Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Tiểu luận môn Pháp luật Nhà nước về Tổ chức bộ máy và hoạt động của Quốc hội trong Nhà nước và pháp luật . Thực trạng và giải pháp nâng cao hoạt động Quốc hội hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.48 KB, 9 trang )

TIỂU LUẬN
LUẬT KINH TẾ I (LẦN 1)

Đề tài: Tiểu luận môn Luật kinh tế 1 về Tổ chức bộ máy và hoạt động của
Quốc hội trong Nhà nước và pháp luật . Thực trạng và giải pháp nâng cao
hoạt động Quốc hội hiện nay.

MỤC LỤC
A. Lời mở đầu.
B. Nội dung chính.
I – Lý luận chung về Quốc hội nước Việt Nam.
II – Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Quốc hội.
Cơ cấu tổ chức Quốc hội.
a) Ủy ban thường vụ Quốc hội.
b) Hội đồng dân tộc.
c) Các ủy ban của Quốc hội.
III - Thực trạng hoạt động và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động
của Quốc hội.
1. Hoạt động lập hiến và lập pháp của Quốc hội.
2. Hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
3. Hoạt động giám sát tối cao đối với bộ máy nhà nước.

C. Kết luận.
*Tài liệu tham khảo: Giáo trình Luật kinh tế 1; Luật Hiến Pháp
Việt Nam các năm…


A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong bộ máy của Nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trong,
là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nguyên tắc này được quy định lần
đầu tiên tại Điều 22 của Hiến pháp năm 1946: “Nghị viện nhân dân là cơ quan


có quyền lực có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” và
được tiếp tục khẳng định, củng cố trong Hiến pháp năm 1959: “Tất cả quyền
lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân, nhân dân
sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân” (Điều 4). Đến
Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 vai trò của Quốc hội được tăng
cường và phát triển hơn nữa: Quốc hội vừa là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân vừa là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước như: quy định tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong
bộ máy nhà nước, quyết định các chính sách về kinh tế, văn hóa – xã hội, an
ninh – quốc phòng, đối nội, đối ngoại..; giám sát tối cao hoạt động của bộ
máy nhà nước. Chính vì có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng như vậy mà
việc tổ chức và hoạt động của Quốc hội quyết định chủ yếu sự phát triển của
đất nước, nhất là trong thời kì nước ta đang đẩy mạnh hội nhập.
Cũng vì lí do này, mà thông qua bài Tiểu luận môn luật kinh tế 1: “Tổ chức
bộ máy và hoạt động của Quốc hội trong Nhà nước và pháp luật Việt Nam.
Thực trạng và giải pháp nâng cao hoạt động Quốc hội hiện nay”. Ta cùng đi
sâu và tìm hiểu rõ hơn về Quốc hội, một tổ chức bộ máy chính quyền vô cùng
quan trọng ở nước ta.


B. NỘI DUNG CHÍNH
I - Lý luận chung về Quốc hội nước Việt Nam.
Quốc hội đầu tiên của nước ta ra đời sau cuộc Tổng tuyển cử tự do trong
cả nước vào ngày 06 tháng 01 năm 1946. Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ vị trí
và tính chất của Quốc hội: “Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.”
Tính đại diện của Quốc hội nước ta thể hiện ở: Quốc hội là cơ quan duy
nhất trong bộ máy nhà nước ta do nhân dân cả nước trực tiếp bầu, miễn

nhiệm, bãi nhiệm theo các nguyên tắc: Phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ
phiếu kín. Quốc hội đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước.
Đại biểu Quốc hội là những thành viên ưu tú đại diện cho các tầng lớp trong
xã hội, như công nhân, nông dân, trí thức; những người lao động khác, các
dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng và các thành phần xã hội trong cả nước. Quốc
hội tồn tại và hoạt động vì lợi ích nhân dân vậy nên mọi quyết định, chính
sách của Quốc hội đều phải xuất phát từ lợi ích nhân dân, và Quốc hội phải
chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân cả nước.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất bởi đây là cơ quan nhận
quyền lực trực tiếp từ tay nhân dân, chịu trách nhiệm quyết định cơ cấu tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương, như: bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước, Chủ tịch và Phó chủ tịch
Quốc hội và cùng ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ; thành lập
mới, nhập, chia, điều chính địa giới hành chính. Đồng thời Quốc hội quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước như chính sách đối nội, đối ngoại,
an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hóa… Quốc hội là cơ quan giám sát tối cao
đối với toàn bộ bộ máy nhà nước thông qua hoạt động giám sát việc tuân theo
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, qua bao thăng trầm của lịch sử,
Quốc hội nước ta đã và đang từng bước hoàn thiện hơn trong cơ cấu tổ chức
và hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, thể hiện rõ tính đại diện và tính quyền
lực của mình.
II - Cơ cấu tồ chức và hoạt động của Quốc hội.


- Cơ cấu tổ chức Quốc hội.
Các cơ quan của Quốc hội gồm có: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng
dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.

a) Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Theo Hiến pháp năm 1959, trong tổ chức của Quốc hộ, Ủy ban thường vụ
Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Nhưng theo Quy định của
Hiến pháp năm 1980 thì Ủy ban thường vụ Quốc hội được thay thế bằng Hội
đồng Nhà nước. Thiết chế Hội đồng nhà nước đã bộc lộ những hạn chế trong
quá trình hoạt động, làm nảy sinh vấn đề liên quan đến yêu cầu tập trung
quyền lực nên để khắc phục tình trạng này, Hiến pháp năm 1992 đã phân định
chức năng , nhiệm vụ của Hội đồng nhà nước cho hai cơ quan khác nhau.
Chức năng nguyên thủ quốc gia do Chủ tịch nước đảm nhiệm, còn Ủy ban
thường vụ Quốc hội được xác định là cơ quan thường trực của Quốc hội.
Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm có: Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch
Quốc hội, và các Ủy viên. Số thành viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội do
Quốc hội quyết định, trong đó thành viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội
không thể đồng thời là thành viên của Chính phủ để đảm bảo tính khách quan
cho hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ngoài ra Luật tổ
chức Quốc hội còn quy định các thành viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội
phải làm việc theo chế độ chuyên trách.
b) Hội đồng dân tộc.
Vấn đề dân tộc có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng Việt Nam. Hiến
pháp năm 1959 chưa nói điến việc thành lập Hội đồng dân tộc mà chỉ quy
định việc thành lập các ủy ban của Quốc hội. Tiếp đó, theo Nghị quyết ngày
20 tháng 3 năm 1961 Quốc hội đã thành lập Ủy ban dân tộc của Quốc hội.
Hiến pháp năm 1980, Ủy ban dân tộc đã được nâng lên thành Hội đồng dân
tộc cho xứng với tầm quan trọng của vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay, và
Hội đồng dân tộc vẫn được duy trì cho tới ngày hôm nay.
Hội đồng dân tộc gồm có Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên do
Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội. Số Phó Chủ tịch và số Ủy
viên Hội đồng dân tộc do Quốc hội quy định. Để nâng cao hiệu quả hoạt động
của Hội đồng dân tộc có một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách.
Số thành viên hoạt động chuyên trách do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy

định.
c) Các ủy ban của Quốc hội.
Các ủy ban của Quốc hội được thành lập ra để giúp Quốc hội thực hiện
được tốt các nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Quốc hội thành lập hai loại ủy
ban là: Ủy ban thường trực và Ủy ban lâm thời.


Ủy ban thường trực là những ủy ban hoạt động thường xuyên của Quốc
hội. Tùy theo từng lĩnh vực hoặc từng nhóm vấn đề nhất định, Quốc hội thành
lập các ủy ban để giúp Quốc hội thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Quốc hội có hiệu
lực từ ngày 01/07/2007, hiện nay Quốc hội nước ta có chín ủy ban, đó là: Ủy
ban pháp luật; Ủy ban tư pháp được tách ra từ Ủy ban pháp luật; hai Ủy ban
tiếp theo là: Ủy ban kinh tế, Ủy ban tài chính, ngân sách dựa trên sự chia tách
của Ủy ban kinh tế và ngân sách; Ủy ban quốc phòng và an ninh; Ủy ban văn
hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Ủy ban về các vấn đề xã
hội; Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường; Ủy ban đối ngoại.Trong mỗi
ủy ban phải có một số thành viên hoạt động theo chế độ chuyên trách.
Ủy ban lâm thời là những ủy ban được Quốc hội thành lập ra khi xét thấy
cần thiết để nghiên cứu thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất
định. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, ủy ban này sẽ tự giải thể. Ta có thể thấy
một số Ủy ban lâm thời của Quốc hội như: Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp
gần đây, hay Ủy ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội được thành lập trong
kì họp đầu tiên của Quốc hội mỗi khóa.
Ủy ban của Quốc hội gồm có Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy
viên, số Phó Chủ nhiệm và số Ủy viên ủy ban do Quốc hội quyết định. Thành
viên ủy ban của Quốc hội do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội, số
thành viên hoạt động chuyên trách do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định.
III - Thực trạng hoạt động và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động
của Quốc hội.

1. Hoạt động lập hiến và lập pháp của Quốc hội.
- Thực trạng hoạt động.
Hoạt động lập pháp của của Quốc hội nước ta đã có những bước phát triển
đáng kể, đạt được một số thành tựu nổi bật. Quốc hội đã thông qua bốn bản
Hiến pháp, đánh dấu cột mốc pháp lí quan trọng trong lịch sử phát triển của
đất nước ta, là cơ sở để ra đời các bộ luật quan trọng, như Bộ luật Hình sự,
Luật Đất đai, Luật Dân sự, Luật hành chính…; và là nền tảng để nhân dân ta
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Số lượng các bộ Luật ngày càng nhiều
hơn, quy định cụ thể, chi tiết hơn các lĩnh vực của đời sống xã hội; đồng thời
có sự sửa đổi, bổ sung các bộ luật để theo kịp với sự vận động của phát triển
của đất nước trong thời kì hội nhập quốc tế… Tuy nhiên, vẫn còn có những
điểm bất cập trong vấn đề này. Cụ thể:
Thứ nhất, các văn bản luật mới chỉ dừng lại ở luật khung mà chưa có quy
định chi tiết dẫn đến tình trạng khó áp dụng vào các trường hợp cụ thể. Nội
dung của luật chủ yếu bao gồm các nguyên tắc, được xem là quy định khung
nên khi đưa vào thực hiện cần có các văn bản hướng dẫn đi kèm. Điều này


làm cho việc áp dụng pháp luật bị chậm trễ do phải đợi văn bản hướng dẫn
chi tiết.
Thứ hai, lực lượng giúp việc cho Quốc hội trong hoạt động lập pháp ở
nước ta còn thiếu; đội ngũ tham mưu, tư vấn chủ yếu là các chuyên gia tại các
vụ của các Ủy ban. Quốc hội đã thành lập Ban công tác lập pháp để giúp
Quốc hội xây dựng thảo luận nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh hàng năm, nhưng số thành viên của Ban công tác chỉ có khoảng 30 người
nên luôn bị quá tải trong quá trình giúp Quốc hội tham mưu, tư vấn cho hoạt
động lập pháp.
Thứ ba, kỹ thuật lập pháp của nước ta chưa cao, thiếu đồng bộ, vẫn còn
tình trạng chồng chéo của các văn bản luật, một số văn bản mới ban hành chất
lượng chưa cao, chưa sát cuộc sống, một số quy định đi ngược lại với Hiến

pháp nên phải sửa đổi, bổ sung thậm chí là bãi bỏ, hủy bỏ các quy định, các
văn bản luật này.
- Giải pháp khắc phục.
Để khắc phục tình trạng trên Quốc hội cần thực hiện một số biện pháp, cụ
thể như:
Hoạt động làm luật cũng giống như mọi hoạt động khoa học khác, chính vì
thế phải có sự thẩm định chéo, cần sự phản biện khoa học cũng như có sự đối
chứng giữa nhiều quan điểm khác nhau. Bên cạnh đó, Quốc hội cần sớm phân
công hợp lí cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra để khắc phục tình trạng nợ
đọng văn bản hướng dẫn thi hành luật hay hạn chế được ở mức tối đa những
quy định đi ngược lại với Hiến pháp, sớm đưa các văn bản pháp luật đi vào
cuộc sống.
Để đáp ứng yêu cầu phục vụ hoạt động lập pháp của Quốc hội đòi hỏi bộ
máy giúp việc cho Quốc hội phải được tăng cường những cán bộ chuyên môn,
nghiệp vụ có trình độ cao, am hiểu thực tiễn sâu sắc, đủ sức nghiên cứu, tham
mưu, đáp ứng kịp thời những yêu cầu mà Quốc hội đề ra. Cần có cơ chế cũng
như chế độ đãi ngộ hợp lí để có thể huy động được các nhà khoa học, các
chuyên gia làm cộng tác viên của các cơ quan của Quốc hội trong việc xây
dựng pháp luật, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực lập
pháp.
2. Hoạt động quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
- Thực trạng hoạt động.
Trên phương diện hoạt động này, Quốc hội đã đạt được một số kết quả
như: Các quyết định của Quốc hội về các vấn đề quan trọng của đất nước về
cơ bản đã cụ thể hóa kịp thời và đúng đắn đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, bảo đảm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng; Quốc hội đã thể hiện trách
nhiệm cao trước cử tri cả nước, thực hiện chức năng quyết định khá đầy đủ,


đúng thẩm quyền, hiệu quả và phù hợp với pháp luật. Ngoài ra, hoạt động của

Quốc hội đã thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo
chế độ hội nghị và quyết định theo đa số, các quyết định của Quốc hội được
dần nâng cao về chất lượng và tính khả thi.
Bên cạnh những mặt tích cực, hoạt động của Quốc hội vẫn còn tồn tại
những điểm hạn chế. Mặc dù Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội quy định
Quốc hội quyết định chính sách tiền tệ quốc gia nhưng ảnh hưởng của Quốc
hội tới chính sách tài chính vẫn còn rất hạn chế, biểu hiện cụ thể ở chỗ: Nội
dung chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, thẩm quyền quyết định của Quốc
hội chưa được các luật cụ thể hóa đầy đủ, rõ ràng; hay trong các chương trình
quốc gia hàng năm, Quốc hội chỉ quyết định việc phân bổ ngân sách còn việc
lựa chọn chương trình cũng như nhiệm vụ cụ thể vẫn do Thủ tướng Chính phủ
quyết định.
Vẫn có trường hợp việc xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước còn chậm, tính khả thi chưa cao, như: quy hoạch, kế hoạch sử dụng
ruộng đất của cả nước còn chậm do phụ thuộc vào Nghị quyết của Đại hội
Đảng theo nhiệm kì; hay việc quyết định nhiều chỉ tiêu, nhiệm vụ trong kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm. Mặt khác, một số vấn đề Quốc hội
quy định còn mang tính thủ tục, như phê chuẩn các điều ước quốc tế theo đề
nghị của Chủ tịch nước, chủ yếu là chấp thuận các phương án của cơ quan
trình.
- Giải pháp khắc phục.
Những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và nhân dân trên tất cả các
lĩnh vực, như: chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, đối nội,
đối ngoại, hoạt động của bộ máy nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân…do Quốc hội thông qua cần được chuẩn bị chu đáo, nghiên cứu
thảo luận kỹ trước khi thông qua. Muốn làm được điều này, trước các kì họp
công tác chuẩn bị phải được tiến hành thật kĩ lưỡng, các vấn đề cần thảo luẩn
phải được gửi tới các đại biểu Quốc hội đúng thời hạn, đồng thời các đại biểu
Quốc hội cũng phải nghiêm túc nghiên cứu, và thảo luận sôi nổi, tích cực
trong các kì họp để hoạt động quyết định các vấn đề quan trọng của Quốc hội

đạt được hiệu quả cao, bám sát với hoàn cảnh của đất nước. Đặc biệt trong
lĩnh vực quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, cần có một văn bản pháp luật
cụ thể quy định rõ thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định ngân sách
của các chương trình quốc gia hàng năm từ đó nâng cao tầm ảnh hưởng của
Quốc hội trong lĩnh vực quyết định chính sách tiền tệ quốc gia.
3. Hoạt động giám sát tối cao đối với bộ máy nhà nước.
- Thực trạng hoạt động.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước nhằm đảm bảo cho những quy định của Hiến pháp và pháp luật


được thi hành triệt để và thống nhất, bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ, có
hiệu quả. Song, do nhiều nguyên nhân nên trên thực tế hoạt động này còn có
nhiều hạn chế. Hoạt động giám sát của Quốc hội mới chỉ dừng lại ở mức độ
phát hiện và phân tích vấn đề, vụ việc rồi động viên, đôn đốc nhắc nhở các
ngành, các cấp ở địa phương quan tâm, xem xét giải quyết chứ chưa có những
biện pháp thật sự hữu hiệu. Mặt khác, Quốc hội thường được giao cho các cơ
quan của Quốc hội như: Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội… thực hiện một số quyền giám sát, điều này khiến cho
hoạt động giám sát của Quốc hội không tập trung, còn mang tính manh mún
và khó kiểm soát.
- Giải pháp khắc phục.
Để khắc phục tình trạng này, trước hết Quốc hội cần xác định đúng đối
tượng giám sát để có phương thức giám sát phù hợp, tránh tình trạng dàn trải
rộng khiến hoạt động giám sát của Quốc hội trở nên manh mún, khó kiểm
soát. Ngoài ra cũng cần phải quy định cụ thể hơn nữa về vai trò, thẩm quyền
của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát tối cao để khắc phục tình trạng giám sát
chưa tới của Quốc hội. Có nghĩa là khi Quốc hội phát hiện những vấn đề, vụ
việc có dấu hiệu vi phạm phải có những biện pháp xử lí cụ thể chứ không
dừng lại ở việc đôn đốc, nhắc nhở các ngành, các cấp ở địa phương quan tâm,

xem xét giải quyết như hiện nay.
Về nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn của Quốc hội, trước hết phải
nâng cao chất lượng của đại biểu Quốc hội để các câu hỏi chất vấn đi đúng
vấn đề mà người dân quan tâm, tránh tình trạng dàn trải, chưa có chọn lọc;
cũng cần phải xem xét để tăng thời gian chất vẩn của đại biểu Quốc hội, tạo
điều kiện cho đại biểu chất vấn có cơ hội chất vấn và người trả lời chất vấn
giải đáp thắc mắc của đại biểu. Đối với nội dung của các vấn đề chất vấn,
trước hết cần ưu tiền cho những vấn đề chất vấn về quốc kế dân sinh, những
vấn đề mà chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đang coi là trọng tâm
trong từng giai đoạn cụ thể, như: xoa đói giảm nghèo, kích cầu, chống tham
nhũng, cải cách hành chính…Các câu hỏi mang tính thông tin, đại biểu Quốc
hội gửi trước cho Trung tâm Thông tin để nhận được kết quả trước khi chất
vấn, câu hỏi chất vấn nào trùng lặp thì không chất vấn nữa. Đại biểu không
nên phân tích hay diễn giải khi chất vấn, các câu hỏi nên được chuẩn bị bằng
văn bản ngắn gọn, súc tích và đúng trọng tâm.


C.KẾT LUẬN
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền lực của nhân dân. Quốc hội thay mặt nhân dân quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước, thực hiện quyền giám sát tối cao
và là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Hoạt động của Quốc
hội quyết định sự phát triển của đất nước lâu dài của đất nước. Trong những
năm gần đây, dù trải qua nhiều biến động của tình hình kinh tế, chính trị thế
giới nhưng Quốc hội nước ta vẫn duy trì ổn định hoạt động, từng bước hoàn
thiện hơn trong cơ cấu tổ chức và hoạt động đạt được những thành tựu đáng
ghi nhận. Tuy nhiên, vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội luôn
là một vấn đề không bao giờ cũ, đó không chỉ là nhiệm vụ của riêng Quốc hội
mà còn là nhiệm vụ của toàn xã hội. Tin tưởng rằng trong thời gian tới, hoạt
động của Quốc hội sẽ có thêm những đổi mới tích cực mang tính đột phá để

thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, sớm đưa Việt
Nam trở thành một nước phát triển, sáng ngang với các nước trong khu vực
và trên thế giới.



×