốn.
Như ta đã biết trong quá trình vận động, khác với các loại hàng hoá,
điểm xuất phát và điểm kết thúc của vốn đều là tiền. Sau một chu kỳ vận
động vốn được lớn lên và đem lại hiệu quả cao, thể hiện:
Trong doanh nghiệp sản xuất:
T-H..SX..H-T’ T’= T+t >T
Trong NHTM:
T=H-T’
Còn trong các tổ chức tài chính trung gian:

T=T-T’
Tóm lại từ những nét đặc thù trên ta có thể đưa ra khái niệm như sau:
Vốn là các tài sản trong xã hội được đưa vào đầu tư nhằm mang lại hiệu quả
trong tương lai. Vì thế trong nền kinh tế thị trường dù hoạt động trong lĩnh
vực nào thì vốn cũng là một yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của nó.
Hoạt động ngân hàng cũng vậy, muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả mang
lại hiệu quả cao thì công tác huy động cần phải được quan tâm đúng mức.
Nước ta cũng như bất kỳ nước nào khác trên thế giới, muốn thực hiện
công nghiệp hóa - hiện đại hóa cũng cần phải có vốn. Vốn là chìa khóa, là điều
kiện hàng đầu để thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Vốn trong nền kinh
tế có thể ví như máu trong cơ thể, thiếu vốn nền kinh tế sẽ chậm phát triển.
Song vốn được tạo lập từ đâu, bằng cách nào phụ thuộc rất lớn vào cơ chế,
chính sách tạo vốn.
Nguồn vốn của NHTM đóng vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế – xã hội. Vậy, nguồn vốn của NHTM là gì?
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền mà ngân hàng tạo lập
và huy động được để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng.
Nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập và huy động được không những giúp
cho ngân hàng tổ chức được mọi hoạt động kinh doanh mà còn góp phần quan
trọng trong việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp
nói riêng cũng như sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung.
Tuy nhiên, nguồn vốn của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau
như: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay và các loại vốn khác.
2.1. Vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
NHTM, nó thực hiện một số chức năng không thể thay thế đó là: cung cấp
nguồn lực ban đầu cho ngân hàng có thể duy trì hoạt động khi ngân hàng mới
thành lập, là cơ sở tạo niềm tin cho khách hàng đến giao dịch với ngân hàng,

phòng ngừa rủi ro kinh doanh cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu bao gồm:
2.1.1. Nguồn vốn hình thành ban đầu.
Đây được coi như vốn điều lệ của ngân hàng trong quy định về điều kiện
thành lập ngân hàng của pháp luật. Nguồn vồn này là lượng vốn tối thiểu mà
ngân hàng cần phải có để đáp ứng điều kiện thành lập cũng như hoạt động
kinh doanh. Các loại hình ngân hàng khác nhau thì có nguồn gốc hình thành
vốn ban đầu khác nhau: Đối với ngân hàng quốc doanh thì nguồn vốn hình
thành ban đầu là do ngân sách nhà nước cấp, nếu là ngân hàng liên doanh thì
là do các bên liên doanh đóng góp, nếu là ngân hàng cổ phần thì các cổ đông
góp vốn thông qua việc mua cổ phần hoặc cổ phiếu của ngân hàng; nếu là ngân
hàng tư nhân thì đó là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
2.1.2. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng có thể gia tăng theo nhiều phương thức
khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của ngân hàng. Đó bao gồm:
Nguồn từ lợi nhuận: Khi hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận thì ngân hàng
có thể chuyển một phần lợi nhuận thành nguồn vốn nhằm tái đầu tư. Lượng
vốn tích lũy tư thu nhập tùy theo chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong
thời gian tới cũng như cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng.
Nguồn bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở
rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng nhu
cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định…Đặc điểm của
hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có
được lượng vốn chủ sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
2.1.3. Các quỹ.
Ngân hàng có nhiều các quỹ khác nhau, mỗi quỹ được sử dụng vào những mục
đích nhất định tùy thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng. Các quỹ của
ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là
từ thu nhập của ngân hàng. Các quỹ của ngân hàng bao gồm:
- Quỹ bổ sung vốn điều lệ: có mục đích tăng cường số vốn tự có ban đầu.

- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro: Dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong
hoạt động kinh doanh ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. Quỹ này được
trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.
- Ngoài ra còn có các quỹ đặc biệt khác như: quỹ khen thưởng, quỹ phúc
lợi, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ giám đốc,…
Dự phòng rủi ro: Dự phòng rủi ro tín dụng được các NHTM trích lập từ
thu nhập trước hoặc sau thuế (theo quy định của từng quốc gia) theo một tỷ lệ
nhất định nào đó. Khoản trích lập này là quan trọng và cần thiết cho hoạt động
Ngân hàng, vì trong nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi những rủi ro
bất khả kháng có thể xảy ra, khi đó, ngân hàng có thể trích các quỹ để bù đắp.
2.1.4. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng mà có khả năng chuyển đổi
thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng
(vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể
đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
2.2. Nguồn huy động.
Nguồn huy động không phải là nguồn vốn thuộc sở hữu của ngân hàng nhưng
lại là yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của ngân
hàng,thường thì tiền gửi vào và tiền rút ra không đồng thời hoặc chênh lệch
nhau một lượng nhất định. Ngân hàng sẽ sử dụng lượng vốn tạm thời nhàn rỗi
này vào mục đích cho vay kiếm lời. Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu,

×