GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH DOANH DỊCH VỤ THẺ TẠI NGÂN HÀNG
TMCP NHÀ HÀ NỘI
3.1 Định hướng kinh doanh dịch vụ thẻ của Ngân hàng TMCP nhà
Hà Nội
3.1.1. Quan điểm đường lối của Đảng, Nhà nước và ngành ngân hàng đối
với việc phát triển công nghệ nói chung và công nghệ ngành ngân hàng nói
riêng.
Đại hội Đảng bộ cơ quan NHTW lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2005-2010
Mục tiêu cơ bản của nhiệm kỳ là: Xây dựng NHNN trở thành NHTW với
cơ cấu tổ chức bộ máy tinh gọn, chuyên nghiệp. Xây dựng và thực thi CSTT bảo
đảm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần thực hiện thắng lợi
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Phát triển hệ thống TCTD
Việt Nam theo hướng hiện đại, đa năng, đạt trình độ trung bình tiên tiến trong
khu vực; hoạt động an toàn và hiệu quả vững chắc dựa trên cơ sở công nghệ
và trình độ quản lý tiên tiến, áp dụng thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Phát triển
và đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng với chất lượng cao và mạng
lưới phân phối phát triển hợp lý nhằm cung ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện
các dịch vụ, tiện ích NH cho nền kinh tế trong thời đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Giai đoạn II Dự án hiện đại hoá NH (trị giá 105 triệu USD do NH thế
giới WB tài trợ)
Mục tiêu cao nhất của việc triển khai giai đoạn II dự án hiện đại hoá NH
và hệ thống thanh toán là nâng cao năng lực công nghệ, đáp ứng kịp với tiến
trình, yêu cầu của việc tái cơ cấu hoạt động hệ thống NH Việt Nam, nâng cao
năng lực cạnh tranh và thích ứng với tiến trình mở cửa, hội nhập của nền kinh
tế đất nước. Triển khai giai đoạn này, toàn hệ thống NH Việt Nam sẽ đặc biệt
quan tâm đến việc nâng cao năng lực của hệ thống thanh toán hiện đại về công
nghệ, tiên tiến về giải pháp, khả năng đáp ứng trên diện rộng (toàn quốc) và
được tổ chức theo mô hình tập trung hoá tài khoản. Tài khoản của các tổ chức
tín dụng tham gia thanh toán liên NH sẽ được quản lý thống nhất, tập trung
tại sở giao dịch NHNN; tài khoản khách hàng của mỗi NH thương mại sẽ được
quản lý tập trung tại hội sở chính của mình. Thực ra, mô hình tập trung hoá tài
khoản đã được triển khai ở giai đoạn I, nhưng mới giới hạn trong một số tỉnh,
thành phố theo quy mô triển khai của dự án. Quá trình vận hành hệ thống
thanh toán mới- kết quả của việc triển khai giai đoạn i của dự án cho thấy, việc
tập trung hoá tài khoản đã giúp cho việc tăng nhanh tốc độ luân chuyển luông
vốn trong nền kinh tế; tạo cơ sở cho việc phát triển các dịch vụ NH hiện đại,
như chuyển tiền điện tử, thẻ NH, cùng nhiều dịch vụ NH điện tử hiện đại, đa
tiện ích được cung cấp trực tuyến trên Internet…
Triển khai giai đoạn II, hệ thống thanh toán mới hiện đại của NHVN sẽ
được mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động trên cả nước. Cùng với việc nâng
cao năng lực thanh toán, hệ thống mới còn tạo tiền đề cho việc mở rộng và
phát triển nhiều sản phẩm dịch vụ NH hiện đại theo chuẩn quốc tế đến với
doanh nghiệp và người dân trên địa bàn cả nước. Việc thiết lập được một nền
tảng hệ thống thanh toán Quốc gia hiện đại với khả năng hoạt động an toàn,
bảo mật, đủ khả năng cung ứng dịch vụ thanh toán cho mọi chủ thể của nền
kinh tế ở khắp mọi miền đất nước sẽ là một tiền đề quan trọng bảo đảm sự
luân chuyển thông suốt của dòng tài chính tiền tệ đáp ứng nhu cầu phát triển
bền vững của nền kinh tế đất nước trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế.
Mục tiêu chính sách quản lý, giám sát của NHNN
Đến năm 2010, ngành ngân hàng Việt Nam phấn đấu phát triển hệ
thống dịch vụ ngân hàng ngang tầm với các nước trong khu vực ASEAN về
chủng loại, chất lượng và có khả năng cạnh tranh quốc tế ở một số dịch vụ. Đó
là một trong những mục tiêu quan trọng được đề ra trong bản chiến lược phát
triển DVNH giai đoạn 2006-2010 vừa được NHNN Việt Nam hoàn thành. DVNH
là một trong những nhóm dịch vụ có tiềm năng phát triển lớn, có khả năng tạo
ra nhiều giá trị gia tăng cho quá trình kinh tế và tiện ích xã hội. Trong thực tế
dịch vụ ngân hàng đã và đang ngày càng chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong
cơ cấu thu nhập của ngân hàng hiện đại. Vì vậy, mà đẩy mạnh phát triển dịch
vụ ngân hàng là xu thế tất yếu của các ngân hàng thế giới và Việt Nam. Theo
đánh giá của NHNN, trong khoảng 5 năm gần đây, với tốc độ tăng trưởng khá
cao của nền kinh tế, nhu cầu về số lượng và chất lượng dịch vụ ngân hàng
ngày càng tăng. Trong bối cảnh thuận lợi đó, hệ thống NH Việt Nam đã nhanh
chóng “chớp” lấy những cơ hội phát triển và có những cải thiện đáng kể về
năng lực thể chế, tài chính, công nghệ, quản trị điều hành và mạng lưới kênh
phân phối. Một số DVNH hiện đại được triển khai và đã được xã hội chấp nhận
như: Thẻ ATM, ngân hàng điện tử, phone banking…
Chiến lược phát triển DVNH giai đoạn 2006-2010 cũng khẳng định thị
trường DVNH Việt Nam đang phát triển dưới mức tiềm năng. Nhiều dịch vụ
quan trọng chưa được triển khai hoặc phát triển đúng mức, đặc biệt là các
dịch vụ cá nhân và DVNH bán lẻ. Cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ, công
nghệ và thương hiệu chưa trở nên phổ biến.
3.1.2. Dự báo xu hướng phát triển của thị trường thẻ ở nước ta
Căn cứ vào quá trình hình thành và phát triển các loại thẻ như đã trình
bày tại các phần trên:
Trong giai đoạn trước mắt, thẻ Visa sẽ chiếm ưu thế phát triển tại thị
trường quốc tế cũng như tại Việt Nam bởi tính bình dân của nó, cũng như các
chính sách tiếp thị gần gũi, thân mật với đông đảo tầng lớp dân cư. Bên cạnh
đó, thẻ Master cũng có khả năng phát triển tiếp theo Visa vì ít nhiều cũng đã có
thị trường và dân chúng cũng đã từng quen biết. Tiếp theo là đến thẻ Amex, rồi
Diners và cuối cùng là JCB. Do đặc thù của loại thẻ này là dành cho đối tượng
có thu nhập cao nên số lượng chủ thẻ có thể hạn chế, nhưng khối lượng từng
giao dịch cũng như tổng doanh số sẽ tăng cao.
Các chuyên gia công nghệ NH dự báo về xu hướng phát triển của thị
trường công nghệ thẻ thanh toán
Thị trường công nghệ thẻ sẽ rất nóng trong thời gian tới. “Việt Nam hiện
có trên 80 triệu dân nhưng mới chỉ có khoảng 300.000 thẻ tín dụng(Visa,
MasterCard). Trong khi đó Thái Lan có 64 triệu dân nhưng có tới 3-4 triệu thẻ
tín dụng. Rõ ràng tiềm năng của thị trường thẻ Việt Nam là rất lớn và thị
trường công nghệ thẻ thanh toán sẽ phát triển và cạnh tranh rất mạnh mẽ
trong vòng 5 năm tới”, ông Kevin Francis Wong, giám đốc điều hành Openway
khu vực Chấu á - nhà cung cấp phần mềm toàn cầu về những giải pháp trong
việc thực hiện thanh toán hệ thống mới - nhận định.
Các quan chức của Tổ chức Mastercard
Do đó, theo đánh giá của quan chức tổ chức Mastercard quốc tế, thì
trong vòng 10 năm tới, Việt Nam sẽ trở thành thị trường sử dụng thẻ dẫn đầu
trong khu vực là hoàn toàn khả thi. Bởi với số dân hơn 80 triệu người, phần
lớn là dân số trẻ, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, người dân ngày càng làm
quen với các tiện ích hiện đại của NH.
3.1.3. Định hướng chiến lược kinh doanh dịch vụ thẻ thanh toán của
Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội.
Triển vọng hình thức thanh toán thẻ của NH TMCP nhà Hà Nội tại thị
trường Việt Nam.
Với những đặc điểm và thực trạng thị trường Việt Nam hiện nay, NHTM
nói chung và NH Nhà Hà Nội nói riêng chắc chắn gặp không ít khó khăn trong
phát triển thanh toán thẻ, ví dụ như việc thay đổi thói quen dùng tiền mặt. Tuy
nhiên, thực trạng đó cũng cho thấy thị trường thẻ Việt Nam có tiềm năng lớn
để phát triển và đó là cơ hội để Habubank khai thác, phát triển dịch vụ thẻ của
mình. Tiềm năng của thị trường được thể hiện ở khả năng thâm nhập của thẻ
trong chi tiêu tiêu dùng cá nhân trong nền kinh tế.
Thị trường thẻ lớn và đầy tiềm năng. Với hơn 80 triệu dân, Việt Nam
được đánh giá là một quốc gia có dân số trẻ và năng động. Đây là lực lượng
không ngại khi tiếp cận với những sản phẩm mới, có tính chất công nghệ cao.
Cơ hội đi đôi với thách thức, họ cũng đòi hỏi hệ thống ngân hàng cung cấp sản
phẩm có chất lượng cao.
Mức độ cạnh tranh trên thị trường thẻ chưa cao. Hiện nay chỉ có một số
ngân hàng nước ngoài: ANZ, UOB, Indovinabank… tham gia 30% thị phần
thanh toán thẻ QT, 15% thị phần phát hành thẻ quốc tế. Các ngân hàng nước
ngoài khác tại Việt Nam Citibank, HSBC… chưa được phép phát hành thẻ nội
địa tại Việt Nam nhưng trong thời gian khoảng 3-4 năm nữa, việc các chi
nhánh ngân hàng này tham gia phát hành thẻ là điều tất yếu. Sự có mặt của
các nhân tố này sẽ là thách thức lớn đối với các NH Việt Nam nhưng cũng là
một cơ hội cho dịch vụ thẻ của Habubank phát triển, nâng cao công nghệ cũng
như chất lượng dịch vụ của hoạt động thẻ.
Các NHTM khác không ngừng đưa ra nhiều chính sách khách hàng hấp
dẫn cho dịch vụ trả lương qua tài khoản nhằm chiếm lĩnh thị phần. Các ATM
của HBB được kết nối qua Công ty Chuyển mạch Tài chính quốc gia (Banknet).
Việc tham gia vào hệ thống này giúp cho máy ATM của VCB có thể chấp nhận
thẻ của nhiều ngân hàng. Đây thực sự là cơ hội để dịch vụ trả lương qua tài
khoản phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Triển vọng về điều kiện kinh tế-xã hội
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển
đáng khích lệ. Tổng sản phẩm quốc nội GDP năm 2005 trong điều kiện đất
nước gặp nhiều khó khăn và thách thức GDP đạt 8,5%, nhiều chỉ tiêu chủ yếu
của Quốc hội đề ra đều đạt và vượt mức. Vì thế, nhìn tổng quát năm 2005,
chúng ta có bước tiến mới về phát triển kinh tế xã hội tương đối toàn diện.
Hiện nay thu nhập của người dân không ngừng tăng cao và ổn định,
khách du lịch quốc tế và người nước ngoài đến làm ăn, học tập ở nước ta ngày
càng tăng nhanh. Số lượng doanh nghiệp trong nước được thành lập mới và
làm ăn có hiệu quả ngày càng nhiều.
Với nội dung trên, hứa hẹn một triển vọng để các dịch vụ ngân hàng đặc
biệt là dịch vụ thẻ phát triển.
Triển vọng về môi trường pháp lý và vốn đầu tư
Môi trường pháp lý cho các hoạt động NH đang ngày được mở rộng. Các
văn bản pháp luật về quản lý thông tin, chứng từ điện tử, lưu trữ điện tử, giá
trị của vật mang tin, viễn thông… cũng như các văn bản về thanh toán, về
quyền tự chủ của NHTM, … đã và đang lần lượt được ban hành tạo hành lang
pháp lý cho hình thức thanh toán thẻ hoạt động thuận lợi.
Bên cạnh đó, vấn đề về đầu tư cho phát triển đã được cải thiện. Ngoài
các dự án tài trợ của nước ngoài, dự án NHNN, các NHTM đã có quyền chủ
động đầu tư cho phát triển nghiệp vụ, trong đó có nghiệp vụ thẻ bằng nguồn
vốn của mình.
Triển vọng về công nghệ, viễn thông- liên lạc, khoa học kỹ thuật Tin
học và công nghệ NH:
Từ khi nên kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự chỉ
đạo của Nhà nước, các lĩnh vực liên quan đến công nghệ- viễn thông đã phát
triển nhanh chóng. Rất nhiều ứng dụng tiến bộ về công nghệ thế giới đã được
chuyển giao vào nước ta. Lực lượng cán bộ khoa học Việt Nam đã đủ sức tiếp
quản việc chuyển giao kiến thức, mặt bằng công nghệ cũng không ngừng được
chú trọng đầu tư, nâng cấp. Mặt bằng công nghệ hiện nay đã hội đủ điều kiện
tối thiểu để hình thức thanh toán thẻ phát triển. Công nghệ tin học và viễn
thông đang có điều kiện phát triển và ứng dụng rộng rãi ở Việt Nam là một cơ
hội có tính then chốt tạo ra sự phát triển của dịch vụ thẻ NH.
Triển vọng của tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế
Nằm trong tiến trình chung của nền kinh tế trong tiến trình hội nhập,
ngành NH được xác định là một trong những mũi nhọn cần nhanh chóng phát
triển để theo kịp tiến trình. Phát triển thanh toán KDTM nói chung và thanh
toán thẻ nói riêng là đòi hỏi tất yếu đối với nước ta để đáp ứng nhu cầu giao
lưu quốc tế.
Do đó thị trường thẻ Việt Nam có nhiệu cơ hội trở thành nhân tố kích
thích, thúc đẩy sự đầu tư vốn và công nghệ của các Tổ chức thẻ quốc tế, các
NHNNg vào. Đây chính là một trong những cơ hội thuận lợi để chúng ta đẩy
nhanh quá trình phát triển hình thức thanh toán thẻ ở Việt Nam.
Triển vọng hoạt động NH
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế đề ra trong kế hoạch
5 năm, năm 2005 Việt Nam phải thực hiện một bước chuyển biến mạnh mẽ
hơn những năm trước về tốc độ cũng như chất lượng tăng trưởng.
Theo dự báo về diễn biến kinh tế trong nước và quốc tế, năm 2005 có
nhiều yếu tố thuận lợi cho hoạt động NH đó là: Chính phủ cam kết mạnh mẽ
trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế
nói chung; môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh tiếp tục ổn định;
các doanh nghiệp từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh…
Tuy nhiên trong bối cảnh diễn biến kinh tế, tiền tệ khó lường, các nhiệm
vụ do Quốc hội đề ra cho năm 2005 đã đặt ra cho hoạt động NH nhiều thách
thức, nhất là mục tiêu về mức tăng chỉ số giá tiêu dùng dưới 6,5% trong khi
mục tiêu tăng trưởng đặt ra ở mức cao.
Vì vậy, nhiệm vụ của ngành NH năm 2005 hết sức nặng nề, không những
phải góp phần tích cực để thực hiện tốt mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ đề
ra, mà còn phải khẩn trương chuẩn bị cho quá trình hội nhập và gia nhập tổ
chức thương mại thế giới. Trong khi hệ thống các tổ chức tín dụng vẫn là kênh
chủ yếu đáp ứng vốn cho tăng trưởng kinh tế, nhiệm vụ trọng tâm của hoạt
động tiền tệ, tín dụng NH năm 2005 đặt ra cụ thể như sau:
Điều hành CSTT linh hoạt nhằm hỗ trợ tích cực việc thực hiện mục tiêu
tăng trưởng kinh tế 8,5%, ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu
Quốc hội đề ra, nâng cao chất lượng tín dụng để tăng trưởng bền vững.
Tiếp tục thực hiện chương trình hiện đại hóa NH và hệ thống thanh
toán, mở rộng và phát triển các dịch vụ NH hiện đại; đẩy mạnh tiến trình hội
nhập quốc tế về NH; tăng cường năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh
của các tổ chức tín dụng nhất là các NHTM Nhà nước
Định hướng chiến lược của NHTMCP Nhà Hà Nội
Mục tiêu đặt ra cho NH Nhà Hà Nội trong vòng 10 năm tới là phấn đấu
trở thành một NH đạt tiêu chuẩn trung bình tiên tiến trong khu vực trên cả hai
phương diện: quy mô và chất lượng hoạt động. Để đạt được mục tiêu đó,
NHNT cần phải:
Thúc đẩy nhanh tiến trình áp dụng các chuẩn mực quốc tế vào quản lý
và cung ứng dịch vụ. Theo đó các hệ thống quản lý khách hàng, quản lý tín
dụng, quản lý tài chính đặc biệt là quản lý rủi ro sẽ được hoàn thiện và nâng
cao chất lượng theo chuẩn mực quốc tế. Thêm vào đó NH Nhà Hà Nội sẽ phát
triển và ứng dụng các dịch vụ trên nền tảng công nghệ tiên tiến, tạo thêm
nhiều tiện ích mới cho khách hàng và tăng tính cạnh tranh của sản phẩm.
Phát triển và mở rộng mạng lưới hoạt động để trở thành một tập đoàn
tài chính đa năng, theo đó sẽ thành lập các định chế mới như Công ty quản lý
quỹ đầu tư, Công ty bảo hiểm, Công ty tài chính chuyển tiền ở Mỹ và mạng lưới
chi nhánh; thành lập chi nhánh tại Singapore, Mỹ và một số thị trường khác; cơ
cấu lại Công ty tài chính Hongkong.
NH sẽ phát triển thẻ Habubank Vantage hiện nay lên thành thẻ ghi nợ
nội địa theo đúng nghĩa của nó, trở thành thẻ ghi nợ quốc tế. Việc phát triển
dịch vụ đồng thời với việc nghiên cứu, nâng cấp hệ thống xử lý dịch vụ thẻ,
khắc phục những tồn tại về kỹ thuật song hành với việc các công nghệ mới trên
thế giới.
Phát triển mạng lưới
Để thực sự tiếp cận được thị trường trong nước, việc phát triển được
các ĐVCNT cung cấp hàng hoá tiêu dùng cho người dân là vấn đề sống còn.
Hiện tại, có mạng lưới siêu thị nhà hàng là có độ chấp nhận thẻ tương đối cao,
nhưng thị trường này cũng bị các ngân hàng khai thác đến mức bão hoà. Một
siêu thị có khi đến ba hay bốn ngân hàng cùng đặt máy thanh toán thẻ, khiến
việc đầu tư trở nên lãng phí.
Để chủ thẻ có chỗ chi tiêu, cần phải đẩy mạnh phát triển mạng lưới sang
các loại hình đơn vị không phải truyền thống trên thị trường Việt Nam như
cửa hàng điện tử, quần áo thời trang, mỹ phẩm, .. Thời gian đầu, thường hiệu
quả của các ĐVCNT này sẽ không cao, nhưng chúng ta cần phải hiểu được là
đầu tư vào các ĐVCNT trong nước mới là cách đầu tư lâu dài, bền vững và
cũng là đầu tư phát triển thị trường thẻ Việt Nam, để phát triển số người sử
dụng thẻ.Hiện nay thị trường các ĐVCNT nhỏ, lẻ, phục vụ khách hàng trong
nước lại bỏ ngỏ để các ngân hàng như ACB, Đông á, Sacombank chiếm mất.
Điều này không chỉ ảnh hưởng về mặt doanh thu mà còn về mặt duy. Đặc biệt
trong đầu tư phát triển mạng lưới phải chú ý đến tính hiệu quả, tránh đầu tư
tràn lan.
Về mạng lưới giao dịch tự động ATM, việc triển khai thành công hệ
thống là một nguyên nhân quan trọng đằng sau thành công của thẻ Habubank
Vantage. Ngoài những cái được rất đáng kể của hệ thống ATM, công tác triển
khai còn có những vấn đề về mặt hiệu quả. Thực tế địa điểm đặt máy ATM
trong hay ngoài trụ sở ngân hàng có vai trò quyết định đến hiệu quả sử dụng
của máy. Nên khi quyết định đặt máy cần chú ý đến tính hiệu quả của việc sử
dụng máy: đảm bảo khách hàng truy cập dễ dàng, an toàn cho khách hàng, ở
chỗ dễ thấy và môi trường hoạt động của máy phải được đảm bảo theo các
tiêu chuẩn kỹ thuật của nhà sản xuất.
Phát triển sản phẩm
Thực tế cho thấy ở thị trường khác cũng như thị trường thẻ Việt Nam
thông qua thành công của thẻ ghi nợ và hệ thống giao dịch tự động ATM cho
thấy người tiêu dùng và các ĐVCNT thích nghi dễ dàng với việc sử dụng thẻ ghi
nợ. Thẻ ghi nợ với tính năng kết nối trực tuyến vào tài khoản cá nhân tạo tâm
lý thanh toán an toàn, thoải mái cho người sử dụng vì không phải đi vay tiêu
dùng như thẻ tín dụng. Mạng lưới ATM rộng khắp đem lại sự thuận lợi cho các
chủ thẻ, thực sự là hệ thống dịch vụ hiện đại, văn minh, chính xác và đáng tin
cậy. Việc sử dụng thẻ không bị giới hạn trong mạng lưới cung ứng dịch vụ của
NH hoặc thậm chí biên giới quốc gia. Hiện tại thẻ Habubank Vantage chỉ sử
dụng được trong hệ thống của NH và các ngân hàng có kết nối với NH. Để chủ
thẻ có thể rút tiền hoặc chi tiêu ở nước ngoài, trong tương lai gần thẻ sẽ trở
thành thẻ ghi nợ quốc tế (Thương hiệu Visa hoặc MasterCard).
Hiện nay thẻ Habubank Vantage khi sử dụng tại ĐVCNT phải xác nhận
100% bằng số PIN. Kinh nghiệm quốc tế và bản thân Habubank thấy việc áp
dụng số PIN đảm bảo độ an toàn cao nhưng lại hạn chế rất lớn về số lượng
ĐVCNT do số lượng máy hỗ trợ PIN có ít và thao tác chấp nhận thẻ không thực
sự thuận tiện cho ĐVCNT và người dùng. Vì vậy, các sản phẩm thẻ ghi nợ thành
công của quốc tế như Visa Electron, MasterCard Electron đều có tính năng xác
định bằng chữ ký và PIN, giải toả được những hạn chế về điểm chấp nhận thẻ.
Do đó, trong thời gian tới, Habubank sẽ áp dụng việc sử dụng chữ ký cho thẻ
ghi nợ tại các ĐVCNT trên cả nước.
Ngoài thẻ ghi nợ, một sản phẩm thẻ nữa gặt hái được nhiều thành công
tại các nước trong khu vực là sản phẩm thẻ liên kết. Thực tế này cho thấy,
khách hàng không chỉ trông đợi thẻ đơn giản chỉ là một phương tiện thanh
toán mà còn phải có những tiện ích và ưu đãi do các thanh viên liên kết đem
lại. Sử dụng thẻ liên kết, khách hàng sẽ nhận được ưu đãi cả từ phía ngân hàng
phát hành, cả từ phía đối tác liên kết. Các ngân hàng có thể đưa ra ưu đãi về
phí, lãi suất, thời gian ân hạn… Các đối tác liên kết có thể đưa ra ưu đãi về
giảm giá, khuyến mại, chương trình điểm thưởng… nhằm khuyến khích khách
hàng chi tiêu bằng thẻ.
Nắm vững xu hướng phát triển của dịch vụ thẻ ngân hàng thế giới cũng
như hiểu được mong muốn của khách hàng Habubank sẽ phát triển thẻ liên
kết với các đối tác có uy tín trên thị trường nội địa và quốc tế nhằm nâng cao
khả năng cạnh tranh và khả năng khai thác trên thị trường thẻ nội địa cho tất
cả các bên tham gia vì lợi ích của khách hàng và của chính mình. Với tính năng
định hướng khách hàng cao của các sản phẩm thẻ liên kết, từng sản phẩm sẽ
có đối tượng khách hàng mục tiêu riêng biệt, tối đa hoá khả năng xâm nhập thị
trường, tăng tính cạnh tranh với sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng khác.
Công tác khách hàng
Đặc thù chung của các dịch vụ ngân hàng bán lẻ là nhằm tới đối tượng
khách hàng cá nhân nên công tác tiếp thị dịch vụ thẻ mang nhiều điểm tương
đồng với các loại hàng hoá dịch vụ tiêu dùng khác. Mặt khác nhu cầu về thẻ tại
Việt Nam đối với đa số dân cư không phải là nhu cầu cấp bách, thực sự cần
thiết không thể thiếu được. Quan niệm của nhiều người dân vẫn coi dịch vụ thẻ
nói riêng và dịch vụ ngân hàng bán lẻ nói chung là dành cho những người có
nhiều tiền. Điều đó đặt ra nhu cầu phải tích cực giới thiệu một cách rộng khắp
sản phẩm dịch vụ thẻ đến người dân cả nước, thay đổi quan niệm về thẻ. Cái
nhìn trong công tác marketing về thẻ không thể chỉ dừng ở mức nhận định nhu
cầu của thị trường và thoả mãn nhu cầu đó như mô hình truyền thống mà phải
được phát triển lên mức cao hơn. Nhiệm vụ của Marketing thẻ phải tạo ra
được nhu cầu, tạo ra được sự ham muốn dành cho sản phẩm.
Việc quảng cáo các sản phẩm cũng không thể đánh đồng các loại thẻ mà
với mỗi loại thẻ phải xác định được đối tượng khách hàng mục tiêu riêng, từ
đó đưa ra chiến lược marketing phù hợp. Ví dụ đối với thẻ Habubank Vantage
phải tạo được hình ảnh một tấm thẻ cho mọi đối tượng, mọi người dân. Hình
ảnh tấm thẻ Amex, Visa, MasterCard… phải được gắn liền với hình ảnh chủ thẻ