Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

tín dụng ngân hàng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.75 KB, 31 trang )

tín dụng ngân hàng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với các nghiệp
vụ hoạt động kinh doanh là nghiệp vụ nợ, nghiệp vụ có và nghiệp vụ trung
gian. Ngân hàng kinh doanh tiền tệ chủ yếu không phải bằng tiền vốn tự có mà
bằng nguồn vốn của những người gửi tiền. Có nghĩa là ngân hàng huy động
vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Sau đó sử dụng vốn đó bằng cách cho vay, chiết
khấu hay đầu tư, liên doanh. Nghiệp vụ trung gian là dịch vụ ngân hàng hỗ trợ
cho các hoạt động của các doanh nghiệp. Khi huy động vốn ngân hàng phải có
trách nhiệm hoàn trả cả lãi và gốc cho khách hàng, sau đó sử dụng Nguồn vốn
huy động đó để kinh doanh và thu lãi. Đây là nguồn gốc của tín dụng ngân
hàng.
Theo cách hiểu chung nhất, tín dụng ngân hàng là quan hệ kinh tế giữa
một bên là ngân hàng và một bên là khách hàng của ngân hàng, trong đó ngân
hàng chuyển giao tiền hay tài sản cho khách hàng sử dụng kèm theo thời gian
gian hoàn trả lại cho ngân hàng toàn bộ số gốc và một phần lãi do hai bên
thoả thuận.
Thông qua việc cung ứng vốn như vậy cho nền kinh tế, hoạt động tín
dụng ngân hàng ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành nghề kinh tế và
các thành phần kinh tế. Các chủ trương, chính sách tín dụng của ngân hàng sẽ
quyết định việc kích thích hay hạn chế hoạt động của các chủ thể trong nền
kinh tế .
1.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường ,các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa
dạng và phong phú. Để đáp ứng được sự đa dạng và phong phú đó thì đòi hỏi
tín dụng ngân hàng cũng phải có những hình thức khác nhau. Có rất nhiều
hình thức phân loại tín dụng ngân hàng khác nhau tuỳ theo các tiêu thức khác
nhau. theo điều 49 mục 2 luật các tổ chức tín dụng thì tín dụng ngân hàng
được phân theo các hình thức sau:
1.2.1 Phân theo hình thức cho vay


Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng qy định: cho vay là một hình
thức của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cho khách hàng vau một khoản
tiền để sử dụng vào một mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với
nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Tổ chức tín dụng cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp ứng
nhu cầu cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
Tổ chức tín dụng cho cá nhân vay trung và dài hạn nhằm thực hiện dự
án đầu tư phát thiển sản xuất kinh doanh dịch vụ và đời sống.
1.2.2 Theo hình thức chiết khấu
Trong nền kinh tế thị trường, các giấy tờ có giá được phát hành và lưu
thông theo quy định của pháp luật. Người giữ các giấy tờ có giá đó nếu cần
tiền mặt khi các giấy tờ có giá đó chưa đến hạn thanh toán thì có thể mang các
giấy tờ có giá đó đến ngân hàng để xin chiết khấu. “ Tổ chức tín dụng được cấp
tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn
hạn khác. Người chủ sở hữu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác
phải chuyển giao ngay mọi quyền và lợi ích hợp pháp phát sinh từ các giấy tờ
có giá đố cho tổ chức tín dụng ” ( Điều 57 mục 2 luật các tổ chức tín dụng ).
Như vậy, về bản chất kinh tế, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ
có giá ngắn hạn khác là tín dụng ngắn hạn và ngân hàng chuyển tiền cho
người chủ sở hữu các loại giấy tờ có giá đó khi nó chưa đến hạn thanh toán.
Khách hàng muốn bán thương phiếu cho ngân hàng phải lập đầy đủ thủ tục
gống như vay vốn, làm đơn xin chiết khấu thương phiếu, ngân hàng kiểm
tra khả năng thanh toán nợ khi đến hạn của người phát hành thương phiếu,
nếu được thì chấp nhận và quyết định mức chiết khấu. Thông thường các
ngân hàng chỉ chiết khấu các thương phiếu có thời hạn đến hạn ngắn hạn
( từ 3 đến 6 tháng ). Ưu điểm đặc biệt của hình thức này là nến trong
trường hợp khó khăn về khả năng thanh toán thì có thể đem các giấy tờ có
giá đó đến ngân hàng Trung ương xin tái chiết khấu.
1.2.3 Hình thức nhận trả
Đây là hình thức mà Ngân hàng nhận trả thay nợ cho người phát hành

kỳ phiếu khi đến hạn thanh toán mà người phát hành kỳ phiếu không có khả
năng thanh toán. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho người sử dụng kỳ phiếu
rằng họ sẽ nhận được tiền khi đến hạn thanh toán cũng như có thể dễ dàng
đem kỳ phiếu đi đến chiết khấu. Để có thể sự đảm bảo đó, doanh nghiệp phải
phát hành kỳ phiếu đó phải trả cho Ngân hàng một khoản tiền gọi là “ hoa
hồng ”.
Trong hợp đồng tín dụng giữa người phát hành kỳ phiếu và Ngân hàng
có quy định người phát hành kỳ phiếu phải giao số tiền của kỳ phiếu chậm
nhất là trước ngày kỳ phiếu đến hạn. Ngân hàng phải thẩm định khả năng cho
doanh nghiệp đó phát hành kỳ phiếu.
1.2.4 Tín dụng trả nhiều lần
Là hình thức cho vay mà việc trả nợ được phân ra làm nhiều lần, mỗi
lần trả nợ bao gồm một phần gốc và một phần lãi. Loại tín dụng này rất phù
hợp với đặc điểm sử dụng vốn của doanh nghiệp là thu hồi vốn làm nhiều lần.
Tín dụng trả nhiều lần bao gồm các loại tín dụng ngắn, trung và dài hạn.
Doanh nghiệp và Ngân hàng thoả thuận mức cho vay, lãi suất cho vay và kỳ
hạn trả nợ cũng như số lãi và gốc cho môĩ lần trả nợ. Tín dụng trả nợ nhiều lần
có thị trường rộng lớn và phong phú, tuy nhiên, cần có điều kiện đảm bảo để
thực hiện loại tín dụng này.
1.2.5 Hình thức bảo lãnh
Đây là hình thức tín dụng phát sinh do Ngân hàng nhận bảo lãnh dùng
uy tín của mình để đảm bảo thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp
người mua hàng ( người được bảo lãnh ) không có khả năng thanh toán nợ.
Có hai loại bảo lãnh:
• Bảo lãnh bằng thư: Ngân hàng phái hành một thư bảo lãnh để khách hàng
có thể mua vật tư hàng hoá, bao thầu.. Trong thư bảo lãnh Ngân hàng cam kết
sẽ trả thay cho khách hàng khi khách hàng không trả tiền , nộp thuế..
• Bảo lãnh bằng hình thức chấp nhận: Ngân hàng có thể dùng cách ký chấp
nhận vào một thương phiếu do nhà cung cấp lập khi bán chịu cho khách hàng
do một Ngân hàng lập cho người muốn vay tiền. Bảo lãnh vay tiền của một

Ngân hàng khác còn là cách san sẻ rủi ro cho nhiều Ngân hàng.
1.2.6 Hình thức cầm cố bất động sản
Đây là hình thức cho vay dài hạn trên cơ sở đảm bảo bằng bất động
sản như nhà của, đất đai, xưởng máy...Tài sản cầm cố phải được chuyển cho
người cho vay, do đó người cho vay là người sở hữu được trực tiếp, còn
người vay chỉ là người sở hữu gián tiếp tài sản cầm cố. Trong hoạt động
Ngân hàng điều đó có nghĩa là tài sản cầm cố dễ vận chuyển có giá trị cao
thì được đưa vào kho của Ngân hàng, nếu là các hàng hoá đang trên đường
vận chuyển hoặc các bất động sản, tài sản...Có khối lượng lớn thì cầm cố có
thể là các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản đó.
1.2.7 Hình thức cho thuê tài chính
Đây là hình thức tín dụng trong đó người thuê tài sản theo yêu cầu
của người đi thuê thực hiện việc cho thuê tài sản theo hợp đồng thuê
mua.Tài sản cho thuê thường bao gồm động sản và bất động sản như nhà
cửa, đất đai, máy móc, thiết bị có giá trị lớn. Trong hợp đồng thuê mua phải
có giá thuê , thời hạn thuê và cách thức xử lý tài sản khi hết hạn thuê, giá
thuê bao gồm khấu hao tài sản cho thuê, lãi trên cơ sở lãi suất của vốn bỏ ra
mua tài sản và các chi phí khác. Hết hợp đồng thuê, người thuê có thể yêu
cầu bán lại tài sản cho họ hoặc yêu cầu thuê tiếp hoặc trả lại tài sản cho
người thuê. Trong thời gian cho thuê tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của
người cho thuê nên thực chất đây là khoản cho vay có đảm bảo chắc chắn.
Cho thuê tài chính không giống như hình thức cho vay trả góp, cũng không
giống như cho vay bình thường. Nó tạo ra thuận lợ cho các doanh nghiệp có
khó khăn về tài chính hoặc các doanh nghiệp sản xuất có tính chất thời vụ.
1.3. Quy trình cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Việc mở rộng hoạt động cho vay là hoạt động cho vay đối với Doanh
nghiệp ngoài quốc doanh là một việc cần được thúc đẩy. Nhưng mở rộng cho
vay phải luôn đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng của các hoạt động. Để
tránh rủi ro, thất thoát trong hoạt động tín dụng của mình thì các Ngân hàng
phải cấp tín dụng theo một trình tự chặt chẽ. Tuỳ theo quy mô, tổ chức, đặc

điểm của từng món vay, từng khách hàng và điều kiện thức tế để thực hiện quy
trình cho vay, nhưng nhìn chung theo các bước như sau: lập hồ sơ xin cấp tín
dụng, thẩm định (hay còn gọi là phân tích tín dụng), quyết định tín dụng, giải
ngân, giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng.
1.3.1 Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng
Để có được một quyết định chính xác về việc cấp tín dụng hay không,
ngân hàng phải phân tích hàng loạt các thông tin có liên quan, và nguồn sơ
khởi đầu tiên có được là lấy từ hồ sơ đề nghị cấp tín dụng. Xét về mặt kinh tế,
mặc dù quan hệ tín dụng chưa hình thành, nhưng đây là giai đoạn chuẩn bị
những điều kiện cần thiết để quan hệ tín dụng được thiết lập một cách lành
mạnh. Xét về mặt thủ tục hành chính, thì đây là giai đoạn hình thành đầy đủ
các giấy tờ, văn bản chứng tỏ khách hàng có nhu cầu về vốn tín dụng, cũng như
chứng minh được tính hợp pháp về nhân thân khách hàng và tính tự nguyện
xin cấp tín dụng của khách hàng. Số lượng giấy tờ trong hồ sơ được lập ở giai
đoạn này phụ thuộc vào các yếu tố sau: loại khách hàng, loại và kỹ thuật cấp
tín dụng, quy mô nhu cầu tín dụng. Nhìn chung, những thông tin mà khách
hàng phải cung cấp có thể phân thành bốn nhóm sau: những tài liệu chứng
minh năng lực pháp lý của khách hàng, những tài liệu chứng minh khả năng
hấp thụ vốn tín dụng và khả năng hoàn trả vốn tín dụng của khách hàng,
những tài liệu liên quan đến bảo đảm tín dụng hoặc điều kiện cấp tín dụng đặc
thù, giấy đề nghị cấp tín dụng đi kèm.
1.3.2 Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách
hàng, về sử dụng vốn tín dụng cũng như khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng.
Mục tiêu của phân tích tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể dẫn đến
rủi ro cho ngân hàng và tiên lượng khả năng kiểm soát của ngân hàng về các
loại rủi ro đó, cũng như dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế những
thiệt hại có thể xảy ra. Mặt khác, phân tích tín dụng giúp cho ngân hàng kiểm
tra tính chính xác của các thông tin do khách hàng cung cấp, từ đó có nhận
định đúng về thái độ của khách hàng. Các nguồn thông tin làm cơ sở để phân

tích tín dụng có thể nhận được từ: hồ sơ đề nghị cấp tín dụng của khách hàng;
hồ sơ lưu trữ tại ngân hàng hoặc từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, đặc
biệt từ trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của hệ thống các định chế tài
chính trung gian; các cơ quan chức năng như thuế, pháp luật...; các ấn bản
kinh tế, các báo chí, và các phương tiện thông tin đại chúng khác; trực tiếp
phỏng vấn khách hàng và nhân viên của họ.
Nội dung phân tích tín dụng: phân tích tín dụng được chia ra làm hai lĩnh
vực, đó là phân tích phi tài chính và phân tích tài chính đối với khách hàng.
♦ Phân tích phi tài chính
Là phân tích các yếu tố ít hoặc không liên quan tới vấn đề tài chính của
khách hàng một cách trực tiếp. Đó là, phân tích, kiểm tra tính pháp lý của
khách hàng; kiểm tra mục đích của khoản tín dụng đề nghị cấp; phân tích tính
cách của khách hàng, uy tín của họ trong kinh doanh, cuộc sống; nghiên cứu,
phân tích tình hình quản trị doanh nghiệp, khả năng và uy tín của hội đồng
quản trị và ban điều hành, chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc và những
người có ảnh hưởng lớn đến công ty cũng như khả năng tài chính của cá nhân
họ; nghiên cứu triển vọng của khách hàng, đặc biệt vị thế trên thương trường,
xu hướng phát triển nghành, vùng và các chiến lược phát triển trong tương lai
của khách hàng. Việc nghiên cứu này phải được kết hợp với những chính sách
có liên quan của Chính phủ.
♦ Phân tích tài chính
Là phân tích hiện trạng tài chính và các dự báo về tài chính của khách
hàng nhằm tìm kiếm và tiên lượng những trường hợp xấu có thể xảy ra, làm
giảm khả năng trả nợ của khách hàng. Phân tích tài chính gồm đánh giá khái
quát về quản trị vốn và các hoạt động kinh doanh, phân tích hệ số tài chính,
phân tích lưu chuyển tiền tệ, phân tích các dự báo tài chính.
Thực chất phân tích tài chính trong phân tích tín dụng là xác định các
yếu tố về lượng của nhu cầu vay vốn tín dụng. Ở đây, ngân hàng sẽ xác định
quy mô của nhu cầu vay hợp lý. Nhu cầu vay được xác định tùy theo khả năng
hoạt động của khách hang, theo quy mô về nguồn vốn cần thiết để thực hiện

phương án tài chính, mà trong đó một phần vốn vay sẽ tham gia.
Bên cạnh đó, trong quá trình phân tích tài chính, ngân hàng cũng sẽ xác
định thời hạn hợp lý cho các khoản vay. Cơ sở để xác định thời hạn vay là tính
chất luân chuyển vốn của phương án sản xuất kinh doanh và phương án tài
chính hoặc chu kỳ ngân quỹ của khách hàng. Hơn nữa, thời hạn cho vay phải
không được vượt quá thời hạn tối đa mà ngân hàng quy định cho từng loại đối
tượng vay cũng như mỗi ngành, nghề của khách hàng.
Cùng với việc xác định thời hạn cho vay, ngân hàng còn xác định các kỳ
hạn trả nợ. Một khoản vay có thể quy định một kỳ hạn trả nợ duy nhất, cũng có
thể định nhiều kỳ hạn trả nợ. Tuy nhiên, dù có chia ra nhiều lần trả nợ thì về
nguyên tắc kỳ hạn trả nợ cuối phải trùng với ngày đáo hạn của khoản vay.
1.3.3 Ra quyết định tín dụng
Ra quyết định tín dụng như thế nào, chấp thuận hay không chấp thuận
là công việc cực kỳ quan trọng. Nó không những ảnh hưởng đến tiến trình hoạt
động của khách hàng, mà còn ảnh hưởng đến cả uy tín của ngân hàng. Trong
thực tế, ngân hàng rất sợ gặp hai loại sai lầm. Thứ nhất, quyết định chấp
thuận mà sau đó khách hàng lại không có khả năng trả nợ. Trường hợp này,
ngân hàng có thể bị giảm lợi nhuận, thậm chí mất vốn, giảm uy tín. Thứ hai,
quyết định không chấp thuận khách hàng có khả năng hoàn trả vốn tín dụng
đúng hạn. Trường hợp này thiệt hại từ phía ngân hàng cũng đáng kể. Đó là,
ngân hàng mất một cơ hội tăng thu nhập, mất đi một khách hàng, cơ hội mở
rộng thị phần của mình. Vì lẽ đó, trong giai đoạn này vai trò của người ra
quyết định được đề cao.
Cơ sở để ra quyết định tín dụng: ngoài các thông tin được chuyển giao từ
giai đoạn trước chuyển sang, người ra quyết định còn phải dựa vào những cơ
sở sau: thông tin cập nhật từ thị trường, các cơ quan có liên quan; chính sách
tín dụng của ngân hàng, những quy định hoạt động tín dụng của nhà nước;
nguồn cho vay của ngân hàng khi ra quyết định; kết quả thẩm định bảo đảm
tín dụng.
Trước khi kết thúc giai đoạn này, nhà quản trị còn phải tính giá cả, chi phí

cho khoản tín dụng nếu được chấp thuận, lượng định những rủi ro có thể xảy
ra để dự kiến thu nhập có được từ khoản tín dụng sẽ được cấp. Về nguyên tắc,
trên cơ sở lãi suất cơ bản tại ngân hàng và loại rủi ro khách hàng được đánh
giá ở giai đoạn trước, có điều chỉnh, cập nhật thông tin mà người có thẩm
quyền sẽ ra quyết định về lãi suất áp dụng với khoản tín dụng được xét. Việc áp
dụng lãi suất thả nổi hay cố định phụ thuộc vào chính sách quản trị rủi ro của
ngân hàng.
Kết thúc giai đoạn này được đánh dấu bởi các văn bản thể hiện kết quả ra
quyết định tín dụng. Nếu từ chối, ngân hàng phải có văn bản thông báo và nêu
lý do từ chối, người ra quyết định tín dụng phải ghi ý kiến từ chối lên giấy đề
nghị cấp tín dụng cũng như hồ sơ xin cấp. Nếu chấp thuận, ngân hàng sẽ tiến
hành ký kết hợp đồng tín dụng cùng hợp đồng có liên quan tới bảo đảm tín
dụng nếu có. Đây là hành vi pháp lý rất quan trọng làm cơ sở để tiến hành giao
vốn cho khách hàng và kiểm soát thu hồi vốn đã cấp.
1.3.4 Giải ngân
Giải ngân là nghiệp vụ cấp tiền cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng
đã cam kết theo hợp đồng. Giải ngân phải đảm bảo nguyên tắc vận động của
tín dụng gắn liền vận động của hàng hóa. Hay nói một cách khác, việc phát tiền
vay phải có hàng hóa đối ứng, phù hợp với mục đích vay của hợp đồng tín
dụng.
Giải ngân có thể chia làm hai loại:
♦ Giải ngân là nghiệp vụ cấp tiền thuần túy: Theo loại này thì ngân hàng
chỉ thuần túy cấp tiền cho khách hàng trong phạm vi mức tín dụng đã ký kết
mà không đói hỏi thêm những diều kiện đặc biệt nào.
♦ Giải ngân là quyết định cho vay phụ kèm theo với việc cấp tiền: Khi hợp
đồng tín dụng có quy định có những điều kiện ràng buộc cho việc giải ngân. Có
thể xảy ra những tình huống sau: ngân hàng có thể từ chối cấp khoản tiền vay
mặc dù đã ký hợp đồng tín dụng, ngân hàng chỉ cấp tiền vay theo các quy
địnhcủa hợp đồng tín dụng.
Việc áp dụng các phương pháp giải ngân khác nhau phụ thuộc vào kỹ

thuật cho vay khác nhau như cho vay để mua tồn kho, máy móc thiết bị, hay
các tài sản;cho vay để thực hiện các dư án đầu tư; cho vay để mua hàng nông
sản...
1.3.5 Giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng
Giai đoạn giám sát tín dụng sẽ được tiếp nối với mục tiêu, theo dõi, đánh
giá mức độ chấp hành tín dụng của khách hàng và kịp thời có cách ứng xử
thích hợp. Nội dung của giai đoạn này chủ yếu gồm: giám sát tín dụng, thu nợ,
tái xét tín dụng và phân hạng tín dụng, xử lý nợ quá hạn, nợ có vấn đề. Mục
tiêu của giám sát tín dụng là kiểm tra việc thực hiện các điều khoản đã cam kết
trong hợp đồng tín dụng, bao gồm: khách hàng có sử dụng vốn có đúng mục
đích không, kiểm soát mức độ rủi ro tín dụng phát sinh trong quá trình sử
dụng vốn tín dụng, theo dõi các điều khoản cụ thể đã thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng....có thể giám sát thông qua hoạt động tài khoản của khách hàng
tại ngân hàng, phân tích báo cáo tài chính theo định kỳ, viếng thăm và kiểm
soát địa điểm hoạt động kinh doanh, kiểm tra các bảo đảm tiền vay, thông qua
mối quan hệ với khách hàng và qua những thông tin khác.
Việc thu nợ của ngân hàng phu thuộc vào phương thức cấp tín dụng
trước đó. Đối với khoản tín dụng thu theo nhiều kỳ hạn, thu lãi và gốc có thể
tách rời, nhân viên ngân hàng có trách nhiệm theo dõi kế hoạch trả nợ, và
thường xuyên có thông tin qua lại giữa nhân viên kế toán và cán bộ tín dụng,
giám sát, đôn đốc kịp thời khi đến kỳ hanh trả nợ.
Tái xét tín dụng và phân hạng tín dụng thực chất là tiến hành phân tích
tín dụng trong điều kiện khoản tín dụng đã được cấp. Mục tiêu của xem xét lại
tín dụng là đánh giá lại chất lượng tín dụng, nhằm phát hiện các rủi ro để có
hướng xử lý kịp thời.
Khi các khoản vay có vấn đề, tức là xảy ra nợ quá hạn ngân hàng sẽ
chuyển nợ quá hạn và áp dụng những biện pháp khắt khe để nhanh chóng thu
hồi nợ đầy đủ.
Năm giai đoạn của qui trình tín dụng có mối tương quan mật thiết với
nhau, giai đọan trước là tiền đề thực hiện các công việc của giai đoạn sau. Đối

với những hồ sơ cho vay phức tạp việc trao đổi và thực hiện các công việc bổ
sung giữa các giai đoạn diễn ra nhiều lần.
2. TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH .
2. 1. Kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nếu nghiên cứu cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hình thức sở hữu đối với
tư liệu sản xuất thì cơ cấu kinh tế bao gồm: kinh tế quốc doanh và kinh tế
ngoài quốc doanh. Trong đó kinh tế quốc doanh mang hình thức sở hữu Nhà
nước về tư liệu sản xuất còn kinh tế ngoài quốc doanh mang hình thức sở hữu
phi nhà nứoc về tư liệu sản xuất.
Từ trước năm 1986, kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta chỉ duy nhất
là kinh tế tập thể với hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuât. Sau năm
1986, nên kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường, đa thành phần
kinh tế. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được mở rộng thêm các thành phần
kinh tế khác bao gồm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và sản xuất nhỏ (hộ
gia đình). Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các đơn vị sản xuất kinh
doanh có tính chất tư hữu ( không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài ) bao gồm:
các doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Công ty cổ phần và các đơn vị theo
hình thức hợp tác xã.
- Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
- Công ty trách nhiêm hữu hạn: Là công ty trong đó phần vốn góp của tất cả
các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần
vốn góp được ghi rõ trong điều lệ công ty . Công ty không được phép phát hành
bất kỳ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành
viên được thực hiện tự do. Việc chuyển vốn góp cho người không phải là thành
viên phải được sự nhất trí của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn
điều lệ của công ty. Có công ty Trách nhiện hạn một thành viên và công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
- Công ty cổ phần: Là công ty trong đó số thành viên gọi là cổ đông mà công
ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là ba người...Vốn điều lệ của

công ty được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần: Cổ phiếu được
phát hành có ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu không ghi tên được tự do
chuyển nhượng, cổ phiếu có ghi tên chỉ được chuyển nhượng nếu sự đồng ý
của Hội đồng quản trị.
- Hợp tác xã: Là đơn vị kinh tế do nhiều lao động cùng nhau góp vốn sản xuất
kinh doanh.Hợp tác xã hoạt động theo luật hợp tác xã và trên nguyên tắc bình
đẳng, dân chủ, cùng hưởng lợi, cùng chịu rủi ro với mọi thành viên nhằm kết
hợp sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn sản xuất kinh
doanh và đời sống, Cơ quan cao nhất là Đại hội xã viên, cơ quan quản lý hoạt
động của hợp tác xã là ban chủ nhiệm hợp tác xã được các xã viên bầu ra theo
luật hợp tác xã.
Trong những năm gần đây quan điểm phát triển nền kinh tế nước ta
bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự nghiệp của toàn
dân đòi hỏi sự khác nhau của các thành phần kinh tế. Sản lượng các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh đã tăng lên nhanh chóng và tham gia tích cực hơn
vào thị trường, góp phần làm cho nền kinh tế trở nên sôi động.
Bảng 1: Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới đăng ký trong từng
năm
199
1
199
2
199
3
199
4
199
5
199
6

199
7
199
8
1999 2000
Số lượng
doanh nghiệp
110
398
5
749
3
717
5
615
8
549
0
365
7
302
2
3601 14417
Tổng lượng vốn
(tỷ đồng)
118
301
5
345
8

258
8
288
0
250
6
178
4
220
4
3435 13783
Vốn trung bình
(triệu đồng)
107
3
757 461 361 468 435 488 729 954 956
(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư )
Nếu năm 1991 mới chỉ có 110 doanh nghiệp ngoài quốc doanh với số
vốn điều lệ 118 tỷ VND. Thì đến năm 1992 đã có 3.985 doanh nghiệp ngoài
quốc doanh đăng ký kinh doanh với số vốn điều lệ 3.015 tỷ VND. Sang năm
1993 con số này tăng lên 7.493 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký kinh
doanh là 3.458 tỷ VND. Với tốc độ phát triển như vậy năm 1996 đã có 26.091
doanh nghiệp với số vốn điều lệ là 8.257 tỷ VND tương đương khoảng 14%
tổng vốn điều lệ của các doanh nghiệp nhà nước năm 2000, cùng với sự ra đời
của thị trường chứng khoán, và chủ trương của Đảng là cổ phần hoá các
doanh nghiệp Nhà nước, các công ty cổ phần đã tăng lên một cách nhanh
chóng, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng được mở rộng. Chỉ tính
riêng trong năm 2000 đã có 14.417 doanh nghiệp ngoài quốc doanh đăng ký
kinh doanh với tổng số vốn điều lệ là 13.783 tỷ VND. Qua thực trạng phát triển
của doanh nghiệp ngoài quốc doanh ta thấy các doanh nghiệp ngoài quốc

doanh ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế. Sự tồn tại
và phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một tất yếu khách
quan, cần được sự ủng hộ và hỗ trợ của Đảng và Nhà nước để các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển lớn mạnh.
2.2. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
2.2.1 Đối với kinh tế
♦ Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế , đóng góp ngân sách Nhà nước
Sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã đóng góp tất
quan trọng làm tăng GDP thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tằng trưởng
nhanh của khu vực ngoài quốc doanh cũng đến nay chưa có số hiệu chính thức
được công bố về đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân phi nông nghiệp trong
nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, theo ước tính, doanh nghiệp nhà nướcvà
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 43-45% GDP, sản xuất
nông nghiệp chiếm khoảng 27- 30 % GDP, thì phần còn lại của khu vực ngoài
quôc doanh chiếm khoảng 25 - 28 % GDP, Theo báo cáo gần đây của tổng cục
thống kê thì doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn , công ty cổ
phần đã tạo ra khoảng 8% GDP, hộ kinh doanh có thể tạo ra khoảng 8 - 9%
GDP và các hợp tác xã tạo ra khoảng 9% GDP. Như vậy, khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh không kể sản xuất nông nghiệp đã tạo ra khoảng 25 -26 % GDP
của cả nước. Riêng năm 2000 luật doanh nghiệp đã đẩy tốc độ tăng trưởng giá
trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh lên 18,3% so với 10,9% năm 1999
và là mức cao nhất trong 10 năm qua. Qua sự phát triển ngày càng mạnh mẽ
của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mà tổng giá trị thuế Nhà nước thu được

×