Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Mang dân ca đến gần hơn với trẻ mẫu giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.11 MB, 24 trang )

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI : MANG DÂN CA ĐẾN GẦN HƠN VỚI TRẺ MẪU GIÁO
A.PHẦN MỞ ĐẦU
I – ĐẶT VẤN ĐỀ:
Như chúng ta đã biết, âm nhạc là loại hình nghệ thuật xuất hiện rất sớm
trong lịch sử loài người, nó gắn bó với con người và trở thành nhu cầu không thể
thiếu. Âm nhạc phản ánh cuộc sống con người bằng những hình tượng âm nhạc.
Âm nhạc còn phản ánh niềm vui, nổi buồn, khát vọng, ước mơ của con người.
Đối với trẻ mầm non, âm nhạc có vai trò vô cùng quan trọng. Âm nhạc là
phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh, phát triển ngôn ngữ, quan
hệ giao tiếp, trao đổi tình cảm, âm nhạc của trẻ là thế giới kỳ diệu đầy cảm xúc.
Trẻ có thể tiếp nhận âm nhạc từ lúc còn trong nôi. Những lời ru của bà, của mẹ;
những câu hát mộc mạc, gần gũi như là dòng sữa ngọt ngào đã nuôi dưỡng tâm
hồn trẻ thơ của trẻ. Tình yêu gia đình, quê hương cũng lớn lên từ tiếng hát, lời ru
đó.Trẻ mầm non dễ xúc cảm, ngây thơ trong sáng nên rất nhạy cảm với âm
nhạc.Thế giới âm nhạc muôn màu, muôn sắc tạo điều kiện cho trẻ phát triển
toàn diện: thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ,…
Để nuôi dưỡng cho các bé có tâm hồn dân tộc, giáo dục nghệ thuật cổ
truyền đóng vai trò hết sức quan trọng. Những cái hay, cái đẹp, những nét đặc
sắc của dân tộc từ đời này qua đời khác đã theo các làn điệu dân ca tác động đến
nhiều thế hệ. Những làn điệu dân ca, những sáng tác mang sắc thái dân tộc phải
được đến sớm với tuổi thơ, lứa tuổi hồn nhiên trong sáng. Dân ca đối với trẻ là
tiếp xúc nghệ thuật tổng hợp, thỏa mãn tính hình tượng đang phát triển mạnh ở
trẻ.
Dân ca nhằm mục đích cho trẻ tiếp thu với nền văn hóa truyền thống một
cách tích cực, phù hợp hoạt động của trẻ. Đồng thời, lời của những bài hát dân
ca cho trẻ những nhận biết về đời sống sinh hoạt dân gian mà trong những sáng
tác hiện đại ít gặp
Trong chương trình giáo dục mầm non, chủ yếu trẻ tiếp xúc với dân ca
qua hình thức nghe cô hát chứ trẻ chưa thật sự được hoạt động nhiều với các
khúc đồng dao, ca dao, dân ca… Tuổi thơ của những thầy cô giáo chúng ta đã




trải qua đầy êm đềm bên những đêm trăng, những đồng ruộng, cùng nhau đọc
vè, đọc đồng dao, hát dân ca… còn trẻ của ngày nay dường như chỉ thu hẹp
trong thế giới riêng với những trò chơi hiện đại, gắn bó với thế giới ảo trên máy
tính. Đó là điều đã làm tôi trăn trở. Vì vậy, trong chương trình giảng dạy của
mình tôi đã cố gắng lựa chọn, lồng ghép một số bài dân ca phù hợp với trẻ. Tôi
hy vọng rằng dân ca sẽ mang đến cho trẻ niềm say mê hứng thú. Đó là lý do tôi
chọn đề tài: “ Mang dân ca đến gần hơn với trẻ mẫu giáo”.
II – MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Mang dân ca đến gần hơn với trẻ mẫu giáo nhằm mục đích:
1. Giáo dục nghệ thuật, bồi dưỡng tình cảm dân tộc
Mỗi đất nước, mỗi dân tộc đều có nét văn hóa riêng. Những nét văn hóa
dó là những phong tục, truyền thống, được lưu truyền từ đời này qua đời
khác.
Dân ca thường là những câu vần, lời thơ gắn liền âm điệu cao thấp. Dân
ca là vật báu mà bất cứ dân tộc nào cũng ra sức nâng niu, giữ gìn. Dân ca xuất
hiện từ nhân dân và ngược lại tác động đến đời sống nhân dân.
Dân ca Việt Nam có nhiều luyến láy. Từ những làn điệu đơn sơ, qua quá
trình phát triển trở thành những khúc dân ca. Nhịp điệu tiết tấu của dân ca liên
quan đến nhịp điệu tiết tấu của thơ. Cấu trúc dân ca Việt thường có những tiếng
đệm vào giữa hoặc cuối câu.
Dân ca Việt đa dạng, phong phú giúp trẻ dễ tiếp xúc, dễ thuộc, dễ hát, giúp
tăng vốn từ cho trẻ, giúp trẻ hiểu thêm phong tục tập quán từng vùng miền qua
các giai điệu, tiết tấu, động tác múa, trang phục,…
Trẻ tiếp xúc và hoạt động với các bài dân ca hình thành ở trẻ tình yêu quê
hương đất nước sâu đậm.
2. Hình thành và phát triển nhân cách dân tộc cho trẻ
Âm nhạc là món ăn tinh thần đối với trẻ, nếu thiếu nó trẻ chỉ là “ những
bông hoa khô héo”. Những nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng âm nhạc giúp trẻ

thoải mái, học tập và hoạt động tốt, trí nhớ phát triển, trí tưởng tưởng ngày


càng phong phú. Những âm thanh có tổ chức chặt chẽ của âm nhạc giúp phát
triển đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ...
M. Gorki nhận xét: “Âm nhạc có tác động kì diệu đến tân đáy lòng, nó
khám phá ra các phẩm chất cao quí của con người. Chính vì vậy, người lớn cần
đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục âm nhạc cho trẻ càng sớm càng tốt”.
Âm nhạc quan trọng thì âm nhạc dân tộc càng quan trọng hơn đối với trẻ.
Những cái hay, cái đẹp, những nét đặc sắc của dân tộc từ đời này sang đời khác
đã làm cho các làn điệu dân ca tác động nhiều thế hệ, đúc kết cho trẻ tâm hồn
Việt. Giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách một cách toàn diện.
3. Nâng cao chất lượng giáo dục âm nhạc cho trẻ
Tạo điều kiện cho trẻ có đời sống âm nhạc phong phú, nâng cao kỹ năng
âm nhạc cho trẻ, hát và múa nhuần nhuyễn các bài hát, đặc biệt là các bài dân
ca.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Hoạt động âm nhạc cho trẻ mẫu giáo
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phân tích tổng hợp tài liệu có liên quan đến đề tài.
- Quan sát.
- Thực nghiệm
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Đề tài này được thực hiện ở trường mầm non Hoa Mai
-Thời gian nghiên cứu: năm học 2017 – 2018( Từ tháng 9/2017 – tháng 5/2018 )
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:
Trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của âm nhạc
đối với trẻ mầm non, sự tác động của âm nhạc đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách ở trẻ.



Ở Việt Nam cũng có một số nhà sư phạm nghiên cứu đưa dân ca vào
chương trình giáo dục phổ cập. Đối với Chương trình giáo dục mầm non, chú
trọng cho trẻ làm quen dân ca qua hình thức nghe cô hát. (1993 – 1996 Vụ giáo
dục Mầm Non thực hiện chuyên đề giáo dục âm nhạc).
Việc lựa chọn và dạy dân ca cho trẻ, đặc biệt là trẻ mẫu giáo còn là vấn đề
mới mẻ. Một số tài liệu mà tôi được tiếp cận cũng đã đề cập đến vấn đề này.
Mỗi loại đề tài trên đề cập đến một khía cạnh khác nhau trong quá trình nghiên
cứu âm nhạc, đã gây cho tôi sự hứng thú. Chính vì vậy ngay từ đầu năm học, tôi
đã lồng ghép một số bài dân ca vào các chủ điểm. Tôi nhận thấy rằng trẻ đặc
biệt hứng thú với những bài hát dân ca. Trẻ hát say mê và thuộc rất nhanh các
bài hát đó. Và khi tôi cho biểu diễn múa minh họa trẻ càng say mê và thích thú
hơn, trẻ biểu diễn như những diễn viên thực thụ. Tôi mong rằng, “ Mang dân ca
đến gần hơn với trẻ mẫu giáo” sẽ giúp trẻ phát triển toàn diện hơn.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
“ Mang dân ca đến gần hơn với trẻ mẫu giáo” với hy vọng trẻ sẽ được phát triển
toàn diện, hình thành cho trẻ những yếu tố nhân cách của một con người Việt Nam
đó là việc làm không dễ. Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, tôi đã gặp những khó
khăn và thuận lợi sau:
1. Khó khăn:
- Phụ huynh đa phần làm công nhân xí nghiệp, trình độ dân trí chưa cao, thời gian
để dạy các con cong hạn chế, nên chưa quan tâm nhiều đến việc học của trẻ.
- Các bài hát dân ca thường mang tính chất vùng miền, không phù hợp với chất
giọng ở tất cả tỉnh khác.
- Những bài hát dân ca có trong chương trình chủ yếu là hát cho trẻ nghe, có rất ít
bài dạy cho cháu hát.
Đánh giá nhận thức và kĩ năng hoạt động môn hoạt động âm nhạc của trẻ khi đưa
dân ca đến với trẻ
Trình độ nhận thức


Kĩ năng hoạt động


Khảo sát Đạt
Số trẻ/tỉ lệ
30
Tỉ lệ

Chưa đạt

10
33,3 %

Đạt

Chưa đạt

20

9

21

66,6 %

30 %

70 %


2. Thuận lợi:
- Ban Giám Hiệu và chị em đồng nghiệp giúp đỡ và ủng hộ nhiệt tình.
- Giáo viên có khả năng âm nhạc, tích cực tìm tòi lựa chọn các bài dân ca
phù hợp vào hoạt động của trẻ.
- Trường, lớp rộng rãi tạo môi trường gây hứng thú cho trẻ, có đầy đủ các thiết bị
công nghệ, trang phục, đạo cụ, nhạc cụ, trò chơi dân gian để long ghép vào các bài
dân ca gây cho trẻ sự hứng thú.
- Những bài hát dân ca có lời ca mộc mạc, gần gũi với cuộc sống. Những
nốt nhạc luyến láy của dân ca tạo nên những âm thanh dễ đi vào lòng người, trẻ
thích hát, thích nghe và thuộc rất nhanh các bài dân ca.
Trong quá trình 9 tháng tổ chức thực hiện đề tài “ Mang dân ca đến gần
hơn với trẻ mẫu giáo” tôi đã không ngừng tìm kiếm, học hỏi, sáng tạo ra những
phương pháp nhằm thu hút trẻ về với âm nhạc dân tộc. Để có cơ sở nghiên cứu các
biện pháp “ Mang dân ca đến gần hơn với trẻ mẫu giáo” tôi đã tiến hành điều tra
thực trạng chung của việc đưa một số bài dân ca vào hoạt động của trẻ trong
trường mầm non Hoa Mai để làm cơ sở đề xuất, hệ thống một số biện pháp mang
dân ca đến gần hơn với trẻ.
a, Nội dung điều tra:
- Thăm dò ý kiến của giáo viên về nhận thức vấn đề mang dân ca đến cho
trẻ mẫu giáo.
- Điều tra việc giáo viên tổ chức đưa dân ca đến cho trẻ thông qua tiết học
và một số hoạt động của trẻ ở trường mầm non.


- Điều tra việc soạn giáo án tiết học và hoạt động của giáo viên.
- Quan sát và khảo sát trẻ.
b, Phương pháp điều tra:
- Lên kế hoạch và tổ chức hoạt động học tại lớp
- Dự giờ, quan sát tiết dạy và hoạt động của một số giáo viên trong nhà trường
- Ghi chép và phân tích kết quả dự giờ

- Trao đổi, trò chuyện, đàm thoại với trẻ
c, Phân tích kết quả điều tra:
* Việc soạn giáo án của giáo viên:
Qua điều tra tôi thấy mục đích, yêu cầu đặt ra trong giáo án còn chung chung.
Chủ yếu giáo viên chỉ mới xác định một số mục đích, yêu cầu sau:
- Trẻ biết tên bài dân ca.
- Hát đúng giai điệu của bài đồng thời có thể vận động minh họa. Hứng thú
nghe cô hát.
- Chỉ chủ yếu mang dân ca đến cho trẻ dưới hình thức nghe cô hát.
- Nhưng hầu hết các giáo án chưa đề cập đến việc chú ý cho trẻ làm quen,
hát, biểu diễn, thể hiện, cảm nhận bài dân ca của các vùng miền.
* Điều tra tiết học và hoạt động mang dân ca đến cho trẻ mẫu giáo:
Tôi đã tiến hành dự trên tiết học và hoạt động của một số giáo viên.
Tổng số tiết được dự 2, hoạt động 3
Tiết thứ nhất: Giáo viên: Nguyễn Thị Thanh Thảo, lớp MG Lớn 1, chủ đề Nghề
nghiệp
- ND chính: Nghe hát “ Đi cấy”
- Nội dung kết hợp: + Trò chơi với nhạc cụ dân tộc “ Đi cà kheo”


Nghe hát Đi cấy


Trò chơi đi cà kheo
Tiết thứ hai: Giáo viên: Phạm Thị Giang, lớpMG Nhỡ 2, chủ đề Động vật
- ND chính: Dạy VĐMH: Chú voi con ở Bản Đôn
- Nội dung kết hợp: + Nghe hát: Cò lả – Dân ca Đồng bằng Bắc Bộ
+ Trò chơi âm nhạc: Tiếng hát ở đâu.



Nghe hát “ Cò Lả”
Tiết thứ 3: Giáo viên:Trần Thị Quỳnh Dao, lớp MGLớn 3, chủ đề Thế giới thực vật
- ND chính: Nghe hát: lý cây bông – Dân ca Nam bộ
- Nội dung kết hợp: Hát, vỗ tay theo tiết tấu chậm: Em yêu cây xanh
- Trò chơi âm nhạc: Thử tài của bé


Bài hát “ Lý cây bông”
Hoạt động đón trẻ của lớp: Cho trẻ nghe làn điệu dân ca: Lý cây bông
– Dân ca Nam Bộ
Hoạt động góc của các lớp: Trẻ biểu diễn một bài dân ca: Inh lả ơi – Dân
ca Thái.


Bài hát Inh lả ơi ( Dan ca Thái)
* Kết luận: Trong quá trình điều tra thực trạng “ Đưa dân ca gần hơn đến
với trẻ mẫu giáo” thông qua dự giờ của giáo viên tôi nhận thấy:
* Ưu điểm:
- Về phía giáo viên:
+ Có sự chuẩn bị giáo án trước khi dạy và tổ chức hoạt động cho trẻ.
+ Nắm được phương pháp cơ bản của tiết học.
+ Chuẩn bị đồ dùng trực quan đầy đủ.
- Về phía trẻ: Nhìn chung đa số trẻ có nề nếp học tập, chú ý lắng nghe cô hát.
* Nhược điểm:
- Đối với giáo viên:


+ Một số giáo viên tiến hành dạy trẻ theo kiểu “dập khuôn”, “cứng nhắc”,
chưa linh hoạt, sáng tạo.
+ Giọng hát của giáo viên chưa truyền đạt hết tình cảm và nội dung của bài

dân ca.
+ Tiết học chưa mang tính logic, chưa phát huy ở trẻ tính tích cực, chủ động
và sự hứng thú, yêu thích các làn điệu dân ca.
+ Một số giáo viên lựa chọn bài dân ca đưa vào hoạt động chưa phù hợp lắm
với nội dung chủ đề.
- Đối với trẻ:
+ Một số trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn, tự tin.
+ Khả năng hiểu và cảm nhận, thể hiện một số bài dân ca của một số trẻ còn
hạn chế.
Từ những lí do trên tôi nhận thấy rằng cần phải có hệ thống một số biện
pháp để giáo viên vận dụng linh hoạt việc tổ chức hoạt động “Mang dân ca gần
hơn đến với trẻ mẫu giáo” nhằm phát huy tính tích cực, chú ý vào khả năng
hoạt động nghệ thuật của trẻ, giúp trẻ thêm hiểu, thêm yêu những làn điệu dân
ca mượt mà đằm thắm mà say đắm lòng người của các vùng miền của đất nước
Việt Nam, góp phần phát triển toàn diện cho trẻ.
Để “ Mang dân ca đến gần hơn với trẻ mẫu giáo” tôi đã sử dụng một số
biện pháp như sau:
- Sưu tầm các bài dân ca dễ học, dễ nhớ và phù hợp chủ điểm giáo dục
trường mầm non.
- Nắm vững phương pháp tổ chức hoạt động âm nhạc cho trẻ ở trường
mầm non.
- Giúp trẻ hiểu được nội dung ngôn ngữ riêng của từng bài dân ca làm
phong phú vốn từ cho trẻ.
- Dạy dân ca mọi lúc mọi nơi.


- Chuẩn bị trang phục, đạo cụ để trẻ múa vận động minh họa biểu diễn cho các bài
dân ca.

Chuẩn bị trang hục và đạo cụ để tiêt học them sinh động

- Kết hợp với phụ huynh tổ chức các hoạt động lễ hội ở trường.
III – MỘT SỐ BIỆN PHÁP “MANG DÂN CA ĐẾN VỚI TRẺ MẦM
NON”:
1. Sưu tầm các bài dân ca dễ học, dễ nhớ và phù hợp chủ đề giáo dục trong
trường mầm non:
Mỗi bài dân ca đều có nét đặc sắc riêng, mỗi một giai điệu, tiết tấu trong
bài dân ca thể hiện tính chất trữ tình, phản ánh sinh hoạt, hoạt động, cuộc sống,
tình cảm của nhân dân. Dân ca Việt Nam mang tính chất vùng miền rõ rệt. Mỗi
miền có thể loại dân ca riêng mà khi hát lên người ta sẽ nhận ra ngay đó là dân
ca miền nào. Điều đó cũng tạo nên nét đặc sắc của dân ca Việt Nam. Dân ca
Nam bộ với những bài lí như Lí con khỉ, Lí cây bông, Lí cây khế,… nhẹ nhàng
đi vào lòng người với những sản vật trú phú của Nam bộ. Dân ca Bắc bộ vui vẻ,
hóm hỉnh thể hiện cuộc sống lao động vật vả của người nông dân Bắc bộ: Cái
Bống, Bà Còng,… Dân ca Trung bộ thì sâu lắng và trữ tình. Mỗi một miền lại
thể hiện những động tác, những trang phục riêng khác nhau. Đó chính là nét đẹp


của con người Việt Nam. Vì vậy khi tôi chọn đề tài “Mang dân ca đến gần hơn
với trẻ” tôi đã sưu tầm những bài hát dân ca phù hợp với trẻ để trẻ có thể hát,
múa, trải nghiệm và lớn lên cùng dân ca dân tộc. Đặc biệt các bài dân ca đó phải
lồng ghép được vào một số chủ điểm của chương trình giáo dục Mầm non.
Ví dụ: Chủ điểm nghề nghiệp: Tập tầm vông, Rềnh rềnh ràng ràng…
Chủ điểm động vật: Lý chim sáo, Lý con khỉ, Câu ếch…
Chủ điểm thực vật: Bầu và bí, Lý cây bông,…
Chủ điểm gia đình: Cái Bống, Bà Còng đi chợ,…
Chủ điểm quê hương: Cò lả, Inh lả ơi,…
Do tính chất vùng miền của dân ca, nên việc đầu tiên tôi làm là tìm kiếm
những bài dân ca, đồng dao phổ nhạc của đồng bằng Bắc bộ, bởi nói tới đồng
dao là nói đến những gì quen thuộc nhất trong cuộc sống hàng ngày của trẻ.
Đồng dao mang tính chất truyền khẩu, bản thân trẻ đã thuộc sẵn những bài đồng

dao qua những trò chơi dân gian. Do đó với những bài đồng dao phổ nhạc trẻ
cũng sẽ thuộc nhanh chóng. Ví dụ: bài Bà Còng, bài Cái Bống, Bầu và Bí, Gánh
gánh gồng gồng, Rềnh rềnh ràng ràng, Tập tầm vông,…
Và sau đó là lựa chọn những bài dân ca ở các vùng miền khác để hát cho
trẻ nghe: Cây trúc xinh, Inh lả ơi, Hoa thơm bướm lượn… Các bài dân ca ở các
vùng miền khác nhau để mang đến cho trẻ những trải nghiệm khác nhau. Qua đó
trẻ sẽ càng yêu thêm quê hương, đất nước, con người Việt Nam.
Điều quan trọng mà người giáo viên cần làm ở đây là lựa chọn những bài
dân ca nào phù hợp để đưa vào các chủ điểm trong chương trình giáo dục mầm
non. Ví dụ: Với chủ điểm Thực vật tôi chọn bài “Lý cây bông” hoặc bài “Bầu và
bí” để giới thiệu trẻ một số loại hoa, loại rau quen thuộc. Cũng có thể cho trẻ
nhận biết số lượng. Qua đó, giáo viên có thể giáo dục trẻ chăm sóc, bảo vệ cây,
đặc biệt nói cho trẻ biết tình đoàn kết yêu thương lẫn nhau của cùng một dân
tộc, một giống nòi.
Với chủ điểm Động vật: Tôi chọn bài “Lý con khỉ”, “Cò lả” hoặc “Chim
sáo”,…. giới thiệu trẻ một số loài động vật trong rừng, ở nhà… cho trẻ biết về
tiếng hót của chim sáo, chim cất tiếng hót vang trong rừng cho thấy khung cảnh


thanh bình và yên ả. Trẻ biết về khỉ, về vùng đất gọi là đảo khỉ nơi mà khỉ và
con người sống chung.
2. Nắm vững phương pháp tổ chức hoạt động âm nhạc cho trẻ ở trường
mầm non:
a, Phương pháp truyền khẩu:
Khi dạy trẻ một bài hát, điều quan trọng là giáo viên phải hát đúng ca từ
và giai điệu của bài. Cô giáo cần làm sáng tỏ nội dung của bài dân ca, thể hiện
sự hiểu biết của cá nhân về bài dân ca đó để tăng thêm sức truyền cảm, gây ấn
tượng thính giác cho trẻ.

Phương pháp truyền khẩu

Có thể cho trẻ đọc các bài ca dao, đồng dao mà trẻ thuộc đã được phổ
nhạc sau đó dạy trẻ hát cả bài, từng câu, từng đoạn tùy thuộc vào độ dài ngắn
của bài. Như vậy trẻ sẽ rất thích thú và nhanh chóng tiếp nhận bài dân ca đó.
b, Phương pháp đàm thoại:


Phương pháp đàm thoại
Trao đổi gợi mở với trẻ về nội dung của bài dân ca về ca từ, giai điệu, tiết
tấu,… Phương pháp này nhằm kích thích hoạt động nhận thức của trẻ, đòi hỏi
lôi cuốn trẻ tham gia trao đổi, bộc lộ suy nghĩ, cảm nhận riêng của mình về bài
dân ca. Hay nói cách khác là khen ngợi để trẻ bộc lộ khả cảm thụ âm nhạc. Từ
đó trẻ thêm hiểu, thêm yêu các làn điệu dân ca đằm thắm, mượt mà. Trao đổi, gợi
mở cho trẻ những hình ảnh đẹp trong các làn điệu dân ca. Những điều cô giáo
mang đến cho trẻ bộc lộ suy nghĩ, sự sáng tạo, nêu lên được cảm nhận riêng của
mình về làn điệu dân ca đôi khi không phải xuôi chiều mà phải là trái ngược để trẻ
nêu được nhận xét, cảm nhận của mình sau đó sẽ cùng quyết định theo cái chung
nhất. Ví như dạy trẻ múa bài “Cái Bống”, cô giáo không nên đưa ngay hình thức
múa dân gian ra dạy trẻ mà đưa ra các hình thức múa Ba lê, nhảy Hiphop,… để
cùng trẻ trao đổi sau đó đưa ra hình thức vận động phù hợp nhất cho giai điệu của
bài (Múa dân gian).
c, Phương pháp sử dụng hình tượng trực quan:


Hình tượng trực quan rất quan trọng đối với trẻ vì tư duy của trẻ là tư duy
trực quan hình tượng. Vì vậy khi mang đến cho trẻ những làn điệu dân ca có đồ
dùng trực quan để minh họa thì càng giúp cho khả năng cảm thụ âm nhạc của
trẻ tốt hơn.
Đồ dùng trực quan như là: hình ảnh, phim, video, clip, đạo cụ biểu diễn,
… có liên quan đến nội dung bài dân ca thực sự có ý nghĩa rất lớn để trẻ có thể
tiếp thu nhanh nhất, trẻ có cảm xúc tuyệt vời nhất đối với những làn điệu dân ca,

các điệu hò, vè, đồng dao,….

Sử dụng hình ảnh trực quan
Ngoài các hình tượng trực quan trên thì cử chỉ, nét mặt, trang phục biểu
diễn của cô giáo và trẻ là một phương tiện trực quan sinh động khêu gợi cảm
xúc thẩm mỹ của trẻ, góp phần rất quan trọng vào thành công của tiết học. Còn
gì tuyệt vời hơn khi múa biểu diễn bài “Cái Bống” trẻ được mặc yếm, váy đụp;
được mặc quần áo bà ba khi biểu diễn bài “Lý cây bông”; được xúng xính trong
bộ váy dân tộc và cầm ô để hát múa “Inh lả ơi”,….


d, Phương pháp sử dụng các trò chơi âm nhạc mang tính dân ca:

Tích hợp trò chơi dân gian vào nội dung học của trẻ
Trò chơi âm nhạc là một phần rất quan trọng trong hoạt động giáo dục âm
nhạc trên tiết học. Trong trò chơi âm nhạc trẻ được phát triển trí nhớ, tai nghe,
sự nhanh nhẹn, tự tin, năng động của mình.
Với việc “mang dân ca đến gần hơn cho trẻ mẫu giáo” thì những trò chơi
âm nhạc có tính chất dân ca tôi thường sử dụng như: Nghe dân ca đoán tên làn
điệu; Thi hát đối đáp các bài đồng dao, vè,…; Nghe âm thanh đoán tên nhạc cụ
dân tộc;….. được trẻ đón nhận rất tích cực và hứng thú.
Để trò chơi không bị lặp lại nhiều dễ gây nhàm chán cho trẻ giáo viên cần
linh hoạt lựa chọn, cải biên trò chơi phù hợp với tiết dạy của mình. Như trò chơi
“Hát theo hình vẽ” tôi lựa chọn những hình ảnh liên quan đến các bài dân ca gần
gũi mà trẻ biết. Hay trò chơi “Nghe bài hát đoán tên bạn hát” tôi hướng cho trẻ
lên chơi hát các bài dân ca mà trẻ thích….
3. Giúp trẻ hiểu được nội dung, ngôn ngữ riêng của từng bài dân ca làm
phong phú thêm vốn từ cho trẻ:
Trẻ có thể biết được các bài dân ca cô dạy nhưng điều quan trọng là giáo
viên phải giúp trẻ hiểu được nội dung của những bài hát đó, hiểu được những từ

trong các bài hát của các vùng miền khác, đặc biệt là trong dân ca Việt Nam


thường hay có những tiếng đệm ở giữa hoặc cuối câu để mở rộng khuôn khổ
câu: ối a, chi rứa, í a, ơ, i, u…
Ví dụ: Chủ điểm Gia đình
Bài “Cái Bống” cô phải nói cho trẻ biết đây là bài dân ca Bắc bộ được phổ
nhạc từ bài đồng dao cổ, bài hát tiêu biểu cho việc làm đẹp của con người. Bài
hát miêu tả Cái Bống giúp mẹ với những việc làm rất khéo léo “Kéo sẩy kéo
sàng…” và giúp mẹ gánh gồng để chạy một cơn mưa. Giáo viên phải giải thích
nhưng từ có trong bài hát, “Bống” tên riêng của một cô bé người miền Bắc, ở
miền Bắc người ta hay dùng từ để gọi trước tên riêng là “cái”. “Kéo sẩy kéo
sàng” là động tác sàng lúa, Bống dùng một cái sàng xoay tròn để những hạt lúa
lép rơi ra ngoài. Bài hát ca ngợi tấm lòng hiếu thảo của Bống, tuy nhỏ nhưng
Bống đã có thể giúp mẹ làm những việc đơn giản. Qua đó giáo viên giáo dục trẻ
tình cảm gia đình, là con phải biết yêu thương kính trọng ông bà, cha mẹ.
Bài “Bà Còng”, đây là bài hát phổ từ ca dao cổ nói về một người bà đã già
lưng còng, khi bà đi chợ, do không cẩn thận, bà đã đánh rơi tiền. “Cái tôm cái
tép” trong bài hát là những bạn nhỏ khi nhìn thấy của rơi đã nhặt lên trả lại cho
bà. Giáo viên giáo dục trẻ kính trọng, giúp đỡ người lớn tuổi như ông bà, cha
mẹ… giáo dục trẻ thái độ kính trọng người khác.
Chủ điểm Quê hương, đất nước tôi chọn bài “Cò lả”, “Hoa thơm bướm lượn” hoặc
“Inh lả ơi”.“Inh lả ơi” là lời mời gọi các bạn dân tộc Thái, bài hát ca ngợi cảnh
núi rừng Tây Nguyên xinh đẹp, ca ngợi mùa xuân đất nước muôn hoa tươi đẹp.
Qua bài hát trẻ sẽ biết thêm về một vùng đất Tây Nguyên của Việt nam, đó là nơi
muôn hoa, lá luôn khoe sắc tươi màu. Các bạn ở đó thân thiện và vui vẻ.
Bài “Cò lả” lại là một cảnh đẹp khác của đất nước Việt Nam, là một vùng đồng
bằng Bắc bộ trù phú với những cánh đồng cò bay thẳng cánh. Nơi đó có những con
người chịu thương chịu khó mà ai đi qua cũng sẽ nhớ.Bài “Hoa thơm bướm lượn”,
dân ca Quan họ Bắc Ninh với giai điệu mượt mà, đằm thắm nói về cảnh đẹp của

quê hương, đất nước, con người.Khi tiếp xúc với các bài dân ca vốn từ của trẻ tăng
rõ rệt, trẻ biết được thêm cả từ của các vùng miền khác, điều đó giúp cho trẻ dễ
dàng làm quen văn học, làm quen chữ viết.
4. Dạy dân ca mọi lúc mọi nơi:


Dạy mọi lúc mọi nơi là không phải lúc nào cũng bắt trẻ hát, múa dân ca,
như vậy dễ gây nhàm chán. Do đó, người giáo viên cần phải linh hoạt áp dụng
vào các hoạt động trong ngày của trẻ. Hoặc có thể lồng ghép vào các môn
học khác: Làm quen văn học, làm quen toán, làm quen môi trường, tạo hình…
Ví dụ:
+ Trong tiết làm quen văn học: Kể “Quả bầu tiên”, cô có thể dẫn dắt bằng
cách cho trẻ hát dân ca “Bầu và bí”. Cô hướng trẻ đến tình đoàn kết dân tộc
thương yêu đồng loại, tình cảm thương yêu với loài vật xung quanh, giáo dục trẻ
nhân cách tốt đẹp, khi biết yêu thương giúp đỡ người khác.
+ Trong hoạt động ngoài trời: Cô tổ chức trẻ chơi trò chơi dân gian tập
tầm vông, qua đó cô giới thiệu trẻ bài dân ca “Tập tầm vông”.
+ Trong hoạt động góc:
 Góc âm nhạc: Cô có thể bật nhạc cho trẻ múa minh họa động tác cho bài

“Cái Bống”, “Bà Còng đi chợ”,….
Trẻ múa minh hoạ bài “Bà còng đi chợ trời mưa”
Trẻ múa bài “Cái Bống”
Một số dụng cụ tại góc âm nhạc lớp tôi
 Góc thiên nhiên: Cô có thể tổ chức cho trẻ trồng hoa chăm sóc hoa, trẻ có

thể vừa làm vừa hát “Hoa trong vườn” (Dân ca Thanh Hóa).
 Trong làm quen với toán: Cô cho trẻ hát “Lý cây bông” trẻ sẽ đếm số

lượng, màu sắc cho các loại hoa trong bài dân ca.

 Trong làm quen MTXQ: ở chủ điểm gia đình cô có thể gợi mở bằng cách

hát ru Ru em (Dân ca Xê Đăng) hoặc Ru con (Dân ca Nam bộ) nói cho trẻ
biết về tình cảm thiết tha của người mẹ, người chị qua lời ru ngọt ngào
của các bài dân ca đó.
 Trong giờ tập thể dục buổi sáng cô có thể mở cho trẻ nghe “Gà gáy le te”

(Dân ca Cống Khao) tạo cho trẻ không khí của một ngày mới sinh động.
5. Chuẩn bị trang phục, đạo cụ để trẻ múa vận động minh họa biểu diễn
cho các bài dân ca


Giáo viên dạy hát dân ca, cho trẻ nghe dân ca thì vẫn chưa đủ, điều quan
trọng hơn là cần cho trẻ trải nghiệm hóa thân vào những nhân vật trong các bài
dân ca. Điều đó sẽ khắc sâu trong trẻ những hình tượng về con người của từng
vùng miền trên đất nước Việt Nam
Khi cho hát trẻ múa các bài dân ca Bắc bộ cô có thể chuẩn bị trang phục
Bắc bộ: Váy đụp, áo tứ thân, áo yếm bên trong, đầu vấn khăn. Đạo cụ hay nhạc
cụ đi kèm sẽ tùy theo các bài hát.
Ví dụ: Với bài “Cái Bống” cô chuẩn bị những cái thúng hoặc mẹt. Với bài
“Bà Còng đi chợ” chuẩn bị gậy, mũ tôm tép. Với bài “Trống cơm” cô chuẩn bị
phách tre, trống, trẻ trai có thể chuẩn bị áo dài, khăn đóng. Trống cơm, Mẹt
Còn khi trẻ múa, hát các bài dân ca Nam bộ, trẻ cần phải có áo bà ba, quần dên,
khăn rằn.
Trẻ hát bài “Lý cây bông”
Trang phục, đạo cụ, nhạc cụ là một phần không thể thiếu khi “mang dân
ca đến gần với trẻ”. Những tiết tấu, giai điệu, nhịp điệu đem âm thanh đến cho
trẻ thì trang phục sẽ mang đến cho trẻ những hình ảnh đẹp để qua đó trẻ thêm
yêu dân ca, trẻ say mê và thích thú với dân ca.
IV. NHỮNG KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC KHI ÁP DỤNG:

- Qua một thời gian áp dụng những biện pháp “ Mang dân ca đến gần hơn với trẻ
mẫu giáo”
+ Về kiến thức: Trẻ biết tên bài dân ca, biết các bài hát thuộc thể loại dân ca vùng
miền nào, biết các nét đặc trưng của từng vùng miền qua nội dung các bài hát, bồi
bổ đời sống tâm hồn, đồng thời cũng là tiền đề cho việc hình thành và phát triển
toàn diện các mặt nhân cách cho trẻ, tạo nên những nét tính cách, phẩm chất cần
thiết để trẻ bước vào cấp Tiểu học.
+ Về kỹ năng: Hát đúng giai điệu của bài đồng thời có thể vận động minh họa,
cảm thụ được giai điệu bài hát, phát âm mạch lạc và truyền cảm khi hát, một số trẻ
có kĩ năng băt chước giọng hát đặc trưng theo tùng vùng miền rất tốt.
+ Về thái độ: Chú ý khi nghe cô hát, Hứng thú khi hát các bài dân ca, thể hiện
cảm xúc và hòa mình vào lời bài hát.


Kết quả khảo sát cuối năm:
Khảo sát
Số trẻ/tỉ lệ

Trình độ nhận thức
Đạt

30
Tỉ lệ

Chưa đạt
25

83,3 %

5

16,6 %

Kĩ năng hoạt động
Đạt

Chưa đạt
27

90 %

3
10 %

Như vậy biện pháp nghiên cứu đưa ra để nâng cao hiệu quả của trẻ về việc
mang dân ca đến gần hơn với trẻ mẫu giáo đã thành công.

C. PHẦN KẾT LUẬN
I. VAI TRÒ VÀ TẦM QUAN TRỌNG
Sự tồn tại của ca dao dân ca trong đời sống sinh hoạt hằng ngày còn thể hiện ở
những hoạt động giáo dục tư tưởng, tình cảm, lối sống, đạo đức. Trong đời sống
hằng ngày vẫn dễ dàng bắt gặp việc sử dụng ca dao trong lời nói để răn dạy những
bài học trong cuộc sống. Cha mẹ răn dạy con cái, người lớn tuổi răn dạy người nhỏ
tuổi, hoặc là nhắc nhở chính bản thân mình, những quá trình ấy đều có thể sử dụng
ca dao để tác động vào tư tưởng, tình cảm của người nghe. Trong lời nói hằng
ngày, tục ngữ có tần số sử dụng nhiều hơn ca dao, nhất là trong những hoạt động
giáo dục. Điều này cũng dể hiểu, do đặc trưng thể loại, tục ngữ là những câu nói
ngắn gọn, đúc kết những kinh nghiệm đã được kiểm chứng qua thời gian nên có
tính thuyết phục cao. Đặc điểm dễ nhớ và giàu tính thuyết phục này giúp cho tục
ngữ được sử dụng thường xuyên được sử dụng, gần như đã trở thành lời ăn, tiếng
nói. Tuy vậy, điều đó không có nghĩa là tục ngữ thay thế hoàn toàn vai trò của ca

dao trong lời ăn tiếng nói hằng ngày. Nếu tục ngữ là tiếng nói của lí trí, là kinh
nghiệm được đúc kết, thì ca dao là tiếng nói của tình cảm, là khúc tâm tình giàu
nhạc điệu. Nếu tục ngữ tác động vào tư tưởng bằng con đường của lí trí, của chân
lí, thì ca dao tác động vào tư tưởng bằng con đường tình cảm, trái tim. Con đường
mà ca dao lựa chọn là con đường nhuần nhị nhất mà cũng thấm thía nhất. Tuy vậy


cũng phải thấy rằng, hình thức để ca dao đi vào tâm tưởng người nghe thời nay đã
khác xưa rất nhiều, ca dao, trong hoạt động giáo dục trong đời sống, đang dần rời
xa khỏi hình thức diễn xướng khởi nguyên của nó là hát, mà từ từ trở thành đọc ca
dao, nói ca dao, hát dân ca dạy chúng ta biết yêu lao động và biết quý trọng công
sức của người lao động.Đó là bài học mà thuở nhỏ cha mẹ vẫn thường dạy chúng
ta, để chúng ta không phung phí đồ ăn, thức uống, và cũng là để chúng ta biết quý
trọng, nâng niu công sức vất vả một nắng hai sương quanh năm làm lụng của người
nông dân. Ngoài ra, ca dao dân ca còn dạy chúng ta biết yêu thương quý trọng gia
đình, quý trọng những tình cảm thiêng liêng, cao cả mà gần gũi, ấm áp, dân ca còn
miêu tả cái hay cái đẹp của con người và đất nước Việt Nam.

II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Sau một thời gian nghiên cứu đề tài này, tuy là kết quả đã có phần chuyển
biến rõ rệt được thể hiện cụ thể trên trẻ song vẫn còn nhiều hạn chế do rất nhiều
yếu, cần trang bị thêm các loại máy vi tính, máy chiếu ,băng đĩa, đàn để phục vụ
các môn học đặc biệt là môn âm nhạc, tăng cường chọn lọc ,bổ sung các bài hát
dân ca vào chương trình của nghành học mầm non.
Nghành giáo dục mầm non là một trong những nghành học đặc biệt quan trọng
trong sự nghiệp trồng người. Chính vì vậy là một giáo viên cần có phẩm chất đạo
đức, lối sống, tư tưởng, lập trường vững vàng, luôn bồi dưỡng và nâng cao nghiệp
vụ sư phạm của mình để mang tri thức thắp sáng thế hệ mầm non .
Qua 9 tháng thực hiện đề tài “mang dân ca đến gần hơn với trẻ mẫu giáo” tôi nhận
thấy trẻ thật sự say mê ca hát , thích vận động theo các bài hát dân ca. Từ đó tôi

thấy trẻ trở nên linh hoạt, dễ gần gũi hơn, đẹp và duyên dáng hơn. Vì những điều
đó đã khuyến khích tôi luôn luôn cố gắng tìm tòi sáng tạo ra nhiều phương pháp để
truyền đạt kiến thức tới trẻ.Và mỗi sự cố gắng đó đã mang lại kết quả đáng mừng.
III. NHỮNG ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
1. Đối với ngành giáo dục.
- Tổ chức bồi dường thường xuyên cho các giáo viên Mầm non về chuyên đề
tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ để giúp giáo viên nắm bắt, tiếp cận những vấn
đề đổi mới.


- Tổ chức các nội dung thi dạy để các giáo viên có điều kiện phát huy trao
đổi, rút kinh nghiệm về khả năng tổ chức cũng như sử dụng các biện pháp dạy học
phù hợp.
- Bổ sung hỗ chợ tài liệu mới trong và ngoài nước để giáo viên được học hỏi,
tiếp cận những cái mới.
2. Đối với nhà trường.
- Tạo điều kiện cho giáo viên tham quan, học hỏi dự giờ những tiết dạy mẫu,
dạy giỏi để nâng cao trình độ.
- Khuyến khích giáo viên đăng ký thi đua dạy tốt cách tổ chức hoạt động vui
chơi cho trẻ , viết sáng kiến kinh nghiệm để giáo viên trong trường học hỏi lẫn
nhau.
- Cần trang bị đầy đủ vật chất, đồ dùng dạy học cho cô và trẻ.
3. Đối với giáo viên.
- Tích cực học tập, học hỏi để nâng cao trình độ tay nghề.
- Chịu khó sưu tầm, nghiên cứu để tìm những hình thức tổ chức cũng như
các biện pháp dạy học phù hợp nhất với mỗi tiết dạy.
- Kết hợp với phụ huynh để có biện pháp giáo dục trẻ một cách tốt nhất ở gia
đình và nhà trường.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi đưa ra, vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót
mong được các cấp lãnh đạo bổ xung và cộng nhận kinh nghiệm trong công tác

cham sóc và giáo dục trẻ mãu giáo.
Ngày 8 tháng 12 năm 2018
Người viết
Nguyễn Thị Thanh Thảo



×