Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

tác PHẨM KINH điển mác – LÊNIN-Tiểu luận cao học,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.18 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Những năm đầu thế kỷ XIX,khi mà chủ nghĩa tư bản bước vào thời kỳ phát
triển mạnh mẽ của mình thì cũng là lúc các cuộc bãi công, đấu tranh của giai cấp
công nhân nổ ra mạnh mẽ. Bởi lẽ kéo theo sự phát triển của chủ nghĩa tư bản là
sự bóc lột tận cùng đối với giai cấp công nhân.Giai cấp tư sản sống và tồn tại
nhờ vào việc bóc lột giá trị thặng dư.Giai cấp công nhân không có trong tay tư
liệu sản xuất buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị bóc lột, đối xử
thậm tệ. Khi mà không thể chịu đựng hơn nữa sự bóc lột, họ đã cùng nhau đứng
lên đấu tranh. Kết quả là các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở Tây
Âu nổ ra điển hình như: Năm 1831, công nhân dệt ở thành phố Li-ông (Pháp)
khởi nghĩa đòi tăng lương, giảm giờ làm và đòi thiết lập chế độ cộng hòa.Họ nêu
cao khẩu hiệu “Sống trong lao động, chết trong chiến đấu”.Cuộc khởi nghĩa cuối
cùng bị giới chủ đàn áp.Năm 1844, công nhân dệt vùng Sơ-lê-din (Đức) khởi
nghĩa, chống lại sự hà khắc của giới chủ.Khởi nghĩa bị đàn áp đẫm máu.Từ năm
1836 đến năm 1847, ở Anh diễn ra “Phong trào Hiến chương”. Hình thức đấu
tranh của phong trào này là mít tinh, biểu tình, đưa kiến nghị (có hàng triệu chữ
kí) đến quốc hội đòi quyền phổ thông bầu cử, tăng lương, giảm giờ làm cho
người lao động. Tất cả các phong trào cuối cùng bị dập tắt và bị đàn áp trong bể
máu.Sự thất bại của các cuộc đấu tranh này là do chưa có một lý luận tiên tiến
để dẫn dắt phong trào.Nghiên cứu thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân
C.Mác và P.Ăngghen đã viết tác phẩm Tuyên ngôn của đảng cộng sản.Đây là tác
phẩm có tính chất cương lĩnh đầu tiên của thế giới quan mácxit,đánh dấu sự hình
thành của học thuyết MLN(Mác-Lênin) trên cơ sở triết học của nó.Lần đầu tiên
những cơ sở khoa học của chủ nghĩa Mác đã được trình bày một cách hệ thống
và hoàn chỉnh.Từ khi ra đời tuyên ngôn đã có ảnh hưởng to lớn đến phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế.Tuyên ngôn khi được phổ biến vào phong trào


công nhân đã làm cho giai cấp công nhân từ chỗ tự phát trở thành tự giác trong
hành động cách mạng của mình.Nó cung cấp cho họ thế giới quan khoa họ, chỉ
2


ra được nội dung, tiến trình,phương thức,… tiến hành cách mạng cho giai cấp
công nhân, giúp họ giác ngộ được sứ mệnh lịch sử của mình.Chủ nghĩa MLN
nói chung và tác phẩm Tuyên ngôn của đảng cộng sản nói riêng đã làm cho giai
cấp công nhân biến đổi về chất,nó không chỉ là cương lĩnh dẫn đường cho các
cuộc cách mạng của giai cấp công nhân ở Tây Âu ở thời điểm bấy giờ mà nó
còn tác động mạnh mẽ tới các phong trào công nhân trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc ở tất cả các nước thuộc địa trên thế giới sau này,trong đó có Việt
Nam.Nhờ quán triệt, vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác Lê nin (Tuyên ngôn là tác phẩm mở đầu) phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của
đất nước mà Đảng ta đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam lần lượt vượt
qua mọi thử thách,khó khăn.Tuyên ngôn là ngọn đèn pha cho cách mạng Việt
Nam trên con đường phấn đấu vì mục tiêu cao đẹp “Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh” .Tác phẩm tuyên ngôn của đảng cộng sản có
ý nghĩa thời đại vô cùng to lớn. Đề tài tiểu luận này đi nghiên cứu sâu về những
giá trị về mặt lý luận mà tác phẩm này mang lại cho phong trào công nhân và vô
sản thế giới trong cuộc cách mạng vô sản nói chung và cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở Việt Nam nói riêng.
Kết cấu bài tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1.Ý nghĩa thời đại của tác phẩm Tuyên ngôn của đảng cộng sản
Chương 2.Tuyên ngôn của đảng cộng sản đối với cách mạng Việt Nam

3


Chương 1:Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA TÁC PHẨM

TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
1. Hoàn cảnh ra đời của tuyên ngôn

Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là bản cương lĩnh cách mạng đầu tiên của
phong trào cộng sản và công nhân thế giới, là tác phẩm lý luận tổng kết toàn bộ
quá trình hình thành chủ nghĩa Mác, trình bày những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác, thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản. Tác phẩm này do Các
Mác và Phê-đê-rích Ăng-ghen soạn thảo vào cuối năm 1847, được công bố vào
tháng 02 năm 1848 và xuất bản vào tháng 3/1848.
Mục đích của tác phẩm như C.Mác và Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ: "Hiện nay
đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới
những quan điểm, ý đồ của mình và phải có một Tuyên ngôn của Đảng của mình
để đập lại một câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản".
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
(TBCN) đã thống trị ở Anh, Pháp và trong một chừng mực nào đó ở Đức. Ở
nhiều nước Tây Âu, quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB) diễn ra
khá mạnh mẽ.Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng gây
gắt.Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất TBCN đã trở nên không thể
điều hòa được.Những mâu thuẫn giai cấp vốn có của CNTB mà trước hết là mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt.
Do đó, ở thời kỳ này, phong trào vô sản đã phát triển mạnh mẽ và giai cấp
vô sản ngày càng chứng tỏ là một lực lượng xã hội to lớn, đóng một vai trò quan
trọng trong đời sống chính trị - xã hội của quốc gia. Giữa những năm 40 của thế
kỷ XIX, trung tâm của phong trào cách mạng chuyển sang nước Đức. Giai cấp
vô sản Đức tiến hành cuộc đấu tranh của mình nhưng sự giác ngộ của họ còn
yếu kém. Giữa lúc đó, Mác và Ăng-ghen nhận thức sâu sắc rằng: cần phải làm
cho giai cấp vô sản trở thành một lực lượng độc lập và làm cho họ tiến gần tới
việc thực hiện những mục đích của cộng sản chủ nghĩa. Tại Luân Đôn (thủ đô
4



nước Anh) tổ chức "Liên minh những người chính nghĩa" ra đời năm 1836 và
cuối năm 1847 họp Đại hội lần thứ hai.Mác và Ăng-ghen được ủy nhiệm soạn
thảo Cương lĩnh dưới hình thức một bản tuyên ngôn.
Mác và Ăng-ghen đã tập trung sức lực, trí tuệ để hoàn thành "Tuyên ngôn
Đảng cộng sản" trong một thời gian rất ngắn và lần đầu tiên được xuất bản tại
Luân Đôn. Ít lâu sau, Tuyên ngôn được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng ở nhiều
nước khác nhau và mỗi lần tái bản được dịch sang một thứ tiếng khác đều được
tác giả viết lời tựa mới.
1.2.Nội dung chính của tuyên ngôn

Đây là tác phẩm đầu tiên trình bày một cách có hệ thống và hoàn chỉnh cơ
sở của chủ nghĩa Mác.Toàn bộ nội dung của cuốn Tuyên ngôn nói lên mối liên
hệ khăng khít giữa các bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác. Đây là một học
thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất, học thuyết về đấu tranh giai cấp, về vai trò
cách mạng thế giới của giai cấp vô sản.
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” gồm:Lời mở đầu và 4 chương.Lời mở
đầu nói rõ mục đích biên soạn tuyên ngôn là “công khai trình bày trước toàn thế
giới những quan điểm, mục đích ý đồ của mình...để đập lại câu chuyện hoang
đường về bóng ma cộng sản”.
Chương I. “Tư sản và vô sản”. Chương này nêu lên một cách khái quát quy
luật phát triển của xã hội tư bản, vạch rõ lợi ích đối lập giữa tư sản và vô sản,
nêu lên sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.Mác, Ăngghen chỉ ra quy luật phát
triển của lịch sử các xã hội có giai cấp từ khi công xã nguyên thủy tan rã đến nay
“ lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai
cấp”.Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của những xã hội dựa trên chế độ
tư hữu (chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản).Đó là cuộc đấu tranh giữa giai cấp
bị áp bức, bị bóc lột với giai cấp thống trị, bóc lột.Sự thay thế xã hội phong kiến
bằng xã hội tư bản không hề xóa bỏ đi áp bức giai cấp, đối kháng giai cấp mà
chỉ đem lại sự đối kháng mới trong xã hội.Đó là sự đối kháng giữa giai cấp tư

sản và giai cáp vô sản. Mác đã viết: “Xã hội tư sản hiện đại, sinh ra từ trong lòng
5


xã hội phong kiến đã bị diệt vong, không xóa bỏ được những đối kháng giai
cấp.Nó chỉ đem những giai cấp mới, những điều kiện áp bức mới, những hình
thức đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những điều kiện áp bức, những
hình thức đấu tranh cũ mà thôi”.
Mác, Ăngghen nhấn mạnh việc xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa, thay thế
chế độ phong kiến đã dẫn tới sự phát triển chưa từng thấy của lực lượng sản
xuất, sự tiến bộ về kinh tế, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và văn hóa. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất là điều kiện để giai cấp tư sản tồn tại “ giai cấp
tư sản không thể tồn tại, nếu không luôn luôn cách mạng hóa công cụ sản xuất,
do đó cách mạng hóa những quan hệ sản xuất, nghĩa là cách mạng hóa toàn bộ
những quan hệ sản xuất”. Và kết quả nó đạt được là: “Giai cấp tư sản, trong quá
trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất
nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp
lại.”. Nhưng đến một giai đoạn phát triển nào đó, quan hệ sản xuất tư bản trở
nên không phù hợp với lực lượng sản xuất ngày càng lớn mạnh và những quan
hệ đó bắt đầu kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất “Những lực lượng
sản xuất mà xã hội sẵn có, không thúc đẩy quan hệ sở hữu tư sản phát triển nữa;
trái lại chúng đã trở thành quá mạnh đối với quan hệ sở hữu tư sản ấy, cái quan
hệ sở hữu lúc đó đang cản trở sự phát triển của chúng...Chế độ tư sản đã trở
thành quá hẹp, không đủ để chứa đựng những của cải đã được tạo ra trong lòng
nó”.Mâu thuẫn giữa sức sản xuất có tính chất xã hội và quyền sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất ngày càng bộc lộ rõ, dẫn tới cuộc đấu tranh để thủ tiêu chế độ sở
hữu tư bản chủ nghĩa.Đây là điều hợp quy luật phát triển của xã hội. Đúng như
Tuyên ngôn đã chỉ rõ: “Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế
độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản. Nhưng
giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra

những người sử dụng vũ khí ấy, những công nhân hiện đại, những người vô
sản.” Trong quá trình đấu tranh, giai cấp vô sản dần dần nhận thức được sứ
mệnh lịch sử của mình: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp
6


tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thật sự các mạng”.Nó đảm nhận sứ
mệnh lịch sử lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới.Giai cấp vô sản là
giai cấp cách mạng nhất, vì trong cuộc đấu tranh này, họ không mất gì ngoài
xiềng xích và được cả thế giới. Từ sự phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và
sự xung đột giữa tư sản và vô sản, Mác, Ăngghen đã đi đến kết luận: “Giai cấp
tư sản tạo ra những người đào huyệt chôn chính nó.Sự sụp đổ của giai cấp tư sản
và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau."
Chương II: Những người vô sản và những người cộng sản
Chương này nêu lên mối quan hệ giữa giai cấp vô sản và những người cộng
sản: các ông chỉ rõ rằng, những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản
khác trên hai điểm:họ đấu tranh vì lợi ích chung của toàn thể giai cấp vô sản
theo tinh thần quốc tế chủ nghĩa; trong các giai đoạn khác nhau họ luôn đại biểu
cho lợi ích của toàn bộ phong trào. Về mặt thực tiễn họ là bộ phận kiên quyết
nhất trong tất cả các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận cổ vũ tất cả
các bộ phận khác, về mặt lý luận họ hiêu rõ những điều kiện, tiến trình và kết
quả chung của phong trào vô sản
Chương III: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
Chương này phê phán các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa phi vô sản, đi ngược lại quan điểm của C.Mác và P.Ăngghen như: chủ
nghĩa xã hội phong kiến, chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản, chủ nghĩa xã hội Đức, chủ
nghĩa xã hội tư sản, chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa cộng sản không
tưởng.
Chương IV: Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập
Chương này nêu lên phương hướng và sách lược củahững người cộng sản:

Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu giếm những quan
điểm và ý định của mình.Mục tiêu cuối cùng của họ là lật đổ toàn bộ trật tự xã
hội hiện hành. Mặc cho các giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc Cách mạng

7


cộng sản chủ nghĩa.Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì
hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ, họ sẽ giành được cả thế giới.
1.3.Ý nghĩa thời đại của tuyên ngôn

1.3.1. Tác phẩm đã đánh dấu sự hoàn thành quá trình hình thành chủ
nghĩa Mác và cơ sở triết học của nó
Sự khác nhau cơ bản giữa triết học mácxit và các học thuyết triết học phi
mácxít trước đó là hai phương diện cơ bản của triết học mácxít là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử sẽ cung cấp một thế giới quan khoa
học để nhận thức và cải tạo thế giới.Nó đã kế thừa chủ nghĩa duy tâm khách
quan và duy vật siêu hình(khắc phục tính duy tâm và siêu hình) của học thuyết
triết học trước đó để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã
hội của triết học Mác-Lênin, là kết quả của sự vân dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên
cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong
ba bộ phận hợp thành của triết học macxit, khoa học về những quy luật chung
nhất của xã hội, là hai phát kiến khoa học của C.Mác đã đặt cơ sở khoa học cho
sự tồn tại, phát triển học thuyết của mình.Như Lênin cho rằng: Chủ nghĩa duy
vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không nghiên cứu những mặt riêng biệt của sinh
hoạt xã hội, mà nghiên cứu toàn bộ xã hội với tất cả các mặt, các quan hệ xã hội,
các quá trình có liên hệ nội tại và tác động lẫn nhau của xã hội. Khác với những

khoa học xã hội cụ thể, chủ nghĩa duy vật lịch sử không nghiên cứu những quy
luật cục bộ, riêng biệt, chi phối sự phát triển của các quá trình về kinh tế, chính
trị hay tư tưởng, mà nghiên cứu những quy luật chung nhất phổ biến nhất của sự
phát triển xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu xã hội với tư cách là một chỉnh thể
thống nhất để vạch ra những nét chung của sự phát triển xã hội, những động lực,
8


những nguyên nhân cơ bản của sự chuyển biến từ một hình thái kinh tế - xã hội
này sang một hình thái kinh tế - xã hội khác, mối liên hệ qua lại và sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa những hiện tượng khác nhau của đời sống xã hội: kinh tế, chính
trị, tư tưởng v.v…
Chủ nghĩa duy vật lịch sử vạch ra những quy luật chung nhất của sự vận
động và phát triển xã hội, chỉ ra vị trí và vai trò của mỗi mặt của đời sống xã
hội, trong hệ thống xã hội nói chung, vạch ra những nét cơ bản của các giai đoạn
phát triển của xã hội loài người.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho phép xác định đâu là yếu tố vật chất trong
lĩnh vực xã hội.Lênin đã nhận xét rằng, trong tác phẩm này đã trình bày hết sức
rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để bao trùm cả lĩnh vực đời
sống xã hội, phép biện chứng như là học thuyết về sự phát triển lý luận đấu tranh
giai cấp vai trò cách mạng có tính lịch sử trên toàn thế giới của giai cấp vô sảnngười sáng tạo ra xã hội mới, xã hội cộng sản.
1.3.2. Tuyên ngôn khi đi vào phong trào công nhân đã làm cho phong trào
công nhân biến đổi về chất
Tuyên ngôn ra đời trong năm 1848, trong bối cảnh các phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân nổ ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại do chưa có
một lý luận tiên tiến để dẫn dắt phong trào cách mạng.Cuối 1847, Các Mác và
Phriđích Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và tác phẩm
được xuất bản lần đầu vào năm 1848.Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất
bản năm 1872, Mác và Ăngghen đã nêu rõ sự cần thiết ra đời tác phẩm. “Liên

đoàn những người cộng sản - một tổ chức công nhân quốc tế, trong hoàn cảnh
lúc bấy giờ, tất nhiên chỉ có thể là một tổ chức bí mật - đã uỷ cho những người
ký tên dưới đây, là đại biểu dự Đại hội họp ở Luân Đôn tháng 11-1847, khởi
thảo ra một cương lĩnh của Đảng có đầy đủ chi tiết, vừa về mặt lý luận, vừa về
mặt thực tiễn, để đưa ra công bố”.Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản
9


năm 1888, Ăngghen khẳng định lại Tuyên ngôn là Cương lĩnh của Liên đoàn
những người cộng sản. “Tại Đại hội của Liên đoàn họp ở Luân Đôn tháng 111847, Mác và Ăngghen được giao nhiệm vụ khởi thảo một cương lĩnh lý luận và
thực tiễn của Đảng, có đầy đủ chi tiết, để đưa ra công bố. Công việc đó đã được
hoàn thành vào tháng giêng 1848; bản thảo viết bằng tiếng Đức đã được gửi tới
Luân Đôn để in, vài tuần trước khi Cách mạng 24-2 nổ ra tại Pháp”.Tuyên ngôn
là cương lĩnh của Đảng Cộng sản, điều đó đã được chính Mác và Ăngghen
khẳng định khi khởi thảo văn kiện lịch sử này.Từ khi xã hội loài người phân chia
các giai cấp như Mác và Ăngghen khẳng định là lịch sử đấu tranh giai cấp.Đó là
cuộc đấu tranh của các giai cấp đối lập nhau về quyền và lợi ích, địa vị trong xã
hội. “Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ
cả phường hội và thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và những người bị áp
bức luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không
ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc
hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong
của cả hai giai cấp đấu tranh với nhau”.Ở mỗi thời đại lại có giai cấp tiêu biểu
đứng ở trung tâm và diễn ra đấu tranh giai cấp trong những điều kiện mới. Mác
và Ăngghen cho rằng: Xã hội tư sản hiện đại, sinh ra từ trong lòng xã hội phong
kiến đã bị diệt vong, không xoá bỏ được những đối kháng giai cấp.Nó chỉ đem
những giai cấp mới, những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh
mới thay thế cho những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu
tranh cũ mà thôi. Trong thời đại tư bản chủ nghĩa - thời đại của giai cấp tư sản:
Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn

toàn đối lập với nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.Với sự nghiên cứu sâu
sắc tiến trình lịch sử loài người, đặc biệt nghiên cứu sự ra đời và phát triển của
chủ nghĩa tư bản, của các cuộc cách mạng tư sản, Mác và Ăngghen đã làm rõ sự
ra đời và phát triển của giai cấp tư sản.Từ những nông nô thời trung cổ, đã nảy
sinh ra những thị dân các thành thị đầu tiên; từ dân cư thành thị này, nảy sinh ra
những phần tử đầu tiên của giai cấp tư sản. Với sự phát triển của đại công
nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới rộng lớn, làm cho giai cấp tư sản ngày càng
10


lớn lên, tăng gấp bội những tư bản của họ lên và đẩy lùi các giai cấp do thời
trung cổ để lại.Xem thế thì biết bản thân giai cấp tư sản hiện đại cũng là sản
phẩm của một quá trình phát triển lâu dài, của một loạt những cuộc cách mạng
trong phương thức sản xuất và trao đổi. Về khách quan, Mác và Ăngghen cho
rằng: “Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”.Với
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản nắm gần như toàn bộ sở hữu
tư liệu sản xuất và của cải vật chất, thực hiện sự bóc lột và áp bức tàn bạo đối
với giai cấp vô sản làm thuê.Đương nhiên, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
chống lại giai cấp tư sản đã và đang diễn ra quyết liệt.Cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản chống giai cấp tư sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời.Chính
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho giai cấp vô sản ngày càng
phát triển và trưởng thành về ý thức đấu tranh, về lợi ích và con đường đi tới để
xoá mọi áp bức, bất công. Thế là giai cấp tư sản đã từng đóng vai trò cách mạng
trong lịch sử lại trở thành lực lượng phản động khi họ áp bức bóc lột thậm tệ đối
với giai cấp vô sản và nói chung đối với những người lao động, với các dân tộc
thuộc địa.Giai cấp vô sản làm thuê dần dần phát triển lớn mạnh cùng với sự phát
triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, của đại công nghiệp.Sự lớn
mạnh đó không chỉ ở số lượng mà còn ở sức mạnh của tính tổ chức, của sự giác
ngộ ý thức giai cấp. Mác và Ăngghen đã nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa tư bản,
giai cấp công nhân và phong trào công nhân và từ đó xây dựng học thuyết khoa

học cách mạng để truyền bá vào giai cấp công nhân và phong trào công nhân
dẫn dắt giai cấp đó vào con đường đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa tư bản
bất công. Mác và Ăngghe cho rằng: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập
với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng.Tất cả
các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công
nghiệp còn giai cấp vô sản, lại là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”.Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đánh dấu sự ra đời của học thuyết khoa
học, cách mạng - vũ khí lý luận tư tưởng của giai cấp vô sản. Mác và Ăngghen
đã phát hiện và khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là đấu tranh
đánh đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội hoàn toàn mới, không còn áp bức,
11


bất công đó là chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.Cuộc cách mạng
vô sản đã được Mác và Ăngghen nêu ra trong Tuyên ngôn với 10 biện pháp chủ
yếu.Mác và Ăngghen cũng dự báo “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi
của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau”.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản không chỉ giải phóng giai cấp mình mà
còn giải phóng nhân dân lao động, giải phóng các dân tộc và toàn thể nhân loại.
Không chỉ giai cấp vô sản bị chủ nghĩa tư bản thống trị, bóc lột mà các tầng lớp
nhân dân lao động, các dân tộc cũng bị giai cấp tư sản thống trị và nô dịch.Đó là
điều Mác và Ăngghen đã nhận thấy rõ.Vì thế, Mác và Ăngghen đã chỉ rõ cuộc
đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không tách rời cuộc đấu tranh dân tộc.
Đây là một nội dung rất quan trọng và thiết yếu của Tuyên ngôn cần được
nghiên cứu và nhận thức sâu sắc. Điều đó cũng đã chi phối tiến trình cách mạng
của các dân tộc từ sau Tuyên ngôn, nhất là trong thế k ỷ XX và trong điều kiện
hiện nay.Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen nêu rõ: “Cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung,
không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu
tranh dân tộc”, đồng thời nhấn mạnh: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải

giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở
thành dân tộc”. “Hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc
này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ”.Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã
soi sáng con đường đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản.“ Trong cuộc cách
mạng ấy,nhưng người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc
họ.Họ sẽ giành được cả thế giới”.Cuộc cách mạng ấy tập hợp giai cấp vô sản
toàn thế giới dưới khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”.Tuyên ngôn
còn đề cập và dẫn dắt cuộc đấu tranh dân tộc. Cho đến cuối thế kỷ XIX, nhất là
đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, mở rộng các cuộc chiến tranh xâm chiếm các dân tộc nhỏ yếu để biến
thành thuộc địa của họ.Vấn đề dân tộc và thuộc địa đã được Lênin nghiên cứu
sâu sắc, đó cũng là sự phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện của chủ nghĩa đế
12


quốc. Như vậy, trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa cùng với mâu thuẫn ngày càng
gay gắt giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa các dân tộc
thuộc địa bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc, thực dân cũng ngày càng sâu sắc và
bùng phát thành cuộc đấu tranh, thành phong trào dân tộc ở khắp nơi.
Tuyên ngôn đã nói lên sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc
chiến chống lại giai cấp tư sản, nhờ có tuyên ngôn mà giai cấp công nhân giác
ngộ được sứ mệnh lịch sử của mình.Trong cuộc chiến của mình chống lại giai
cấp tư sản,giai cấp công nhân phải lập ra được chính đảng của mình.Trong cuộc
đấu tranh ấy giai cấp không mất gì ngoài những xiềng xích.Mác và Ăngghen
nhấn mạnh rằng, cuộc cách mạng vô sản không chỉ là cuộc cách mạng về chính
trị mà còn là và thực chất là cuộc cách mạng về kinh tế, những người cộng sản
có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức duy nhất là: xóa bỏ chế độ tư
hữu. Hai ông vạch rõ bước bước quá độ chính trị để đi tới xã hội không còn giai
cấp,xã hội cộng sản chủ nghĩa.Từ khi ra đời “tuyên ngôn” đã có ảnh hưởng to
lớn đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Năm 1890, Ăngghen nhận

xét rằng “lịch sử của tuyên ngôn đã phản ánh được đến một mức độ nào đó lịch
sử phong trào công nhân hiện đại từ năm 1848 đến nay”.Điều đó cho thấy,từ khi
tuyên ngôn ra đời,nó đã xâm nhập mạnh mẽ vào thực tiễn cách mạng của giai
cấp công nhân,hướng dẫn hành động cách mạng của họ.Năm 1888, Ăngghen
nhận xét rằng: Tuyên ngôn của đảng cộng sản là “ tác phẩm phổ biến hơn cả, có
tính chất quốc tế hơn cả các văn phẩm xã hội chủ nghĩa, đó là cương lĩnh được
thừa nhận bởi hàng triệu công nhân từ Xibia đến Caliphoocnia”.
1.3.3.Tuyên ngôn thể hiện ngắn gọn những nội dung cơ bản nhất của học
thuyết mácxit về chính trị, là nền tảng chính trị để Mác,Ăngghen và sau này
làLênin phát triển trên cơ sở thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân

Lý luận về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản khẳng định
rằng,giai cấp vô sản không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng
toàn xã hội.Song, giai cấp vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử nếu
13


không tổ chức thành chính đảng của giai cấp, Đảng được hình thành và phát
triển xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Quan điểm cơ bản về chủ
nghĩa duy vật lịch sử, về đấu tranh giai cấp, về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai
cấp vô sản, về xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân được Mác và
Ăngghen trình bày rõ trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
Về giai cấp vô sản và tư sản;đảng cộng sản của giai cấp công nhân; Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học ; Những nguyên lý chiến
lược và sách lược của Đảng …Tất cả những nội dung này đều được đề cập rất
ngắn gọn và xúc tích,nhưng lại rất đanh thép và hùng hồn, khơi dậy tinh thần
chiến đấu mãnh liệt ở giai cấp công nhân.Những nội dung này là cơ sở để sau
này các ông phát triển hơn nữa trong học thuyết chính trị của mình.Đó là lý luận
về chuyên chính vô sản, lý luận về bạo lực cách mạng, lý luận về xây dựng đảng
kiểu mới, về cách mạng không ngừng .Sau này khi chủ nghĩa tư bản cạnh tranh

phát triển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền và giai đoạn tột cùng của nó là chủ
nghĩa đế quốc thì Lênin đã phát triển,bổ sung và sáng tạo những lý luận mới khi
mà thực tiễn cách mạng đã phát triển.

14


Chương 2.TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐỐI VỚI
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2.1. Tuyên ngôn của đảng cộng sản đã soi sáng cho cách mạng Việt Nam

Đối với phong trào giải phóng dân tộc nói chung, với cách mạng Việt Nam
nói riêng, ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác thông qua chủ nghĩa Lê-nin và Cách
mạng Tháng Mười đã tạo thành trào lưu cách mạng giải phóng dân tộc trên tất
cả các châu lục.Lịch sử cho thấy không có chủ nghĩa Mác thì không có chủ
nghĩa Lê-nin, không có Cách mạng Tháng Mười.Không có chủ nghĩa Lê-nin,
không có Cách mạng Tháng Mười thì cũng không thể có những thắng lợi có ý
nghĩa thời đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.
Khi mà đảng ta chưa thành lập thì đồng chí Nguyễn Ái Quốc,và các trí sĩ
yêu nước đã tìm mọi cách để truyền bá học thuyết MLN,trong đó có Tuyên ngôn
của đảng cộng sản vào trong phong trào công nhân.Dù điều kiện rất khó
khăn,nguy hiểm nhưng tất cả các trí sĩ yêu nước đều cố gắng tìm mọi cách để
truyền bá học thuyết MLN vào phong trào công nhân. Nguyễn Ái Quốc đã nhận
thấy ở học thuyết MLN con đường giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi áp bức bóc
lột.Học thuyết mácxit chỉ ra rằng giai cấp công nhân muốn giành thắng lợi thì
phải tổ chức cho được chính đảng của mình để lãnh đạo phong trào cách
mạng,về cách thức và con đường, lực lượng cách mạng…tất cả những lý luận đó
đã dẫn đường cho cách mạng nước ta.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng
tạo học thuyết MLN cho phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam: Tuyên ngôn Đảng Cộng sản đã

khẳng định, giai cấp công nhân cần phải có một chính đảng lãnh đạo cuộc đấu
tranh của giai cấp mình. Đó là Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công
nhân - để đoàn kết giai cấp và nhân dân lao động tiến hành cuộc đấu tranh cách
mạng lật đổ giai cấp tư sản thiết lập chuyên chính của giai cấp vô sản.V.Lênin
coi sự ra đời của Đảng Cộng sản là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với
15


phong trào công nhân. Vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, một nước thuộc địa
nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Hồ Chí Minh thấy rằng, việc ra đời
của Đảng Cộng sản nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân thì chưa đủ.

Theo Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân Việt Nam tuy mới ra đời còn non
trẻ, số lượng ít ỏi nhưng đã có đầy đủ những đặc điểm chung của giai cấp công
nhân thế giới như: sống tập trung, có tinh thần cách mạng cao và là giai cấp duy
nhất có khả năng đảm nhiệm sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ngoài
những đặc điểm chung đó, giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm
riêng của mình: giai cấp công nhân Việt Nam ra đời muộn hơn giai cấp công
nhân thế giới nhưng lại ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc nên nó đã kế thừa
được truyền thống tốt đẹp của dân tộc là yêu nước, tinh thần đấu tranh kiên
cường bất khuất, cần cù, thông minh, sáng tạo, yêu thương con người, có tình
nghĩa...Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra hoà mình vào phong trào đấu tranh
của dân tộc, được sự nuôi dưỡng của phong trào dân tộc.Trong giai cấp công
nhân Việt Nam không có bộ phận "công nhân quý tộc" nên không có miếng đất
cho chủ nghĩa cải lương, công đoàn phát triển.Giai cấp công nhân xuất thân từ
giai cấp nông dân, khi chủ nghĩa đế quốc áp đặt ách thống trị lên đất nước ta,
người nông dân bị bần cùng hoá, “cha đi vào đồn điền, hầm mỏ, anh đi vào đất
đỏ cao su, bán thân đổi mấy đồng xu”, trở thành người của giai cấp công nhân.
Do đó có sự gắn bó mật thiết và mối đồng minh tự nhiên để thiết lập liên minh

công nông, tạo nên sức mạnh,cho cách mạng.

Phong trào yêu nước có trước

phong trào công nhân, nó được hình thành trong quá trình dựng nước và giữ
nước, là dòng chủ lưu.Chính vì vậy, yêu nước là nấc thang cao nhất trong bảng
thang giá trị văn hoá tinh thần của con người Việt Nam.Phong trào yêu nước có
bề dày trong truyền thống lịch sử của dân tộc, là động lực, sức mạnh to lớn làm
nên những thắng lợi vẻ vang trong quá trình chống ngoại xâm, giành và giữ độc
lập dân tộc. Nói đến phong trào yêu nước trong tiến trình lịch sử dân tộc, chủ
16


yếu là phong trào nông dân; đến những năm đầu thế kỷ XX mới có thêm phong
trào của tiểu tư sản trí thức.Phong trào yêu nước đã từng đấu tranh giành độc lập
dân tộc, đồng thời đấu tranh giành quyền dân chủ, đó là dân chủ phi vô sản.Mặt
khác, giữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước có điểm tương đồng,
mẫu số chung là những người dân mất nước, nô lệ và mục tiêu chung là đấu
tranh để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.Phong trào yêu nước với mục tiêu cao
nhất là đấu tranh, giải phóng cho dân tộc thoát khỏi xiềng xích nô lệ.Giai cấp
công nhân đấu tranh nhằm giải phóng cho giai cấp mình, giải phóng cho dân
tộc.Song muốn giải phóng cho giai cấp thì trước hết phải giải phóng cho dân
tộc.Chủ nghĩa Mác - Lênin, là tiền đề lý luận, đáp ứng cho cả phong trào công
nhân và phong trào yêu nước.Đối với phong trào công nhân khi chưa có lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin dẫn đường, họ đấu tranh tự phát, hoà mình vào phong
trào yêu nước. Khi tiếp nhận được chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân
đã chuyển từ đấu tranh tự phát sang tự giác; từ chỗ hoà mình vào phong trào yêu
nước, đã vươn lên nắm quyền lãnh đạo phong trào và đưa phong trào yêu nước
đấu tranh theo con đường cách mạng vô sản.Theo Hồ Chí Minh, phong trào yêu
nước là miếng đất màu mỡ cho chủ nghĩa Mác - Lênin gieo mầm và phát triển.

Sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đã tạo ra điều kiện, phương tiện cho
các dân tộc vùng lên đấu tranh tự giải phóng, “chủ nghĩa đế quốc đã dọn đất rồi,
chủ nghĩa cộng sản chỉ cần gieo hạt giống nữa thôi”. Khi phong trào yêu nước
đấu tranh theo con đường Cần Vương, con đường dân chủ tư sản đều lần lượt
thất bại, sự bế tắc khủng hoảng về con đường cứu nước, bắt gặp chủ nghĩa Mác Lênin như “đang khát có nước uống, đang đói có cơm ăn”, họ đã tiếp nhận và
góp phần tích cực thúc đẩy quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc
Hồ Chí Minh đưa thêm yếu tố phong trào yêu nước vào trong các yếu tố cho sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một luận điểm sáng tạo, bổ sung và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản, phù hợp với một
nước thuộc địa, nửa phong kiến.Luận điểm đó không những có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn cho cách mạng nước ta mà còn có ý nghĩa đối với các nước có điều
kiện, hoàn cảnh tương tự Việt Nam.
17


2.2. Về vấn đề dân tộc và giai cấp: Vấn đề quan trọng, cốt lõi của cách

mạng vô sản trong Tuyên ngôn là đấu tranh giai cấp.Theo nguyên lý của chủ
nghĩa Mác, vấn đề dân tộc luôn gắn với một giai cấp nhất định, không có dân tộc
phi giai cấp, siêu giai cấp.Vấn đề dân tộc ở các nước Tây Âu đã được giai cấp tư
sản giải quyết.Các nước Tây Âu là các quốc gia, dân tộc độc lập, không có sự
xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, và chính họ lại đi xâm lược, áp bức thuộc địa.
Mặt khác, ở Tây Âu xã hội công dân ra đời sớm, sự phân hoá giai cấp triệt để,
mâu thuẫn giữa giai cấp giữa tư sản và vô sản đối chọi nhau, một mất, một còn.
Vấn đề C.Mác- Ăngghen quan tâm là vấn đề xã hội Tây Âu quan tâm: đó là đấu
tranh giai cấp.Điều đó hoàn toàn đúng ở Tây Âu, vì khi giai cấp vô sản lật đổ tư
sản, giải phóng cho giai cấp mình, đồng thời giải phóng cho dân tộc. Vì thế,
trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Mác kêu gọi “ giai cấp vô sản ở mỗi nước
trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân
tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như

giai cấp tư sản hiểu”. Đưa vấn đề đó vào Việt Nam thì đúng nhưng chưa đủ, vì
ở Việt Nam xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn xã hội chưa phát
triển cao như ở Tây Âu. Người chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra
như ở phương Tây”, bởi vì “về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội
phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó
không quyết liệt như ở đây”. Nguyễn Ái Quốc phân tích làm sáng rõ: “Những
địa chủ hạng trung và hạng nhỏ và những kẻ mà ở đó được coi là đại địa chủ thì
chỉ là những tên lùn tịt, bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và
châu Mỹ”... “nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn
liếng gì lớn; nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của
địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột
bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc.Sự
xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu.Điều đó, không thể chối cãi
được”.Mặt khác, Việt Nam còn bị sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, dân tộc
còn nô lệ.Cho nên, địa chủ, nông dân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản đều có điểm
tương đồng là người dân nô lệ, mất nước và có nguyện vọng giải phóng dân
18


tộc.Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam cần giải quyết là mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc xâm lược.Vì vậy, muốn giải
phóng giai cấp vô sản theo học thuyết của Các Mac thì trước hết phải giải phóng
cho dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Có giải phóng được dân tộc mới
giải phóng được giai cấp, nếu chỉ đấu tranh giải phóng giai cấp thì không thể
giải phóng được giai cấp và cũng không thể giải phóng được dân tộc,vì chủ
nghĩa đế quốc sẽ đàn áp cách mạng. Nắm vững bản chất cách mạng khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã độc lập, tự chủ đề ra đường lối
chiến lược, sách lược đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, không giáo điều, dập
khuôn. Trong Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh đã xác
định: “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Việt

Nam hoàn toàn độc lập”. Từ sự phân tích, thấy rõ vai trò, vị trí của các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, Người chủ
trương liên minh các giai cấp, các tầng lớp yêu nước: “Đảng phải thu phục cho
được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, làm thổ địa cách
mạng đánh trúc bọn địa chủ và phong kiến” …Đảng phải hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,.v.v... để lôi kéo họ đi vào
phe vô sản giai cấp.Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An
Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ
trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến.v.v..) thì phải
đánh đổ”. Nguyễn ái Quốc đặt giải phóng dân tộc lên hàng đầu nhằm đoàn kết
tập hợp hết thảy các lực lượng yêu nước, thương nòi, tạo ra sức mạnh dân tộc
chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập tự do cho Tổ quốc là hoàn toàn đúng
đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, Người luôn đứng vững trên lập
trường, quan điểm của giai cấp vô sản để giải quyết vấn đề dân tộc: “Trong khi
liên lạc với các giai cấp, phải cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích
gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp”.Như vậy, Nguyễn ái Quốc đã
đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản để giải quyết vấn đề dân tộc. Tư
tưởng đó đã soi sáng cho Đảng và nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong tổng
khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám (1945). Đây là luận điểm sáng tạo của Hồ Chí
19


Minh đã bổ sung, phát triển cho chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng
dân tộc ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến.Những nguyên lý do
C.Mác,Ăngghen nêu lên trong Tuyên ngôn đã được Hồ Chí Minh luôn luôn
quán triệt, vận dụng và phát triển sáng tạo đã đưa cách mạng Việt Nam đi tới
giành những thắng lợi to lớn.Ngày nay, bối cảnh lịch sử mới đang đặt ra cho
chúng ta tiếp tục nghiên cứu vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó vào công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến
thắng lợi hoàn toàn.

Ở nước ta, hơn 80 năm qua, từ khi Đảng ta ra đời (1930) đến nay, chủ
nghĩa Mác - Lênin cùng với sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên đấu tranh, đi từ cách mạng giải
phóng dân tộc giành độc lập tự do, đánh thắng đế quốc xâm lược đến xây dựng
đất nước và đang thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới theo con đường XHCN.
Tuy nhiên, thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là kết quả thụ động
của phong trào cách mạng trên thế giới mà chủ yếu do sự vận dụng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh Việt Nam, đồng thời đó còn vì
Đảng ta luôn giữ vững những nguyên tắc cơ bản của học thuyết đó trong mỗi
bước ngoặt của cách mạng.
Chính cương vắn tắt (1930) của Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn
thảo đã xác định: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”. Nói cách khác, đối với một nước thuộc địa, cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phải
đồng thời thực hiện các nhiệm vụ mang tính thời đại, đó là giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp-giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng ta lãnh đạo đã thực hiện
đồng thời ba chức năng lịch sử đó. Trong 30 năm kháng chiến (1945-1975), nhờ
nắm vững xu thế của lịch sử mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã chỉ ra, nhờ kết hợp
đúng đắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Đảng ta, đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta, quân đội ta đánh thắng những kẻ thù
20


xâm lược hung bạo nhất thời đại, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất đất nước,
xác lập, củng cố và nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Một trong những sai lầm của những người kế thừa chủ nghĩa Mác - Lê-nin
là đã rơi vào chủ nghĩa giáo điều về lý luận, đồng nhất lý luận với phương pháp
luận, không biết vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin khi tình hình
đã thay đổi. Mặt khác trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhiều Đảng Cộng sản

đã không kịp thời ngăn chặn được tình trạng quan liêu hóa, suy thoái về chính
trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đây là
nguyên nhân cơ bản dẫn đến khủng hoảng, sụp đổ một bộ phận của CNXH vào
cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX.
2.3. Tuyên ngôn của đảng cộng sản củng cố niềm tin mãnh liệt vào con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Đổi mới là một thời kỳ đặc biệt của cách mạng Việt Nam.Từ giữa những
năm 80 thế kỷ XX, Đảng ta đã phát hiện sai lầm trên lĩnh vực kinh tế, xã hội
khởi xướng công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế.Dựa trên lý luận và phương
pháp luận mác-xít, phân tích những biến đổi sâu sắc của thời đại, từ những kinh
nghiệm của cách mạng Việt Nam,phân tích những sai lầm khuyết điểm của các
Đảng Cộng sản ở các nước XHCN trong sự nghiệp xây dựng CNXH và đặc biệt
trong cải tổ, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới có nguyên tắc.
Thay cho mô hình cũ của CNXH (phủ nhận kinh tế hàng hóa, cơ chế thị
trường, xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản ngay cả khi nhà nước đã thuộc
về tay nhân dân)… Cương lĩnh 1991 và Cương lĩnh 2011 của Đảng ta đã xác
định: "Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”… với những phương hướng lớn
sau: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Xây dựng nền dân chủ
XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; Xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Tôn trọng và bảo vệ quyền con
người; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.Những thành tựu
trong hơn 25 năm đổi mới là to lớn, có ý nghĩa thời đại.Nước ta ngày nay đã ra
21


khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống của nhân dân đã được nâng cao một
bước, vị thế, uy tín của Việt Namtrên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên,
như Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta đã chỉ rõ: Đất nước ta vẫn đứng trước nhiều

thách thức lớn. Đó là "Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới... Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí nghiêm trọng… Những biểu hiện xa rời mục tiêu của CNXH,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp…”.
Lê-nin đã từng nói: Cách tốt nhất để kỷ niệm một cuộc cách mạng là tập
trung sự chú ý vào những nhiệm vụ mà cuộc cách mạng đó chưa hoàn thành.
Tương tự như vậy, kỷ niệm ngày ra đời bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, đối
với chúng ta ngày nay nhiệm vụ đó là nâng cao hơn nữa tinh thần cảnh giác,
không mơ hồ, chủ quan với những thủ đoạn "Diễn biến hòa bình" của các thế
lực thù địch; không chủ quan với tình trạng "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác
– Lê-nin, nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đặc biệt hiện nay, cần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương lần thứ tư (khóa XI) - "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay" nhằm: “Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất
là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”, “củng cố sự kiên định về mục tiêu lý tưởng
cách mạng… coi đây là vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta”.

22


KẾT LUẬN
Tuyên ngôn của đảng cộng sản là tác phẩm có tính chất cương lĩnh của thế
giới quan mácxit,là cương lĩnh đầu tiên của tổ chức cộng sản.Nó là tác phẩm
phổ biến hơn cả,có tính chất quốc tế hơn cả trong tất cả các văn phẩm xã hội chủ
nghĩa, đó là cương lĩnh được thừa nhận bởi hàng triệu công nhân từ Xibia đến
Caliphoocnia.Lịch sử của Tuyên ngôn đã phản ánh một phần lịch sử của phong
trào công nhân hiện đại.Nó là tác phẩm phổ biến xuất hiện trong các công

xưởng, nhà máy, hầm mỏ,nó là nguồn cổ vũ tinh thần to lớn của giai cấp công
nhân, là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng của giai cấp công nhân.Tuyên
ngôn đã “công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, ý đồ” của
những người cộng sản. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là cương lĩnh chính trị,
kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; là
tác phẩm lý luận tổng kết quá trình hình thành chủ nghĩa Mác, trình bày những
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác, thế giới quan khoa học của giai cấp vô
sản; là cột mốc đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác với
sự hoàn bị của ba bộ phận hợp thành: Triết học, kinh tế chính trị học và chủ
nghĩa cộng sản khoa học.Tuyên ngôn luôn gắn liền với giai cấp công nhân, đã
chỉ ra con đường để giai cấp công nhân tiến hành cách mạng. Bước sang thiên
niên kỷ mới, trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, chủ nghĩa xã
hội hiện thực vẫn đang trong thời kỳ thoái trào, gặp không ít khó khăn nhưng đó
chỉ là nhất thời.Sự vận động và phát triển của thời đại hiện nay dù có phức tạp
đến đâu chăng nữa vẫn phải tuân theo những quy luật khách quan của đời sống
xã hội mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã phát hiện và trình bày
khái quát trong Tuyên ngôn. Chừng nào xã hội còn áp bức, bóc lột, bất công,
chừng đó nhân loại còn không ngừng đấu tranh cho một xã hội công bằng, bình
đẳng, tự do, dân chủ và phẩm giá con người. Hiện nay, hơn 1,4 tỷ người dân ở
các nước xã hội chủ nghĩa còn lại kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, tích
cực cải cách, đổi mới, quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hiện
23


thực với một niềm tin tất thắng, có sức lôi cuốn ngày càng đông đảo giai cấp
công nhân và lao động trên toàn thế giới đi theo. Với niềm tin vững chắc vào
tính tất yếu thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, trung thành
với tư tưởng của Tuyên ngôn, Đảng ta chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các
nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp
nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật

tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.Hiện nay,
cách mạng Việt Nam kiên trì sự nghiệp đổi mới, thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu: “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là thể hiện tập trung nhất sự
quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và lý tưởng cao cả mà Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã vạch ra.

24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ
nghĩa Mác – Lênin (dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không
chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2014.

2.

Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam (dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không
chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2013.

3.

Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (dành cho
sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014.


4.

Đảng

Cộng

sản Việt

Nam: Website

Đảng

cộng sản Việt

Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI,Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.

25


×