Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở NƯỚC TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.54 KB, 20 trang )

NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA
VÀ NHỎ Ở NƯỚC TA
3.1. Tạo vốn để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vốn đáp ứng cho yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói
chung và cho việc phát triển các DNVVN nói riêng là một cấn đề cực kỳ quan
trọng và cấp bách đối với nước ta trong nhiều năm tới.
Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng về “phương hướng nhiệm vụ kế hoạch
phát triển kinh tế- xã hội năm 2000- 2005” đã chỉ rõ rằng:
“ Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo đường lối đổi
mới, Đảng, Nhà nước ta chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài
nước để đầu tư phát triển, trong đó nguồn vốn trong nước có ý nghĩa quyết
định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên
trong với khả năng có thể tranh thủ bên ngoài. Chiến lược lâu dài là phải
huyđộng tối đa nguồn vốn trong nước để chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư. Tuy
nhiên, những năm đầu thời kỳ công nghiệp hoá đòi hỏi nguồn vốn lớn mà
nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp, nên phải phát huy nguồn vốn bên ngoài
cho nhu cầu đầu tư phát triển trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế và trả
được nợ”. [21,Tr228]
Trên cơ sở quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
việc tạo vốn cho nền kinh tế là trách nhiệm của nhiều ngành, nhiều cấp và từ
nhiều nguồn.
Song với chức năng và nhiệm vụ của mình, ngành ngân hàng ý thức
được rằng: Việc huy động vốn trong các tổ chức kinh tế, xã hội trong các tầng
lớp dân cư và huy động vốn từ bên ngoài là trách nhiệm chính của mình. Quan
điểm chỉ đạo chung của ngành ngân hàng l;à tập trung khai thác có hiệu quả
nguồn vốn trong nền kinh tế bằng việc tiếp tục đưa ra những hình thức huy
động được nhiều khách hàng. Song phải rất chú trọng huy động nguồn vốn có
thời hạn dài trên một năm nhằm đổi mới một bước cơ cấu nguồn vốn. Từ
những quan điểm trên, chúng tôi kiến nghị giải pháp tạo vốn cho nền kinh tế


nói chung và cho sự phát triển DNVVN trong những năm tới như sau:
3.1.1. Tăng cường huy động vốn ngắn hạn, dài hạn trong các tổ
chức kinh tế và dân cư.
1. Hoàn thiện các hình thức tiền gửi tiết kiệm của dân cư:
Trong tổng số nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại,
nguồn gửi tiết kiệm của dân cư chiếm tỷ trọng lớn, ngày càng tăng và ổn định.
Các hình thức huy động tiết kiệm nay tuy đã được sửa đổi và cải tiến nhưng
vẫn còn nghèo nàn.
Vấn đề đặt ra cho các nhà nghiên cứu và quản lý trong lĩnh vực ngân
hàng cần đưa ra các hình thức huy động ơhong phú hấp dẫn hơn.
Theo chúng tôi các hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm nên đổi mới
theo hướng sau đây:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, hàng quý nên có quay số thưởng. Lãi
suất huy động vốn không chênh lệch nhiều so với hình thức tiền gửi có kỳ hạn
ngắn. Vì đây là loại hình khách hàng dễ chấp nhận hơn.
- Thể thức tiền gửi ngắn hạn từ trên một tháng đến dưới một năm
không cần phân ra thời hạn gửi 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng như thể thức hiện
nay. Nhưng lãi suất quy định theo từng thời gian gửi 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng.
Mục đích là để đơn giản thủ tục giấy tờ.
- Phát hành thể thức gửi tiết kiệm dài hạn 1 năm, 2 năm, 3 năm với mức
lãi suất hợp lý để khuyến khích người gửi. Loại tiết kiệm này được tự do
chuyển nhượng quyền sở hữu và có khả năng thanh toán ở các ngân hàng
trong cùng hệ thống và khác hệ thống trên phạm vi cả nước. Đây là một cách
thức để mở rộng giao dịch tiền trên thị trường tiền tệ.
2. Đa dạng hoá các công cụ huy động vốn của ngân hàng.
Ngoài các hình thức huy động vốn tiết kiệm truyền thống cần phải đa
dạng hoá các công cụ huy động vốn như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu nội tệ
và ngoại tệ. Đây là các công cụ huy động vốn và mục đích sử dụng vốn từng
thời kỳ mà các ngân hàng quyết định thời hạn phát hành, tổng lượng vốn cần
huy động qua công cụ phát hành kỳ phiếu và trái phiếu có mục đích cao hơn lãi

suất huy động thông thường, và do đó các ngân hàng thương mại cũng được
cho phép vay với lãi suất thoả thuận cao hơn lãi suất đầu ra để phục vụ tốt hơn
cho các DNVVN.
3. Thực hiện chính sách ưu đãi với khách hàng.
Trong cơ chế thị trường, các nhà kinh doanh luôn có nhu cầu sử dụng
đồng vốn có hiệu quả. Nhiều nhà doanh nghiệp có số dư tiền gửi lớn ở ngân
hàng (đây chỉ là nguồn vốn tạm thời và không ổn định), cac ngân hàng muốn
sử dụng nguồn vốn này cần phải có chính sách ưu đãi đối với những khách
hàng nào có số tiền gửi vào ngân hàng như ưu đãi về lãi suất, ưu đãi khi vay
vốn và thanh toán. Mục đích là để khuyến khích khách hàng gửi tiền và vay tiền
nhiều hơn.
4. Đẩy mạnh việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán của các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế nhằm thu hút lượng tiền của các hộ kinh doanh cá
thể, của cán bộ công nhân viên chức và của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế, xã hội chưa sử dụng đến gửi vào tài khoản ngân hàng. Một mặt để tăng
cường nguồn vốn tín dụng, mặt khác tạo điều kiện mở rộng công tác thanh
toán không dùng tiền mặt. Hai mặt này có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau và tăng
hiệu quả vận động vốn trong nền kinh tế hàng hoá. Chỉ có thể thực hiện được
biện pháp huy động này khi hoạt động ngân hàng linh hoạt, gọn nhẹ, sát cụm
dân cư, tránh giấy tờ, thủ tục phiền hà. Ngân hàng hoạt động vì lợi ích của
người có tiền thì mới có lợi ích của chính mình.
Phải đổi mới cơ chế mở tài khoản ở ngân hàng để tăng nguồn vốn tín
dụng. Xoá bỏ sự phân biệt đối xử với việc mở và sử dụng tài khoản chính phụ,
tài khoản tiền gửi quốc doanh, ngoài quốc doanh và tư nhân chính sách thể.
Thủ tục mở tài khoản phải đơn giản nhưng đảm bảo tính pháp lý. Theo chúng
tôi, tư nhân cá thể chỉ cần có đơn xin mở tài khoản theo mẫu in sẵn, kèm theo
chứng minh nhân dân; các doanh nghiệp chỉ cần quyết định thành lập doanh
nghiệp và đăng ký kinh doanh là đủ điều kiện để mở tài khoản. Khách hàng mở
tài khoản giao dịch không phân biệt địa dư hành chính và được đảm bảo bí
mật tài khoản tiền gửi của mình. Ngân hàng thực hiện chi theo lệnh của khách

hàng bằng các phương tiện thanh toán như tiền mặt, ngân phiếu, chuyển
khoản tuỳ ý. Đặc biệt đối với khách hàng DNVVN.
5. Mở rộng các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán sao cho
nhanh, thuận tiện an toàn với mức phí thấp, lãi suất thoả đáng, tạo được lòng
tin để huy động vốn. Cải tiến việc chuyển tiền như chuyển tiền nhanh, chuyển
tiền qua mạng vi tính, thanh toán điện tử. Ngân hàng cần đẩy mạnh phát triển
séc cá nhân, sử dụng các loại thẻ thanh toán thẻ tín dụng và máy rút tiền tự
đông (ATM) áp dụng các hình thức thanh toán không chứng từ.... Ngân hàng
phải nhìn thấy sự hoạt động của bưu điện để xem xét chính mình.
3.1.2 Phát triển thị trường vốn để thu hút vốn.
1. Phát triển thị trường tiền tệ bao gồm thị trường tín dụng truyền
thống, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường tín phiếu kho
bạc. Đây là thị trường có tính chất nội bộ giữa các ngân hàng nhằm mua bán,
chuyển nhượng nội tệ, ngoại tệ nhằm vận dụng nguồn vốn ngẵn hạn của ngân
hàng. Các loại thị trường vốn đã được hình thành ở nước ta, bước đầu có kết
quả. Những năm đầu việc mua bán ngoại tệ và vay mượn trên thị trường này
đã đạt được doanh số khá.
2. Tạo điều kiện và tiền đề sớm có thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Trong nền kinh tế hàng hoá, điều quan trọng nhất đối với việc sản xuất
kinh doanh ở mọi doanh nghiệp kể cả DNVVN là vốn tiền tệ...
Một thị trường vốn lành mạnh, ổn định rất cần thiết cho sự phát triển
của nền kinh tế thị trường ở nước ta, cần hình thành sớm thị trường chứng
khoán để những giấy tờ có giá trị dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu công ty và
trái phiếu chính phủ.... được chuyển nhượng và mua bán nhừm biến đổi đầu tư
dài hạn thành ngắn hạn và ngựoc lại. Cần có cơ chế lãi suất cho vốn dài hạn
cao hơn vốn ngắn hạn để khuyến khích việc huy động nguồn vốn trung và dài
hạn được nhiều hơn.
Chúng tôi cho rằng: ở nước ta hiện nay đã có một số tiền đề để mở thị
trường chứng khoán như Nhà nước đã ban hành một số luật: Luật Công ty,
Luật đầu tư nước ngoài, Luật DNVVN, pháp lệnh ngân hàng, nền kinh tế tăng

trưởng khá, lạm phát đã được kiềm chế, giá cả tiền tệ ổn định, hệ thống ngân
hàng đã phát triển thích ứng với cơ chế thị trường, công nghệ ngân hàng ngày
càng hiện đại, thị trường tiền tệ đã hoạt động....
Song để sớm có thị trường chứng khoán, Chính phủ cần ban hành một số
luật cơ bản như: Luật sở hữu tài sản, Luật tín dụng thương mại, Luật lưu
thông và chuyển nhượng các giấy tờ có giá, Luật chống tham nhũng....
Báo cáo chính trị tại đại hội Đảng làn thứ VIII đã nhấn mạnh rằng:
trong những năm tới cần “chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước xây
dựng thị trường chứng khoán phù hợp với điều kiện Việt Nam và định hướng
phát triển nền kinh tế đất nước”.(2 tr 100)
3.1.3. Khuyến khích các hộ tư nhân bỏ vốn ra đầu tư phát triển.
Để giúp cho các doanh nghiệp tự huy động vốn trong dân, Nhà nước cần
có luật cho phép các doanh nghiệp trực tiếp huy động vốn bằng cách phát hành
các cổ phiếu, huy động các cổ phần để dân đầu tư trực tiếp và các doanh
nghiệp; có chính sách khuyến khích những doanh nghiệp có vốn tự có lớn đầu
tư vào các dự án. Đổi mới thiết bị công nghệ, sản xuất mặt hàng mới, mặt háng
xuất khẩu; khuyến khích các nhà kinh doanh tư nhân góp vốn liên doanh với
Nhà nước hoặc trực tiếp đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Để huy động được
nguồn vốn này, Nhà nước là người bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp,
tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn họ làm ăn
đúng pháp luật; có lợi ích cho quốc tế dân sinh.
Ngoài các giải pháp tạo vốn cho nền kinh tế nói chung và cho việc phát
triển các DNVVN nói riêng chúng tôi đã phân tích và kiến nghị ở các điểm trên
một vấn đề quan trọng là ngân sách Nhà nước phải tăng cường tích luỹ từ
GDP cho đầu tư phát triển. Đây là nguồn vốn quan trọng để đầu tư vào các
công trình then chốt, các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
3.2. Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
3.2.1. Mở rộng cho vay vốn trung hạn và dài hạn để giúp cho các
DNVVN đổi mới công nghệ thiết bị.

Đầu tư vốn trung và dài hạn là đầu tư cho tương lai của các doanh
nghiệp, là để các doanh nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, áp dụng công
nghệ mới để phát triển. Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mà
nội dung cơ bản là những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu mới.. đang phát triển ở trình độ cao. Các nước
đang đứng trước cơ hội phát triển, nhưng ưu thế về vốn, về công nghệ và về thị
trường thuộc về các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Đối với nước ta hiện
nay vốn huy động trong nước dành cho đầu tư dài hạn còn ít, nên việc đầu tư
của các ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp phải biết lựa chon, ưu
tiên cho các dự án quy mô vừa và nhỏ, ứng dụng kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến tránh tình trạng đầu tư mua lại những thiết bị cũ, lạc hậu của các nước.
Thời gian qua một số DNVVN thuộc các ngành giầy da, may mặc, chế biến lâm
sản... đã sử dụng vốn đầu tư của tín dụng ngân hàng mua phải một số thiết bị
cũ, lạc hậu về kỹ thuật của Hàn Quốc, Đài Loan nên hiệu quả kinh tế thấp,
chậm thu hồi vốn.
Cần dành cho một tỷ lệ vốn hợp lý để đầu tư cho các dự án mở rộng sản
xuất, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và áp dụng công nghệ mới, đầu tư
tạo lập một số doanh nghiệp mới có quy mô vừa và nhỏ. Ưu tiên các dự án tạo
việc làm, thu hút nhiều lao động, dự án khôi phục các ngành nghề, làng truyền
thống, dự án sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất hàng tiêu dùng, dự án phát
triển của các ngành công nghiệp phục vụ dân sinh.. Với số vốn đầu tư ít ỏi, thời
gian thi công nhanh, hiệu quả kinh tế cao thích hợp với trình độ năng lực quản
lý và quản trị điều hành của các DNVVN.
Để có thể đẩy mạnh đầu tư thu hút vốn trung và dài hạn cho các DNVVN
cần phải giải quyết một số vấn đề:
- Cần có một cơ quan tư vấn đầu tư để giúp các DNVVN xây dựng các dự
án có tính khả thi, lựa chọn công nghệ phù hợp và áp dụng công nghệ đó vào
sản xuất là hết sức quan trọng. Bởi vì các DNVVN thường không đủ điều kiện
để giải quyết các vấn đề công nghệ, họ thường thiếu thông tin về các nguồn
công ngệ trong cả nước. Theo kinh nghiệm của chúng tôi trong thời gian vừa

qua việc đầu tư cho các DNVVN chủ yếu là đầu tư nhập các thiết bị lẻ hoạch
một dây chuyền hiện đại với mức đầu vốn mà các DNVVN có khả năng trả
được. Còn nhà xưởng thì đã có sẵn, thiết bị nhập về được lắp ráp nhanh và đưa
vào sản xuất, phát huy hiệu quả ngay.
- Quy định rõ cơ quan nào có thẩm quyền xét duyệt và thủ tục xét duyệt
các dự án đầu tư để cấp giấy phép cho các DNVVN một cách nhanh chóng,
thuận lợi.
- Ngân hàng Nhà nước cần có quy định lại tỷ lệ vốn tự có của các doanh
nghiệp tham gia vào dự án. Theo chúng tôi tuỳ dự án mà quy định mức thấp
nhất nên quy định là 20% (hiện nay là 40%).
- Đề nghị ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại
được sử dụng một tỷ lệ vốn ngắn hạn ổn định để đầu tư cho vay trung và dài
hạn đối với DNVVN.
- Cho phép các doanh nghiệp được thế chấp tài sản được hình thành từ
vốn vay của ngân hàng thương mại để khắc phục tình trạng đối với một số
doanh nghiệp có dự án khả thi, có đủ vốn tự có nhưng không đủ tài sản thế
chấp để vay vốn ngân hàng.
- Chính quyền các cấp cần tạo điều kiện giúp đỡ các doanh nghiệp về đất
đai, thủ tục xây dựng cơ bản để các dự án được thực hiện một cách thuận lợi.
3.2.2. Mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế, điều chỉnh
cơ cấu đầu tư phục vụ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
1. Mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế.
Thích ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nội dung và
phương thức hoạt động của ngân hàng đã có sự đổi mới căn bản: Từ ngân
hàng đơn nhất của các doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang hệ thống ngân
hàng của các thành phần kinh tế.
Trong những năm qua, Ngân hàng công thương Ba đình đã mở rộng
đầu tư vốn cho các DNVVN ngoài quốc doanh.
Song nhìn chung việc đầu tư cho lĩnh vực này còn theo yêu cầu, có tính

chất dàn đều, chưa tập trung cho vay có trọng điểm, chưa khai thác được thế
mạnh và điều kiện thuận lợi về nguồn nguyên liệu, về lao động tại chỗ của thế
mạnh của từng vùng kinh tế, ngành kinh tế. Để khắc phục những tồn tại nói
trên trong những năm tới theo chúng tôi tín dụng ngân hàng cần tập trung
đầu tư vào các ngành kinh tế sau:
- Ngành sản xuất vật liệu xây dựng như gạch, ngói, vôi, các loại cửa gỗ,
cửa sắt.... để phục vụ xây dựng các công trình Nhà nước và tư nhân.
- Ngành sản xuất thủ công mỹ nghệ truyền thống như gốm, sứ, mây tre,
thảm đay, thảm len, chiếu cói để xuất khẩu và phục vụ cho tiêu dùng của nhân
dân.
- Ngành may, thêu xuất khẩu là ngành phát triển với nhiều triển vọng,
sản phẩm chủ yếu xuất cho thị trường EC.
- Ngành sản xuất da giầy, đồ nhựa và ngành chế biến nông, lâm, hải sản
và thực phẩm. Đó là những ngành rất phù hợp với các doanh nghiệp có quy mô
vừa và nhỏ.
2. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư một cách cân đối hợp lý giữa các ngành sản
xuất với các ngành thương mại- dịch vụ khuyến khích đầu tư cho xuất khẩu.
Hiện nay chúng ta chưa có cơ chế khuyến khích cho các ngành sản xuất.
Hơn nữa do tình hình sản xuất nhất là sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp gặp nhiều khó khăn nên việc đầu tư vốn của ngân hàng vào khu vực
sản xuất còn chiếm tỷ trọng thấp hơn so với khu vực lưu thông. Để thực hiện
mục tiêu đẩy mạnh phát triển sản xuất, khuyến khích cho các doanh nghiệp
sản xuất nhất là sản xuất hàng xuất khẩu, tín dụng ngân hàng cần phải có cơ
chế ưu tiên về cung ứng vốn và ưu đãi về lãi suất. Chúng tôi cho rằng:
- Cần đảm bảo kịp thời nhu cầu vốn hợp pháp, hợp lý cho các doanh
nghiệp sản xuất. Tập trung vốn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu
và sử dụng nhiều lao động, và làm ăn có hiệu quả.
- Cần có chính sách lãi suất tín dụng ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản
xuất, nhất là doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Mức độ ưu đãi tuỳ theo
mức chênh lệch bình quân giữa lãi suất đầu vào đầu ra của từng ngân hàng

mà quy định. Nhưng ít ra phải thấp hơn so với cho vay để kinh doanh thương
mại và dịch vụ từ 0,1% đến 0,2%/tháng.
Tóm lại tất cả các chính sách tín dụng nói trên phải được cụ thể hoá
trong cơ chế, biện pháp cho vay, kiểm tra kiểm soát sử dụng tiền vay nhất là
phải thể hiện trong chính sách lãi suất ngân hàng.
3.2.3. Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng bảo đảm an toàn
vốn và hạn chế rủi ro.
Chất lượng tín dụng ngân hàng luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của
hoạt động ngân hàng.
Song hiện nay chất lượng tín dụng ngân hàng ở nước ta đang là vấn đề
đặc biệt quan tâm của nhiều người. Đó là tình trạng nợ quá hạn và rủi ro tín
dụng phát sinh ngày càng tăng, Mặc dù thời gian qua một số ngân hàng
thương mại đã thực hiện những biện pháp bảo đảm an toàn vốn vay và hạn
chế đến mức thấp nhất rủi ro tín đụng như:
- Ban hành một số cơ chế tín dụng với điều kiện cho vay chặt chẽ hơn.
- Thành lập một hội đồng tín dụng, xem xét lại việc phân cấp uỷ quyền
xét duyệt cho vay.

×