Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.82 KB, 33 trang )

Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010 Nhóm 9
Mục lục
Nội dung Trang
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................................2
NỘI DUNG......................................................................................................................................3
A – QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN NGOẠI THƯƠNG CỦA HÀN QUỐC..............................3
I – Hàn Quốc phụ thuộc chặt chẽ vào hoạt động ngoại thương, coi phát triển ngoại thương
là mục tiêu cốt yếu để phát triển kinh tế đất nước..................................................................3
II – Vai trò và xu hướng xuất khẩu trong nền kinh tế Hàn Quốc..........................................4
III – Quan điểm về các chính sách thương mại và “làn sóng FTA”.....................................5
1. Các quy định về thương mại...........................................................................................5
2. Tự do hóa thương mại và làn sóng FTA.........................................................................5
IV – Lộ trình chính sách thương mại phải thực hiện..............................................................7
1. Chính sách về thuế quan.................................................................................................7
2. Hàng rào phi thuế quan..................................................................................................7
3. Chính sách khuyến khích xuất khẩu...............................................................................8
B – THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGOẠI THƯƠNG HÀN QUỐC 2006 – 2010................9
I – Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ đạo và tỉ trọng của từng mặt hàng ............................9
1. Các mặt hàng xuất khẩu và tỉ trọng từng mặt hàng........................................................9
1.1 Thiết bị điện tử........................................................................................................11
1.2 Tàu thuyền...............................................................................................................12
1.3 Ô tô..........................................................................................................................14
1.4 Máy móc chung và phụ tùng .................................................................................15
2 – Các mặt hàng nhập khẩu.............................................................................................15
2.1 Nhập khẩu lao động nước ngoài ............................................................................15
2.2 Nhập khẩu café, thuốc lá, chè.................................................................................16
2.3 Nhập khẩu thủy sản.................................................................................................18
II – Khủng hoảng tài chính năm 2008 ảnh hưởng tới hoạt động ngoại thương của Hàn
Quốc.......................................................................................................................................19
1. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tới kinh tế Hàn Quốc nói chung và hoạt động
ngoại thương nói riêng......................................................................................................19


2. Hàn Quốc đối phó với khủng hoảng, kinh tế phát triển trở lại, hoạt động ngoại
thương lại tấp nập..............................................................................................................21
III – Các đối tác ngoại thương của Hàn Quốc......................................................................23
1. Quan hệ Hàn Quốc – Trung Quốc................................................................................23
2. Quan hệ Hàn Quốc – Mỹ .............................................................................................24
3. Quan hệ Hàn Quốc – Nhật Bản....................................................................................25
4. Quan hệ Hàn Quốc – Liên minh Châu Âu....................................................................26
5. Quan hệ Hàn Quốc – Việt Nam...................................................................................26
IV – Lịch trình cắt giảm thuế quan của Hàn Quốc theo cam kết với WTO.........................28
KẾT LUẬN....................................................................................................................................31
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................32
PHÂN CÔNG TÌM HIỂU TÀI LIỆU, VIẾT BÀI........................................................................32
Trang 1/33
Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010 Nhóm 9
MỞ ĐẦU
Là một quốc gia thuộc Đông Nam Á, nằm ở nửa phía nam bán đảo Triều Tiên – Hàn
Quốc là một cái tên vẫn thường được nhắc đến cùng với Hồng Kông , Singapore và Đài
Loan, lập thành bốn con rồng châu Á. Đó là những nền kinh tế nổi bật đã duy trì một tốc độ
tăng trưởng cao và công nghiệp hóa nhanh giữa thập niên 1960 và thập niên 1990. Cuối thế kỷ
20, Hàn Quốc là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong lịch sử
thế giới hiện đại. Bất chấp các ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á
1997 , nước này đã khôi phục kinh tế rất nhanh chóng và vững chắc. Người ta thường
nhắc đến sự phát triển thần kỳ về kinh tế của Hàn Quốc như là "Huyền thoại sông Hàn ",
đến nay huyền thoại này vẫn tiếp tục. Vậy điều gì đã làm nên một “Huyền thoại sông Hàn”?
Có thể khẳng định một trong những nhân tố quan trọng không thể không nhắc đến đó là hoạt
động ngoại thương.
Ngoại thương đã và đang đóng vai trò tiên quyết tới nền kinh tế của Hàn Quốc nói riêng
và kinh tế toàn cầu nói chung. Hoạt động ngoại thương bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu. Nó
tạo điều kiện phát huy được lợi thế của từng nước trên thị trường quốc tế. Kết quả hoạt động
ngoại thương của một nước được đánh giá qua cân đối thu chi ngoại tệ dưới hình thức “Cán cân

thanh toán xuất nhập khẩu”, kết quả này sẽ làm tăng hoặc giảm thu nhập của đất nước, do đó
mà nó tác động đến tổng cầu của nền kinh tế.
Hàn Quốc đã tự nhận ra những điểm mạnh và điểm yếu của mình để đưa hoạt động
ngoại thương của đất nước phát triển. Quá trình phát triển ngoại thương trong giai đoạn
2006 – 2010 của Hàn Quốc đã có những bước chuyển biến vượt bậc để phù hợp với xu thế hội
nhập và phù hợp với tình hình kinh tế thế giới, đặc biệt đã xuất sắc vượt qua cuộc khủng hoảng
năm 2008. Trong bài tiểu luận này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những quan điểm, chính sách
thương mại của chính phủ Hàn Quốc trong việc điều tiết hoạt động ngoại thương và thực tế quá
trình phát triển của nó trong giai đoạn này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Vũ Hoàng Việt – giáo viên bộ môn Chính
sách thương mại, trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội đã giúp chúng em trong việc định
hướng đề tài, tìm hiểu và khai thác thông tin để hoàn thành tốt bài tiểu luận này.
Trang 2/33
Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010 Nhóm 9
NỘI DUNG
A – QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN NGOẠI THƯƠNG CỦA HÀN QUỐC
I – Hàn Quốc phụ thuộc chặt chẽ vào hoạt động ngoại thương, coi phát triển ngoại
thương là mục tiêu cốt yếu để phát triển kinh tế đất nước.
Ngoại thương là hoạt động kinh tế đã có từ lâu đời và đã sớm được coi là bí quyết thành
công trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều nước. Quan tâm đến ngoại thương tức là ta
sẽ quan tâm đến những vấn đề mua , bán hàng hóa , dịch vụ qua biên giới quốc gia – những
hoạt động xuất nhập khẩu hay khả năng liên kết kinh tế , hội nhập với kinh tế khu vực và quốc
tế đòi hỏi phải có khả năng xử lí thành công mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
Ngày nay sản xuất đã được quốc tế hóa, không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát
triển kinh tế mà lại không tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi hàng hóa với
bên ngoài. Ngoại thương là một lĩnh vực kinh tế đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa giữa trong
nước với nước ngoài với những chức năng cơ bản là: Tổ chức chủ yếu quá trình lưu thông
hàng hóa với bên ngoài, thông qua mua bán để nối liền một cách hữu cơ theo kế hoạch giữa thị
trường trong nước với thị trường nước ngoài, thỏa mãn nhu cầu của sản xuất và của nhân dân
về hàng hóa theo số lượng, chất lượng, mặt hàng, địa điểm và thời gian phù hợp với chi phí ít

nhất.
Ngoại thương ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại cũng
như trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước, đặc biệt với bối cảnh kinh tế thế giới hiện
nay.
Biết được tầm quan trọng của hoạt động ngoại thương như vậy, chính phủ Hàn Quốc đã
chủ trương phát triển hoạt động ngoại thương mạnh mẽ, làm đòn bẩy đưa kinh tế đất nước phát
triển. Hàn Quốc đã lựa chọn xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp, dịch vụ và nhập khẩu
mặt hàng nông nghiệp, nguyên nhiên liệu là chiến lược tăng trưởng kinh tế.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cho
biết, kinh tế Hàn Quốc phụ thuộc nhiều nhất vào xuất nhập khẩu trong số các nước G20.
Theo thống kế của IMF và OECD, xuất khẩu chiếm 43,4% trong tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) của Hàn Quốc, đạt mức cao nhất trong các nước G20 . Hàn Quốc tập trung vào việc
bán các sản phấm sản xuất công nghiệp ra nước ngoài và chính điều này đã biến Hàn Quốc từ
một trong những nước nghèo nhất thế giới bị chiến tranh tàn phá trở thành một thành viên của
nhóm G20 với nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh chỉ trong ½ thập kỷ qua. Hàn Quốc đã
chuyển từ nước nhận viện trợ quốc tế thành nước đi viện trợ. Cốt lõi của nền kinh tế Hàn Quốc
Trang 3/33
Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010 Nhóm 9
là dựa vào toàn bộ hoặc phần nào nguồn tài nguyên gia công nhập khẩu và xuất khẩu những
thành phẩm. Với sự bùng nổ kinh tế, nhập khẩu của Hàn Quốc ngày càng tăng cao từ thức
ăn đến những mặt hàng xa xỉ, cho thấy dấu hịêu phụ thuộc vào hàng hoá nhập khẩu ngày
càng cao của Hàn Quốc. Chỉ số PGI mới công bố gần đây dành cho các nền kinh tế G20 là tập
dữ liệu kinh tế được tập hợp bởi Ngân hàng thanh toán quốc tế, Ngân hàng trung ương châu
Âu, IMF, OECD, Mỹ và Ngân hàng thế giới. Những chỉ số này được thành lập nhằm đánh giá
sức mạnh kinh tế của thành viên G20 cũng như tầm quan trong của G20 tăng đáng kể trong
những năm gần đây. PGI dành cho các nước G20 cho thấy Hàn Quốc đứng đầu ở mức độ phụ
thuộc vào cả xuất, nhập khẩu, thể hiện ngoại thương chiếm một phần lớn trong tổng thu nhập
quốc dân. Cụ thể, khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây và quá trình phục hồi suy giảm
kinh tế đã khiến cho mức độ phụ thuộc vào ngoại thương của Hàn Quốc tăng lên mức
80%.

II – Vai trò và xu hướng xuất khẩu trong nền kinh tế Hàn Quốc
Với Hàn Quốc, xuất khẩu luôn luôn đóng vai trò như một van an toàn bảo vệ nền
kinh tế , và là động lực chính để tăng trưởng kinh tế của đất nước này. Nhìn lại Hàn Quốc
vào năm 1964 khi Chính phủ chủ trương hướng mạnh vào xuất khẩu và xuất khẩu năm
đó đạt 100 triệu USD. Cơ cấu hàng xuất khẩu lúc đó chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp
và công nghiệp thô, sơ chế như thủy sản, gỗ dán, sợi cotton. Đến nay, cơ cấu hàng xuất khẩu
của Hàn Quốc đã hoàn toàn được thay đổi. Các sản phẩm hóa dầu, tầu biển, điện thoại di
động đã chiếm phần lớn trong kim ngạch xuất khẩu của nước này. Diện thị trường xuất
khẩu cũng đã được mở rộng . Nguyên nhân chính cho tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ của Hàn
Quốc không thể không nhắc đến nhu cầu nhập khẩu rất lớn từ các nền kinh tế đang nổi lên
trong đó có Trung Quốc. Các doanh nghiệp xuất khẩu Hàn Quốc đang đặt mục tiêu xâm nhập
mạnh vào thị trường nội địa Trung Quốc. Hàn Quốc sẽ tiếp tục hạ thấp giá trị đồng tiền won
để kích thích xuất khẩu và tăng cạnh tranh về giá bán với các đối thủ khác như Nhật Bản
trên thị trường thế giới.
Để tăng trưởng xuất khẩu đồng thời đối phó với tình hình suy thoái khó khăn của thị
trường nội địa Hàn Quốc, các doanh nghiệp Hàn Quốc luôn cố gắng nâng cao hơn nữa chất
lượng hàng xuất khẩu của mình. Song song với cải tiến hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp Hàn
Quốc cũng luôn chú ý tăng cường công tác tiếp thị và thực hiện mạnh mẽ công tác xúc
tiến thương mại vào các thị trường ít bị ảnh hưởng hơn đối với khủng hoảng kinh tế hiện
nay như Trung –Đông, Trung Mỹ, Nam Mỹ và Châu Phi. Xuất khẩu quả thật luôn luôn là
vấn đề quan tâm hàng đầu của những nhà hoạch định kinh tế Hàn Quốc.
Trang 4/33
Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010 Nhóm 9
III – Quan điểm về các chính sách thương mại và “làn sóng FTA”
1. Các quy định về thương mại
Ngoại thương Hàn Quốc được điều tiết bởi nhiều đạo luật khác nhau bao gồm Luật
Ngoại thương chi phối hoạt động xuất nhập khẩu, Luật Hải quan điều chỉnh việc thông quan và
thu thuế, Luật Ngoại hối quy định các vấn đề về giao dịch ngoại tệ như thanh toán các khoản
xuất hay nhập khẩu. Các đạo luật này cùng với những quy định về thương mại khác đều nhằm
mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch thương mại với Hàn Quốc.

Luật Ngoại Thương
Luật Ngoại Thương có hiệu lực từ ngày 1/7/1987 là sự tổng hợp đúc kết và hoàn chỉnh
của ba đạo luật ra đời trước đó-Luật liên kết xuất khẩu năm 1961, Luật Giao dịch thương mại
năm 1967 và Luật Xúc tiến xuất khẩu thiết bị năm 1978. Mục tiêu của đạo luật mới này là cung
cấp một hệ thống mới áp dụng trong kinh doanh. Hệ thống như vậy sẽ cho phép chính phủ xử
lý tốt hơn trong môi trường kinh doanh ngày càng năng động trong và ngoài nước.
Những điều khoản chính trong bộ luật mới bao gồm:
• Công bố việc từng bước chuyển sang một nền thương mại mở và tự do.
• Xóa bỏ dần những rào cản trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
• Bảo vệ hoạt động kinh doanh công bằng.
Bộ Luật Hải Quan
Luật Hải quan bao gồm những quy định về các hệ thống và thủ tục hải quan có liên
quan tới phương tiện vận tải, khu ngoại quan, vận chuyển, thông quan… nhằm quản lý hàng
hóa nước ngoài và đồng thời ngăn chặn tình trạng buôn lậu.
Thông qua việc mở ra các dịch vụ hỗ trợ thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu và hành
khách vô cùng đa dạng, các hoạt động quản lý và giám sát, đảm bảo ngân sách nhà nước, kiểm
soát hợp lý hàng hóa ngoại quan và hợp tác quốc tế, hải quan Hàn Quốc đã và đang góp phần
phát triển nền kinh tế quốc gia đồng thời thúc đẩy mậu dịch quốc tế.
2. Tự do hóa thương mại và làn sóng FTA
Ngoại thương của một quốc gia được coi như là một chiếc cầu nối giữa cung, cầu hàng
hóa và dịch vụ của thị trường trong và ngoài nước . Như vậy , nghiên cứu về tình hình phát
triển ngoại thương của một quốc gia không thể không tìm hiều về các chính sách điều chỉnh
xuất nhập khẩu của quốc gia đó. Chính sách thương mại quốc tế của các nước thường theo xu
hướng tự do hóa thương mại kết hợp với bảo hộ mậu dịch.
Chính sách tự do hóa thương mại là việc nhà nước từng bước giảm dần và tiến tới
xóa bỏ những cản trở trong quan hệ buôn bán với bên ngoài , thực hiên việc tự do hóa
Trang 5/33
Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010 Nhóm 9
thương mại, đồng thời mở rộng ra thị trường nước ngoài bằng nhiều hình thức , đặc biệt
là xuất khẩu. Hàn Quốc là một quốc gia có nền kinh tế đứng trong top 20 của thế giới và phụ

thuộc rất lớn vào hoạt động ngoại thương. Tuy nhiên Hàn Quốc lại quá chú trọng vào xuất
khẩu và bị coi là tụt hậu so với các nước thành viên trong WTO trong các đàm phán Khu
vực Mậu Dịch Tự Do (FTA) vào thời điểm mà làn sóng FTA đang lan rộng ở các nước
Châu Á và các nước trên thế giới.
Trong điều kiện như hiện nay, bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và nền kinh tế thị trường
chiếm xu thế, một quốc gia phụ thuộc lớn vào xuất khẩu như Hàn Quốc hiểu rằng các FTA
đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Chính sách đa biên sẽ giúp Hàn
Quốc đẩy mạnh tự do hoá thương mại, giảm dần các rào cản đối với thương mại và bảo đảm
đem lại nhiều lợi ích hơn cho nền kinh tế vốn phụ thuộc vào xuất khẩu của mình. Một chiến
lược dài hạn nhằm phát triển và mở rộng thương mại là cần thiết đối với nền kinh tế Hàn Quốc
vốn đang phải đối mặt với nhiều điều kiện bất lợi từ bên ngoài như giá dầu tăng cao, đồng won
tăng giá so với đồng đôla Mỹ và ngày càng xuất hiện nhiều rào cản thương mại khác. Mở rộng
các đàm phán FTA được xem là giải pháp duy nhất để các công ty Hàn Quốc có thể tiếp
cận tốt hơn với thị trường bên ngoài. Trong khi đó, một số quan điểm khác lại cho rằng việc
đẩy nhanh các đàm phán FTA có thể sẽ phản tác dụng, ảnh hưởng xấu đến một số ngành công
nghiệp chủ chốt trong nước.
Hiệp định tự do thương mại đầu tiên của Hàn Quốc được kí kết với Chile có hiệu lực từ
tháng 4/2004 đã tạo ra một bước phát triển mới cho nền kinh tế , làm tăng niềm tin về mở cửa
thị trường và xoa dịu những nỗi lo ngại đối với tự do hóa thương mại của quốc gia này. Ngay
lập tức , chính phủ Hàn Quốc đưa ra “Lộ trình xúc tiến FTA” với mục tiêu trở thành nòng cốt
trong khu vực thương mại tự do.Mục tiêu mà Hàn Quốc đặt ra là ký kết được FTA với ít nhất
15 quốc gia khác cho đến năm 2007 .Chính vì vậy mà Hàn Quốc đã thể hiện sự cố gắng của
mình với dự định sẽ đẩy nhanh đàm phán với 50 đối tác thương mại trên thế giới kể từ năm
2006. Hàn Quốc tham vọng trở thành trung tâm của mạng lưới FTA toàn cầu kết nối Châu Á,
Châu Âu và Bắc Mỹ.
Song song với việc thực hiện những chính sách tự do hóa thương mại, một quốc gia còn
cần phải chú ý đến việc đề ra những chính sách bảo hộ mậu dịch.Chính sách bảo hộ mậu dịch là
một hình thức trong chính sách thương mại quốc tế , trong đó nhà nước áp dụng các biện pháp
cần thiết để bảo vệ thị trường nội địa, bảo vệ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của
hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Và thực tế là không có quốc gia nào chỉ đơn thuần thực

hiện bảo hộ mậu dịch hay tự do hóa thương mại. Điều này dẫn đến tất cả các bộ phận chính
sách quản lý xuất khẩu, quản lý nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu đều xuất hiện trong hệ
thống chính sách thương mại quốc tế của mỗi nước. Những chính sách thuế quan, các hàng rào
Trang 6/33
Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010 Nhóm 9
phi thuế quan, chính sách khuyến khích xuất khẩu và quản lý xuất khẩu được coi là những công
cụ được dùng để điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu của các quốc gia. Tùy theo mức độ bảo
hộ hay tự do hóa thương mại mà mỗi quốc gia đề ra mức độ và phạm vi các bộ phận khác nhau
IV – Lộ trình chính sách thương mại phải thực hiện
Vươn tới mục tiêu trở thành trung tâm của mạng lưới FTA toàn cầu kết nối với Châu Á,
Châu Âu và Bắc Mỹ , hội nhập với nền kinh tế thế giới trong xu thế toàn cầu hóa, Hàn Quốc đã
đề ra những chính sách thương mại tích cực thể hiện những nỗ lực xây dựng một khu vực mậu
dịch tự do.
1. Chính sách về thuế quan
Hàn Quốc tiến hành đàm phán thỏa thuận cắt giảm thuế quan một số mặt hàng
nông nghiệp. Các thỏa thuận này sẽ được xúc tiến trong năm 2006 với những cuộc họp ở
Campuchia và Philippines.Theo thỏa thuận này, Hàn Quốc sẽ chỉ định một danh sách 200
mặt hàng nông sản được miễn thuế vì tác động tới nông dân nước này, theo lời ông Bae Jong-
ha, người đứng đầu Phòng nông nghiệp quốc tế tại Bộ nông nghiệp Hàn Quốc. Ông cho biết
gạo, ớt, tỏi, thịt bò, một số sản phẩm từ heo, gà, táo, dứa và lê là những thực phẩm được giảm
thuế quan. Seoul sẽ duy trì mức thuế quan hiện nay đối với một số mặt hàng như sâm, sữa bột,
khoai tây cho đến năm 2015, trước khi cắt giảm thuế quan 20% từ năm 2016. Ông cũng cho
biết các sản phẩm như bắp, nước cam cũng sẽ áp dụng chế độ thuế quan tương tự, nhưng mức
cắt giảm sẽ tới 50% mức hiện nay.
Theo KBS, hai bên cũng dự định thỏa thuận về Hiệp định thương mại hàng hóa công
nghiệp, theo đó Hàn Quốc và ASEAN sẽ xóa bỏ thuế quan đối với 90% hàng hóa nhập khẩu
của nhau đến năm 2010; Hàn Quốc và ASEAN cũng sẽ giảm thuế quan đối với 7% hàng hóa
nhập khẩu đến năm 2016. Còn 3% hàng hoá nhập khẩu sẽ được bảo vệ thông qua nhiều biện
pháp đa dạng như xác định số lượng nhập khẩu tối thiểu, giảm thuế quan trong thời gian dài vì
xét tới tính nhạy cảm của hàng hóa.

Như vậy là dự định Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do Asean- Hàn Quốc thành công
nếu đạt được thành công trong năm 2006 sẽ có tới 8900 dòng thuế nằm trong danh mục thông
thường (NT) , tương ứng với 90% dòng thuế sẽ được cắt giảm ngay từ đầu tháng 6 năm
2007.Việc thực hiện AKFTA sẽ mang lại nhiều lợi thế hơn cho Hàn Quốc, nhất là khi khu vực
châu Á đã và đang hình thành “làn sóng Hàn”.
2. Hàng rào phi thuế quan
Dựa trên cơ sở các hiệp định về thương mại hàng hóa đã kí kết giữa Asean và các
quốc gia khác, Hàn Quốc cũng sẽ phải tiến hành cắt giảm và tiến tới xóa bỏ hàng rào phi
Trang 7/33
Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010 Nhóm 9
thuế quan. Các bên sẽ phải cam kết ngay từ khi Hiệp định có hiệu lực sẽ không áp dụng hoặc
duy trì bất cứ hạn chế định lượng nào như giấy phép, hạn ngạch, v.v. đối với việc nhập khẩu
bất ky mặt hàng nào của các bên khác hoặc đối với việc xuất khẩu bất kỳ mặt hàng nào được
xuất sang lãnh thổ của các bên khác. Riêng Việt Nam và Lào chưa phải là thành viên WTO sẽ
loại bỏ các hạn chế định lượng
Theo các cam kết khi gia nhập WTO.Ngoài ra, ASEAN và Hàn Quốc sẽ phải thành lập
Tổ công tác về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch (SPS) và các hàng rào kỹ thuật đối với
thương mại (TBT) để hợp tác và xác định những biện pháp nào là hàng rào phi thuế phải loại
bỏ và sẽ đàm phán lịch trình cắt giảm các hàng rào phi thuế đó ngay sau khi Hiệp định này có
hiệu lực.
3. Chính sách khuyến khích xuất khẩu
Nền kinh tế Hàn Quốc phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu và cũng chính nhờ có xuất khẩu
đã đưa kinh tế Hàn Quốc lên top đầu của kinh tế thế giới. Những nhà hoạch đinh chính sách
Hàn Quốc đã có được những chiến lược thúc đẩy xuất khẩu phát triển vô cùng hiệu quả.Lịch
sử cho thấy Hàn Quốc đã từng hoàn thành xuất sắc mục tiêu tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu
kế hoạch phát triển 5 năm đầu tiên 1961-1969.
Cụ thể, chính phủ Hàn Quốc đã cố gắng cố gắng ổn định tỷ giá hối đoái theo hướng
có lợi cho xuất khẩu và giải quyết vấn đề thiếu vốn bằng cách phá giá đồng Won, sử dụng
hệ thống hối đoái tự do, cải cách lại cơ cấu thuế và hệ thống ngân sách, sửa đổi luật
khuyến khích tư bản nước ngoài , khuyến khích tiết kiệm và quản lý làm phát…Bên cạnh

đó là những chính sách khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp như những ưu đãi về thuế
xuất khẩu , hỗ trợ tài chính mở rộng theo dạng hỗ trợ trực tiếp, các hãng được nới lỏng thuế
suất thậm chí bằng 0 đối với những mặt hàng nhập khẩu trực tiếp và nguyên vật liệu thô cần
thiết cho sản xuất xuất khẩu..Không những vậy , Chính phủ Hàn Quốc còn có những biện pháp
hỗ trợ hành chính giúp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu…Nhờ có những chính sách thông minh
như vậy mà thu nhập bình quân đầu người giai đoạn này đã tăng từ 82USD lên 210 USD, tỉ lệ
xuất khẩu tính trên GNP tăng từ 6,3% năm 1961 lên 16,1% năm 1971.
Như vậy là bài học kinh nghiệm đẩy mạnh xuất khẩu từ quá khứ sẽ làm cơ sở cho Hàn
Quốc trong thời gian sắp tới .Tuy nhiên, Chính phủ Hàn Quốc cũng nhận thấy rằng vẫn cần
phải có biện pháp đối phó thích hợp, phát triển thị trường nội địa để tránh được tác động từ
những cú sốc đột ngột bên ngoài , tránh sự chi phối của thị trường toàn cầu hóa. Và động lực để
tăng trưởng thị trường nội địa đó chính là khuyến khích phát triển ngành dịch vụ.
Trang 8/33
Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010 Nhóm 9
B – THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGOẠI THƯƠNG HÀN QUỐC 2006 –
2010
I – Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ đạo và tỉ trọng của từng mặt hàng
1. Các mặt hàng xuất khẩu và tỉ trọng từng mặt hàng
Ngoại thương đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Hàn Quốc, và kinh tế Hàn Quốc
phụ thuộc chặt chẽ vào ngoại thương. Bởi vậy, các mặt hàng xuất khẩu của đất nước này cũng
phải có đủ tiềm năng và sức mạnh vượt trội để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, cũng như
phù hợp với tình hình phát triển trên thế giới. Là đất nước đông dân, có dân số đứng thứ 24 trên
thế giới, trình độ dân trí cao, chất lượng hàng hóa của Hàn Quốc luôn được nhiều người dân
trên thế giới tin cậy và sử dụng. Đặc biệt, các mặt hàng công nghiệp của Hàn Quốc được ưa
chuộng hơn cả bởi chất lượng tốt và giá thành hợp lý, phù hợp với nhiều mức độ tiêu dùng. Với
nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn về than, vonfram, than chì, chì và tiềm năng thủy điện,
ngành công nghiệp Hàn Quốc phát triển mạnh và rất đa dạng phong phú về ngành nghề. Nhiều
ngành đứng ở vị trí cao trên thế giới. Công nghiệp thép đứng thứ 6, công nghiệp hạt nhân đứng
thứ 5, sản xuất điện thoại đứng thứ 5, công nghiệp điện đứng thứ 10 và đặc biệt công nghiệp
đóng tàu đứng thứ nhất. Bởi vậy, các thiết bị điện tử, tàu thuyền, máy móc, ô tô, chất bán dẫn,

…. là các mặt hàng xuất khẩu tiềm năng của đất nước Hàn Quốc.
Sau đây là biểu đồ cơ cấu xuất khẩu của Hàn Quốc trong năm 2008 và 2009.
Trang 9/33
Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010 Nhóm 9
Biểu đồ: Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Hàn Quốc năm 2008
Biểu đồ: Cơ cấu xuất khẩu của Hàn Quốc năm 2009
Trang 10/33
Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010 Nhóm 9
Nhìn hai biểu đồ trên ta thấy, thiết bị điện tử, tàu thuyền , máy móc và ô tô là những
mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Hàn Quốc, chiếm tỉ trọng cao trong cả 2 năm. Trước đây, các
mặt hàng xuất khẩu của Hàn Quốc chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm thô, sơ chế,
gỗ dán, sợi cotton…… Tuy nhiên ngày nay, các mặt hàng xuất khẩu của nước này đã thay đổi
hoàn toàn, thay thế bằng những sản phẩm thành phẩm, mang lại nhiều nguồn lợi cho kinh tế
quốc gia. Tuy lượng xuất khẩu của một số mặt hàng như ô tô, sản xuất thép có xu thế giảm
nhưng vẫn là những ngành xuất khẩu thế mạnh của Hàn Quốc và đạt sản lượng cao hàng năm.
Sau đây là một số thông tin về tình hình xuất khẩu của một số mặt hàng nổi trội của nước này
qua các năm từ 2006 đến 2010.
1.1 Thiết bị điện tử
Do có nguồn tài nguyên sẵn có về vonfram và chì, ngành công nghiệp điện tử của Hàn
Quốc rất phát triển. Hàn Quốc nổi tiếng với nhiều công ty, tập đoàn điện tử, viễn thông lớn,
mang tầm cỡ quốc tế với doanh thu hàng năm lên tới cả trăm tỉ USD. LG, Samsung, Sony,…..
đều là những nhãn hiệu đã có thương hiệu lâu năm và nhận được sự tin dùng của khách hàng
khắp nơi trên thế giới. Có thể nói mặt hàng điện tử đã mang về cho nền kinh tế Hàn Quốc một
lợi nhuận khổng lồ, giúp cho nước này giữ vững được vị trí kinh tế của mình trên trường quốc
tế.
Một trong những mặt hàng điện tử xuất khẩu vượt trội của Hàn Quốc là thiết bị LCD.
Thiết bị LCD bao gồm màn hình máy tính, màn hình tivi và cả màn hình laptop. Thị trường TV
màn hình tinh thể lỏng hiện đang chứng kiến sự cạnh tranh của chín công ty của Nhật Bản, sáu
công ty của Trung Quốc và hai công ty Hàn Quốc, bao gồm công ty điện tử Samsung và công
ty điện tử LG. Tuy nhiên, thiết bị LCD Hàn Quốc vẫn là sự lựa chọn hàng đầu của người tiêu

dùng thế giới và doanh số LCD của nước này vẫn dẫn đầu thế giới. Theo số liệu của Bộ kinh tế
và tri thức Hàn Quốc, thị phần TV thế giới năm 2010, xét theo số lượng bán của TV màn hình
ống tia điện tử và màn hình phẳng, trong năm 2010, lượng tiêu thụ TV Samsung là 18,2%, LG
là 15,8%, Sony là 8,7%, Panasonic là 6,9% và Toshiba là 6,1%. Như vậy, tổng số lượng TV của
Hàn Quốc được tiêu thụ trên thế giới chiếm 55,7%, hơn nửa số lượng TV được tiêu thụ trên
toàn cầu.
Hãng điện tử Samsung, là bộ phận lớn nhất của Tập đoàn Samsung, và là một trong
những công ty điện tử hàng đầu thế giới. Hãng điện tử Samsung hoạt động tại chừng 65 quốc
gia và có khoảng 208.000 công nhân. Điện tử Samsung được coi là một trong 10 nhãn hàng hóa
tốt nhất thế giới. Năm 2009, doanh thu của điện tử Samsung lên tới 117,4 tỉ USD.
Một số mặt hàng phổ biến nhất được sản xuất bởi Samsung bao gồm màn hình LCD
LED-backlit TV và điện thoại di động S Galaxy. Nhiều người tiêu dùng không thể nhận ra,
Trang 11/33
Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010 Nhóm 9
những sản phẩm không phải của Samsung như TV và điện thoại vẫn có các thành phần bộ nhớ
do Samsung sản xuất ở bên trong.
Trong phân khúc thị trường TV, vị trí thị trường của Samsung chiếm ưu thế. Trong bốn
năm kể từ năm 2006, công ty đã được ở vị trí đứng đầu về số lượng TV bán ra, dự kiến sẽ tiếp
tục trong năm 2010 và xa hơn nữa. Trong bảng điều khiển thị trường LCD toàn cầu, công ty đã
giữ vị trí dẫn đầu trong tám năm liên tiếp. TV LCD Samsung rất nổi tiếng tại Indonesia,
Singapore, Ấn Độ, Việt Nam và Nigeria. Một lý do khiến TV LCD Samsung nổi tiếng ở
Singapore là độ phân giải cao. Tại Indonesia, sản phẩm Samsung có giá cao hơn 10-15% so với
các nhãn hiệu khác, song nó được những khách hàng thu nhập cao ưa chuộng vì điều kiện bảo
hiểm và tuổi thọ cao.
Ngoài Tivi LCD, điện thoại di động - cũng là mặt hàng đem về nhiều lợi nhuận cho
Samsung. Samsung Electronics đã bán được 235.000.000 điện thoại di động trong năm
2009. Vào cuối quý 3 / 2010 Samsung xuất xưởng hơn 70 triệu điện thoại, cho nó một thị phần
toàn cầu là 22% . Nhìn chung, Samsung đã bán 280.000.000 điện thoại di động trong năm
2010, tương ứng với thị phần 20,2%
Ngoài Samsung, LG cũng là một hãng điện tử mang lại nhiều lợi nhuận cho Hàn Quốc.

Điện tử LG hoạt động trên nhiều mảng khác nhau: thiết bị nghe nhìn, thông tin viễn thông, điện
gia dụng, đồ điện và điện tử…….Máy giặt LG, tủ lạnh LG, máy tính LG, điều hòa….. là những
sản phẩm được người tiêu dùng thế giới biết đến nhiều hơn cả. Doanh thu năm 2009 của LG là
78,891 tỉ USD. LG cũng là một trong những công ty điện tử hàng đầu thế giới, chi nhánh đại
diện trên khoảng 60 quốc gia và quan hệ hợp tác với 171 nước.
1.2 Tàu thuyền
Mặc dù mới tham gia vào ngành công nghiệp đóng tàu với vẻn vẹn chưa được 40 năm
kinh nghiệm, Hàn Quốc đã có những bước tiến ngoạn mục, vượt qua nhiều quốc gia có lịch sử
đóng tàu lâu hơn rất nhiều. Và các công ty đóng tàu Hàn Quốc đã hoàn toàn tự tin giữ vững vị
trí dẫn đầu bảng trên trường quốc tế
Công nghiệp đóng tàu là ngành kinh tế góp phần quan trọng trong phát triển quốc gia,
và Hàn Quốc đã phát triển ngành công nghiệp đóng tàu thành ngành chiến lược đối cho sự phát
triển kinh tế đất nước từ những năm 1970. Mặc dù có lịch sử phát triển muộn hơn so với Châu
Âu, Nhật Bản, song Hàn Quốc vẫn đã xây dựng được một nền công nghiệp đóng tàu có khả
năng cạnh tranh cao và kỹ thuật tiên tiến. Trong 10 nhà máy được xếp hạng đứng đầu trên thế
giới, có sáu nhà máy đóng tàu của Hàn Quốc. Hyundai đứng vị trí số một tiếp theo là Samsung
và Daewoo.
Trang 12/33
Quá trình phát triển ngoại thương của Hàn Quốc 2006-2010 Nhóm 9
Ngành công nghiệp đóng tàu của Hàn Quốc đã đạt được khối lượng đơn đặt hàng kỷ lục
trong nhiều năm. Năm 2006, khối lượng đặt hàng của Hàn Quốc đạt 18.1 triệu CGT. Với lượng
đơn hàng chưa thực hiện lên tới 41.4 triệu CGT, họ đã đảm bảo đủ khối lượng công việc cho 3
năm tiếp theo. Vì vậy, họ có đủ khả năng theo đuổi một chiến lược có chọn lọc và tiếp tục tập
trung vào loại tàu trị giá cao.
Trong những năm gần đây, các nhà máy đóng tàu chính của Hàn Quốc đã tập trung
nhiều vào các loại tàu giá trị lớn như tàu khoan, tàu chở container cực lớn và tàu LNG (chở khí
hóa lỏng). Hàn Quốc ngày nay là quốc gia đứng đầu thế giới về sản phẩm tàu LNG. Lĩnh vực
này đang phát triển mạnh cùng với việc LNG được sử dụng ngày càng nhiều như là một nguồn
nhiên liệu vì nó tương đối sạch. Lượng tiêu thụ LNG được dự báo tăng 25% mỗi năm trong
thập kỷ tới và đội tàu LNG của thế giới được dự báo tăng gấp đôi lên tới khoảng 250 tàu trong

khoảng thời gian này. Hyundai, Daewoo và Samsung đã chiếm được phần lớn các hợp đồng
đóng tàu LNG trên thế giới.
Năm 2007, tổng doanh số nước ngoài mà ngành đóng tàu mang về là 27,68 tỉ USD. Các
công ty đóng tàu Hàn Quốc giành được 38,9% tổng số đơn đặt hàng trên toàn cầu, cao hơn so
với con số 37,3% của các đối thủ Trung Quốc.
Theo báo cáo của Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc, nhu cầu
đóng tàu toàn cầu trong năm 2008 giảm mạnh so với năm 2007 do cuộc khủng hoảng kinh tế
gây ra, song số đơn đặt hàng mà các công ty nước này giành được lại gia tăng. Trong nửa đầu
năm 2008, các hãng đóng tàu của Hàn Quốc đã giành được 50,6% tổng số đơn đặt đóng tàu trên
toàn cầu, với tổng giá trị 12,4 tỉ đô USD và tổng trọng tải 12,40 triệu tấn, tiếp tục dẫn đầu thế
giới về ngành đóng tàu. Trung Quốc chỉ giành được 34,3% tổng số đơn đặt đóng tàu trên toàn
cầu. Theo các chuyên gia, nhiều công ty tàu biển muốn đặt hàng với các hãng đóng tàu Hàn
Quốc trong thời gian qua đã phải chuyển hướng sang Trung Quốc do đơn đặt hàng của Hàn
Quốc đã quá nhiều, còn lâu mới thực hiện xong. Tuy vậy, ngay khi có cơ hội là họ lại tìm đến
Hàn Quốc. Về nửa sau năm 2008, số đơn đặt hàng của Hàn Quốc cũng giảm, chỉ còn 41,4 %
tổng số đơn đặt hàng thế giới. Tuy nhiên, đây vẫn là một con số cao khi nền kinh tế thế giới
đang chịu khủng hoảng nặng nề.
Năm 2009 Tập đoàn quốc phòng Mỹ Lockheed Martin và tập đoàn công nghiệp nặng
Hyundai của Hàn Quốc đã hợp tác để sản xuất và xuất khẩu tàu chiến hạng trung, được trang bị
hệ thống vũ khí tối tân Aegis. Theo ông Cho Woo Tae – phát ngôn viên tập đoàn Hyundai,
Lockheed rất hiếm khi cộng tác với một công ty nước ngoài để sản xuất tàu chiến được trang bị
tên lửa Aegis. Sự kiện này cho phép cả 2 tập đoàn sản xuất ra tàu chiến hiện đại tối tân mà giá
cả lại hợp lí hơn, nhằm đem lại lợi nhuận về sản lượng và doanh thu cho cả hai bên.
Trang 13/33

×