THỰC TRẠNG CUNG CẤP CÁC LOẠI HÌNH DỊCH VỤ TẠI
CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC II - HAI
BÀ TRƯNG
2.1 - KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG KHU VỰC II - HAI BÀ TRƯNG.
2.1.1 - Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh
Ngân hàng Công thương Việt Nam là một trong bốn Ngân hàng Thương mại
quốc doanh lớn ở Việt Nam, có một mạng lưới tổ chức rộng lớn, bao gồm trụ sở
chính tại Hà nội cùng với 68 chi nhánh phụ thuộc và 30 chi nhánh trực thuộc.
Trong đó chi nhánh Ngân hàng Công thương Khu vực II - Hai Bà Trưng là một
trong những chi nhánh hoạt động hiệu quả, có được vị trí quan trọng trong toàn hệ
thống Ngân hàng Công thương Việt nam.
Sự ra đời và phát triển của chi nhánh Ngân hàng Công thương Khu vực II -
Hai Bà Trưng gắn liền với tiến trình đổi mới của Ngân hàng Công thương Khi hai
pháp lệnh Ngân hàng được ban hành năm 1990. Ngân hàng Công thương quận Hai
Bà Trưng đã chuyển từ chi nhánh Ngân hàng Nhà nước sang trực thuộc thành phố
Hà Nội. Năm 1993, Ngân hàng Công thương có sự thay đổi trong cơ cấu tổ chức :
bỏ qua Ngân hàng Công thương cấp thành phố chỉ còn Ngân hàng Công thương
cấp quận. Sự thay đổi này nhằm giảm bớt các khâu không cần thiết, mọi văn bản,
báo cáo của chi nhánh gửi trực tiếp đến hội sở chính, bỏ qua các cấp trung gian
v..v... Do vậy, ngày 01 tháng 04 năm 1993, Tổng giám đốc Ngân hàng Công
thương Việt Nam có quyết định thành lập chi nhánh Ngân hàng Công thương Khu
vực II - Hai Bà Trưng trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam tại số 306-Bà
Triệu nay chuyển về số 285 - Trần Khát Chân.
Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng Công thương Khu vực II - Hai Bà
Trưng luôn bám sát và thực hiện định hướng vừa kinh doanh tiền tệ - tín dụng-
dịch vụ Ngân hàng trong cơ chế thị trường có hiệu quả và an toàn, vừa góp phần
tăng trưởng kinh tế và thực thi chính sách tiền tệ của nhà nước.
Trong mười năm hoạt động gần đây kể từ khi là chi nhánh của Ngân hàng
Công thương Việt Nam, cùng với sự trưởng thành và phát triển của Ngân hàng
Công thương Việt Nam Ngân hàng Công thương Khu vực II - Hai Bà Trưng đã trải
qua nhiều khó khăn và thử thách để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị
trường. Tập thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên đã quyết tâm phấn đấu thực
hiện có hiệu quả các chức năng và nhiệm vụ mà cấp trên giao phó. Đến nay chi
nhánh đã khẳng định được vị trí vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường,
đứng vững và phát triển trong có chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch,
đa dạng hoá các mặt kinh doanh, dịch vụ tiền tệ Ngân hàng, thường xuyên tăng
cường có sở vật chất kỹ thuật để từng bước đổi mới công nghệ - hiện đại hoá Ngân
hàng.
Mục tiêu chi nhánh đề ra là " Vì sự thành đạt của mọi người, mọi nhà, mọi
doanh nghiệp. Sự thành đạt của doanh nghiệp cũng chính là sự thành đạt của Ngân
hàng ". Chính nhờ có đường lối đúng đắn mà kết quả kinh doanh của Ngân hàng
luôn có lãi và năm sau luôn cao hơn năm trước, đóng góp lợi ích cho Nhà nước
ngày càng nhiều, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện.
Để có được một kết quả như vậy là do chi nhánh đã củng cố và xây dựng
được một hệ thống tổ chức tương đối hợp lý, phù hợp với khả năng và trình độ
quản lý, hoạt động kinh doanh của mình.
2.1.2 - Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Ngân hàng Công thương Khu vực II - Hai
Bà Trưng.
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Khu vực II - Hai Bà Trưng là một chi
nhánh trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam, với sự chỉ đạo của Ngân
hàng Công thương Việt Nam, ban lãnh đạo của chi nhánh đã kết hợp chặt chẽ
những thay đổi chính sách đầu tư tín dụng với cải tiến để cơ cấu lại tổ chức cho
phù hợp với nền kinh tế thị trường. Từ chỗ chỉ có hai nơi giao dịch đến nay ngoài
trụ sở chính - 285 Trần Khát Chân, Ngân hàng đã mở thêm các phòng giao dịch
như : Phòng giao dịch chợ Hôm, Trương Định, cùng với một cửa hàng kinh doanh
vàng bạc ngoại tệ và 12 quỹ tiết kiệm.
Về cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Công thương Khu vực II - Hai Bà Trưng,
tại trụ sở chính có một Giám đốc, dưới quyền và chịu trách nhiệm với Giám đốc là
03 Phó Giám đốc. Mỗi Phó giám đốc điều hành và quản lý một số các phòng ban ,
tại chi nhánh gồm có các phòng ban sau :
- Phòng tổ chức hành chính
- Phòng kinh doanh
- Phòng Nguồn vốn
- Phòng kinh doanh đối ngoại
- Phòng thông tin điện toán
- Phòng kế toán - tài chính
- Phòng kho quỹ
- Phòng kiểm soát
- Phòng tiếp dân.
Các phòng ban này được chuyên môn hoá hoạt động theo chức năng nhiệm
vụ công tác riêng của mình, nhưng đều có trách nhiệm là tham mưu cho Giám đốc
trong việc tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng - Nhà nước
và chế độ, thể lệ của Ngân hàng.
Ngân hàng có đội ngũ 334 cán bộ công nhân viên, trong đó 60% có trình độ
Đại học và trên Đại học. Với đội ngũ cán bộ này được bố trí hơp lý vào các phòng
ban theo trình độ nghiệp vụ chuyên môn của từng người. Ngân hàng Công thương
Khu vực II - Hai Bà Trưng là một chi nhánh lớn, kinh doanh liên tục có hiệu quả
của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Có được vị thế và kết quả hoạt động như
trên là do những kinh nghiệm quý báu của lớp lớp cán bộ Ngân hàng kế tiếp nhau,
với những khách hàng truyền thống qua gần 45 năm hoạt động trên địa bàn khu
vực.
Có thể hiểu rõ hơn về bộ máy tổ chức của chi nhánh Ngân hàng Công
thương Khu vực II - Hai Bà Trưng qua sơ đồ sau :
Việc xây dựng một hệ thống quản lý thống nhất với những quy định rõ
ràng khiến hoạt động của chi nhánh được tiến hành nhịp nhàng, hiệu quả cao.
Tuy nhiên, để có được một chi nhánh Ngân hàng Công thương phát triển như
hiện nay không thể bỏ qua một thế mạnh của nó - đó là địa bàn hoạt động khu
vực Hai Bà Trưng. Đây chính là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp đến kết quả hoạt động của Ngân hàng.
Trước tiên, phải khẳng định rằng quận Hai Bà Trưng là một trong những
quận lớn của thành phố Hà Nội, nơi được đánh giá là có nhiều điều kiện thuận lợi
để Ngân hàng mở rộng địa bàn hoạt động kinh doanh : Khách hàng giao dịch đông,
nguồn vốn trong dân cư dồi dào, đời sống nhân dân ổn định... Ở đây tập trung rất
nhiều nhà máy lớn như: Tổng công ty giấy Việt Nam , Tổng công ty lâm sản Việt
Nam, Tổng công ty dệt Việt Nam, Công ty dầy Thăng Long, Nhà máy đóng tàu Hà
Nội....Ngoài ra còn có các tổ chức kinh tế tư nhân, cá thể, v. v.. Hầu hết các tổ
chức kinh tế trong khu vực tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất khiến hoạt
động của chi nhánh ít nhiều phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất. Nếu như tại Ngân hàng
Công thương Hoàn Kiếm chủ yếu cho vay để phát triển các hoạt động thương mại,
dịch vụ thì ở đây các món vay chủ yếu là phục vụ cho quá trính sản xuất kinh
doanh, chi nhánh đã chú trọng đáp ứng phần lớn nhu cầu của khách hàng, giúp cho
họ duy trì sản xuất đều đặn, hoàn thành kế hoạch sản xuất, tạo ra sản phẩm phục vụ
trong nước và xuất khẩu.
Sự phát triển đa dạng và phong phú của các thành phần kinh tế trong khu
vực là một lợi thế để Ngân hàng mở rộng lĩnh vực kinh doanh của mình, không chỉ
giới hạn trong các nghiệp vụ nhận gửi và cho vay truyền thống mà còn tạo khả
năng đa dạng hoá các dịch vụ Ngân hàng, đặc biệt dịch vụ thanh toán qua Ngân
hàng.... Không phải Ngân hàng nào cũng có được một thị trường đa dạng và phong
phú như địa bàn Hai Bà Trưng. Vì khai thác được lợi thế này một cách có hiệu quả,
chi nhánh đã khẳng định được vị trí , vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường,
đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới kinh
doanh, đa dạng hoá các mặt kinh doanh-dịch vụ tiền tệ Ngân hàng, thường xuyên
tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật để từng bước đổi mới công nghệ hiện đại hoá
Ngân hàng theo phương châm : " Phát triển, an toàn và hiệu quả".
2.1.3-Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh
a - Hoạt động huy động vốn.
Trong những năm gần đây, với phương châm "tự chủ về nguồn vốn, đi vay
để cho vay" do đó việc khai thác các nguồn vốn tiềm tàng trong xã hội là mục tiêu
hàng đầu được đặt ra. Bằng các hình thức huy động vốn hấp dẫn và phong phú,
nhạy bén trong công tác tiếp thị, đổi mới phong cách giao dịch và phát triển mạng
lưới các quỹ tiết kiệm hợp lý, Ngân hàng Công thương Khu vực II - Hai Bà Trưng
đã thu hút được nguồn tiền gửi lớn của các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế.
Tính đến 31/12/2001
Tổng nguồn vốn huy động đạt 1579 tỷ đồng tăng so với cuối năm 2000 là
216 tỷ, tốc độ tăng là 15,8% và đạt 107,9% so với kế hoạch.
Ta có thể thấy rõ hơn về sự tăng trưởng nay qua bảng sau :
BẢNG 1 : CƠ CẤU NGUỒN VỐN
(Đơn vị : tỷ đồng)
Chỉ tiêu Số dư đến
31/12/2001
% trong tổng
NB huy động
(+;-) so với
31/12/2000
1. Tiền gửi các tổ chức kinh tế 527 33,4 + 130
2. Tiền gửi dân cư 1.052 66,4 + 86
3. Tiền gửi VND 1.154 73,1 + 49
4. Tiền gửi ngoại tệ 425 26,9 + 165
B1 [ 1,2]
Qua bảng số liệu sau cho thấy:
- Các chỉ tiêu huy động vốn của Ngân hàng đều tăng so với năm 2000 cụ thể
là: Tiền gửi các tổ chức kinh tế tăng với số tuyệt đối là 130 tỷ, với tốc độ tăng là
32,7%. Tiền gửi dân cư tăng 86 tỷ, với tốc độ tăng là 8,9%, Tiền gửi VND tăng 49
tỷ, với tốc độ tăng là 4,4% và tiền gửi ngoại tệ tăng là 165 tỷ, với tốc độ tăng là
63,9%. Điều này chứng tỏ chi nhánh đã làm tốt công tác huy động vốn, nguồn vốn
tăng liên tục và ổn định, đáp ứng thoả mãn nhu cầu hoạt động đầu tư tín dụng của
chi nhánh.
- Cơ cấu huy động vốn của Ngân hàng đã có nhiều chuyển biến tích cực
theo hướng vừa tăng trưởng vững chắc vừa có lợi cho kinh doanh.
+ Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng nhiều so với cuối năm 2000,
với tỷ lệ tăng 32,7%-tỷ lệ này là khá lý tưởng đối với một Ngân hàng Thương mại,
vì nguồn này thường ổn định và lãi suất phải trả thấp.
+ Nguồn tiền gửi bằng ngoại tệ cũng tăng mạnh, tăng với tỷ lệ là 63.9% so
với cùng kỳ năm 2000. Nguồn này giúp cho Ngân hàng đáp ứng cho hoạt động
kinh doanh ngoại hối và thanh toán quốc tế.
Đây chính là mặt rất thuận lợi trong hoạt động đầu vào, nó sẽ tạo điều kiện
thúc đẩy đầu ra của chi nhánh.
b - Hoạt động sử dụng vốn
Cũng như bất kỳ một Ngân hàng Thương mại nào, công tác sử dụng vốn vẫn
giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, vì đây là hoạt động
đem lại thu nhập chính cho Ngân hàng. Hiểu được tình hình sử dụng vốn của Ngân
hàng sẽ đem lại một cái nhìn thấu đáo hơn về hoạt động của Ngân hàng, biết được
Ngân hàng đang ở trong tình thế nào và thực sự nguồn vốn huy động đã sử dụng
vào mục đích gì ?
Trong công tác sử dụng vốn, chi nhánh Ngân hàng Công thương Khu vực II
- Hai Bà Trưng đã đặt ra mục tiêu : Tạo ra thế "ổn định", đầu tư tín dụng "an toàn
có hiệu quả" và tạo tiền đề để phát triển. Với quyết tâm cao, bằng nhiều giải pháp
tích cực, kịp thời cùng với chủ trương, chính sách đúng đắn của Nhà nước, của
ngành nhằm thống nhất một mục tiêu chung là "Phục vụ khách hàng một cách tốt
nhất". Những nét nổi bất trong hoạt động cho vay của chi nhánh có thể kể đến là :
Trong năm qua chi nhánh đã tập trung đầu tư dài hạn cho các khách hàng truyền
thống, tích cực thực hiện tốt công tác tiếp thị, chủ động tìm kiếm thu hút khách
hàng mới và tăng cường tiếp cận dự án khả thi, dư nợ tăng trưởng cao chất lượng
dự nợ được nâng lên rõ rệt. Tính đến 31/12/2001 tổng dư nợ cho vay nền kinh tế và
các khoản đầu tư là 604,3 tỷ đồng tăng 45,9% so với năm 2000.
Để có một hướng nhìn toàn diện về công tác sử dụng vốn của chi nhánh ta
xét đến chỉ tiêu dư nợ.
BẢNG 2 : PHÂN TÍCH CƠ CẤU DƯ NỢ
(Đơn vị : triệu đồng)
Chỉ tiêu 31/12/2001 % trong
Σ dư nợ
% so với
31/12/2000
1. Phân theo thành phần kinh tế
Kinh tế quốc doanh 553 91,7 148,5
Kinh tế ngoài quốc doanh 49,6 9,3 121,3
2. Phân theo kỳ hạn cho vay
Cho vay ngắn hạn 415,9 69 126,5
Cho vay trung, dài hạn 186,7 31 121,2
3. Theo nội và ngoại tệ
Cho vay bằng VND 279,1 46,3 95,7
Cho vay bằng ngoại tệ ( quy đổi) 323,5 53,7 266,3
B2 [1,3 ]
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, công tác đầu tư vốn trên điạ bàn
quận Hai Bà Trưng có nhiều biến đổi. Ngay khi mới thành lập, Ngân hàng mang
trọng trách phục vụ kinh tế quận là chính. Lịch sử hình thành và địa bàn hoạt động
đã đặt ra mục tiêu của Ngân hàng là phục vụ kinh tế quốc doanh. Vì vậy qua bảng
phân tích cơ cấu dư nợ, dư nợ của thành phần cơ cấu quốc doanh chiếm tới 91,7%
tổng dư nợ, trong khi dư nợ của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chỉ là 9,3%
khoảng cách trênh lệch quá lớn giữa hai con số đã khẳng định Ngân hàng vẫn chưa
thu hút được thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Đây chính là sự mất cân đối cần
khắc phục.
Bằng việc nghiên cứu kỹ hồ sơ và đối tượng vay vốn trên cơ sở thẩm định
dự án đảm bảo tính pháp lý có tính khả thi, Ngân hàng Công Thương Hai Bà Trưng
Ngân đã từng bước đẩy mạnh cho vay các thành phần kinh tế nhất là các doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả. Đặc biệt, khối kinh tế quốc doanh và doanh số cho vay
liên tục tăng góp phần giúp cho nhiều doanh nghiệp thuộc ngành kinh tế mũi nhọn
của thành phố để đổi mới trang thiết bị công nghệ, nhập nguyên liệu, nâng cao chất
lượng sản phẩm. Năm qua tổng số có 22 dự án được thẩm định và 17 dự án được
phát tiền vay, do đó đưa tốc độ dư nợ trung và dài hạn tăng lên 121,2% so với năm
2000. Đây là hướng đầu tư phù hợp góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước.
Qua phân tích ở trên ta thấy công tác sử dụng vốn của chi nhánh lấy mục
tiêu "phát triển, an toàn, và hiệu quả" đã bước đầu đi vào ổn định. Ngân hàng đã
tập trung mở rộng đầu tư đối với khu vực kinh tế quốc doanh, những dự án lớn,
khả thi và có hiệu quả, chủ động tạo mọi thuận lợi hỗ trợ tích cực cho các doanh
nghiệp được vay vốn Ngân hàng, đã tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra chi nhánh cũng đã đa dạng hoá việc đầu tư của mình bằng nhiều nguồn
vốn khác nhau như ngoại tê, nội tệ, các nguồn tài trợ uỷ thác, cho vay tạo việc làm,
hùn vốn liên doanh... ngày càng đáp ứng tốt hơn đòi hỏi cao của khách hàng.
c. Kết quả kinh doanh
Những năm cuối của thể kỷ 20, đầu thể kỷ 21 có những vị trí hết sức quan
trọng trong tiến trình đổi mới, đưa nền kinh tế bước sang giai đoạn phát triển chiều
sâu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, từng bước hội nhập vào
kinh tế khu vực và thế giới. Là một lĩnh vực nhậy cảm, đòi hỏi phải có những bước
đi thận trọng trong quá trình đổi mới, hệ thống Ngân hàng nói chung và Ngân hàng
Công thương Khu vực II - Hai Bà Trưng nói riêng, có những nhiệm vụ rất nặng nề,
vừa phải khắc phục những tồn tại cũ, vừa phải vươn lên để đáp ứng nhu cầu của
mình trong tình hình mới, trước những khó khăn thách thức lớn phải vượt qua. Ý
thức được mặt mạnh mặt yếu của mình, trong những năm qua chi nhánh luôn tích
cực tìm ra phương hướng hình thức nâng cao hiệu quả hoạt động. Chính vì vậy
luôn được đánh giá là một chi nhánh "ổn định, an toàn, hiệu quả và phát triển".
Để có cái nhìn toàn diện về kết quả kinh doanh của ngân hàng, ta xem xét
bảng sau:
BẢNG 3 : KẾT QUẢ KINH DOANH
(Đơn vị : triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
1. Thu nhập
- Thu về hoạt động kinh doanh
- Thu khác
101.037,4
95022,2
6015,2
111.466,4
39.229,1
72.237,3
93.350,9
35.452,7
57.898,2
2. Chi phi
- Chi phí về hoạt động kinh doanh
- Chi nộp thuế
- Chi dịch vụ thanh toán
- Chi nhân viên
- Chi khác
87.033,3
79.452,6
480,4
150,4
4.097,6
2.852,5
96.435,1
87.998,5
90,4
154,9
4.964,7
3.227,4
76.426,9
63.422,3
175,4
158,4
7.349,8
532,1
3. Kết quả kinh doanh 14.004,1 15.030,5 16.924,0
B3 [1,5 ]
Số liệu ở bảng trên cho thấy đây là một ngân hàng làm ăn có lãi, với kết quả
kinh doanh khá ổn định và tăng đều trong các năm: Kết quả kinh doanh của năm
2000 so với năm 1999 tăng 7,3% và vào năm 2001 tăng 7,6% so với năm 2000,
kết quả này góp phần thực hiện kế hoạch lợi nhuận chung của toàn hệ thống. Để
xem xét cụ thể hơn tình hình kinh doanh của chi nhánh phải đánh giá các chỉ tiêu
chất lượng ở các lĩnh vực cơ bản.
- Đối với công tác huy động vốn, có thể nói Ngân hàng đã đạt được sự tăng
trưởng đáng kể. Tổng nguồn vốn huy động đến ngày 31/12/2001 đạt 1,579 tỷ đồng,
tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước và đạt 107,9% so với kế hoạch. Với doanh số
trên Chi nhánh được đánh giá là một trong những Ngân hàng có vốn huy động tiết
kiệm lớn trên địa bàn Hà Nội.
- Công tác sử dụng vốn ở Ngân hàng cũng đạt được kết quả đáng ghi nhận,
dư nợ tín dụng tăng trưởng lành mạnh và vững chắc - cụ thể tổng dư nợ tín dụng
cuối năm 2001 tăng 45,9% so với cuối năm 2000, việc tăng này chủ yếu do mở
rộng đầu tư đối với thành phần kinh tế quốc doanh - chiếm 91,7% trong tổng dư
nợ.
- Để xem xét tín dụng của Ngân hàng phải đề cập tới vấn để nợ quá hạn
(NQH). Việc tổ chức, triển khai, xử lý NQH, Chi nhánh đã thực hiện tốt, phát huy
trí tuệ tập thể đảm bảo đúng tinh thần chỉ đạo. Bằng những biện pháp cụ thể nên
việc thu NQH của Chi nhánh đã đạt được kết quả đáng khích lệ. Với doanh số thu
NQH 2,5 tỷ đồng trong đó thu nợ khó đòi 1,4 tỷ đồng, đưa tỷ lệ dư NQH đến
31.12.2001 xuống 3,1% trong tổng dư nợ và đầu tư, giảm 1,6% so với cuối năm
2000. Như vậy vấn đề NQH của Chi nhánh đã có những chuyển biến tích cực, nó
không còn là vấn đề không thể giải quyết.
Qua phân tích trên chúng ta đã có một cái nhìn khá toàn diện cả về những
thuận lợi cũng như khó khăn trong công tác huy động vốn và tín dụng - hai lĩnh
vực truyền thống của ngân hàng.
2.2- HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP DỊCH VỤ Ở CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG KHU VỰC II - HAI BÀ TRƯNG.
Đối với một Ngân hàng Thương Mại phần lớn lợi nhuận thu được là nhờ
thực hiện các nghiệp vụ tín dụng. Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư đảm bảo cho các
ngân hàng một khoản thu nhập bổ xung và cho phép phân tán rủi ro. Ngoài ra còn
một sản phẩm mang lại lợi nhuận đáng kể cho Ngân hàng, đó là dịch vụ Ngân
hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng trong việc thu hút khách hàng và mở rộng
thu nhập cho ngân hàng Chi nhánh Ngân hàng Công thương Khu vực II - Hai Bà
Trưng đã cố gắng đa dạng hoá dịch vụ của mình. Trong nội dung hoạt động của
Chi nhánh gồm những dịch vụ chủ yếu sau:
BẢNG 4: DANH MỤC PHỤC VỤ NH
Dịch vụ Phòng ban thực hiện
1. Thanh toán chi trả hộ Tài chính kế toán
2. Thu hộ Tài chính kế toán
3. Thanh toán chuyển tiền cá nhân trong nước Tài chính kế toán
4. Chi trả kiều hối Kinh doanh đối ngoại
5. Dịch vụ thanh toán séc du lịch Kinh doanh đối ngoại
6. Dịch vụ bảo lãnh Kinh doanh
7 7. Nhận chuyển tiền mặt từ địa phương này đến
địa phương khác
Kế toán tài chính