Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

giáo dục đại học việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.58 KB, 26 trang )

Mục lục.

A. Phần mở đầu.
B. Phần nội dung.
Chương 1. khái quát tình hình chung.
1. khái niệm giáo dục.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Vai trò nhà nước và cơ quan quản lý giáo dục.
2.2 Vai trịcác trường.
2.3 Vai trị gia đình và xã hội.
2.4 Vai trị sinh viên.
3. Những khó khăn.
3.1 Quản lý giáo dục.
3.2 Phương pháp dạy học.
3.3 Đội ngũ giảng viên.
3.4 Sinh viên.
3.5 Trương trình học.
Chương 2. Thực trạng.
1. Thành tựu chung.
1.1 Đầu tư cho giáo dục.
1.2 Du học.
2. Nguyên nhân.
2.1 Cơ sở vật chất.
2.2 Quản lý.
2.3 Phương pháp đào tạo.
2.4 Đội ngũ giảng viên.

2


2.5 Sinh viên.


2.6 Chương trình học.
2.7 Nguyên nhân khác.
Chương 3. Gỉai pháp kiến nghị.
1.1

Cơ quan quản lý.

1.2

Phương pháp dạy.

1.3

Giảng viên.

1.4

Sinh viên.

1.5

Hiện đại hóa giáo dục.

C kết luận.
D. Tài liệu tham khảo.
Chú thích các chữ viết tắt.

1. GD: GIÁO DỤC
2. QLGD : QUẢN LÝ GIÁO DỤC
3. GDĐH : GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

4. SV : SINH VIÊN
5. CTKH : CƠNG TRÌNH KHOA HỌC
6. NCKH : NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
7. CQQLGD : CƠ QUAN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
8. CLĐT : CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
9. NCS : NGHIÊN CỨU SINH
10. CÔNG BỐ QUỐC TẾ

3


A lời mở đầu.

Để đưa đất nước ta thật sự trở nên giàu mạnh và văn minh,trong xu thế hội nhập
nền kinh tế thị trường hiện nay thì Đảng,nhà nước cùng nhân dân ta phải xây dựng
cho mình một tiềm lực tổng thể vững mạnh. Một trong những chiến lược đó là phát
triển và mở rộng hệ thống giáo dục đào tạo,đặt biệt là GDĐH nhằm bồi dưỡng nguồn
nhân lực có trình độ cho đất nước. đúng như Bác Hồ đã nói:”một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu” tư tưởng đó cịn được khẳng định qua các kỳ đại hội đảng toàn quốc
cũng cho rằng giáo dục là quốc sách Hàng đầu
Đó là tất cả những gì tốt đẹp mà Đảng,nhà nước và nhân dân ta đã từng tin
tưởng,kỳ vọng vào GD sẽ đem lại. đặc biệt trong xu thế phát triển hiện nay nếu khơng
có tri thức và khoa học chúng ta sẽ bị tụt hậu so với các nước khác.
Tuy nhiên khi những lợi ích tốt đẹp ấy vẫn đang cịn là ước mơ thì người ta lại
nhìn thấy nhiều hơn những bất cập, tồn tại làm ảnh hưởng xấu tới GD nước ta hiện
nay. Nếu không nói là rơi vào tình trạng bế tắc thì cũng giống như ”cành củi giữa dịng
nước xốy”. Nếu như trước đó hàng trăm nghìn thí sinh ngày đêm dùi mài kinh sử với
hy vọng được bước vào giảng đường đại học thì ngay sau đó lại cảm thấy chán
trường với cảnh học đại học hiện nay. Có rất nhiều sinh viên bỏ bê cơng việc chính là
học tập mà cảm thấy hứng thú với các trò chơi game trên mạng. có những người đủ

tỉnh táo thì lại boăn khoăn với câu hỏi: học xong ra trường mình sẽ làm gì? Câu hỏi đó
khơng chỉ là nỗi lo lắng của các sinh viên mà còn là lý do để em chọn làm đề tài này.
Với mong muốn tất cả chúng ta(dù là sinh viên hay giảng viên,cơ quan QLGD…)cùng
bắt tay tháo gỡ những thắc mắc đó đưa GD vào thực tế nhằm đem lại hiệu quả tốt
nhất.
Hiện nay đang có một cuộc đối mặt giữa thế hệ GD cũ với thế hệ mới. Có một sự
chứng minh âm thầm rằng, trong giai đoạn cũ, nền GD của chúng ta tốt hơn, và
những quan chức nhà nước cũ ở lứa tuổi cao, vì khơng thỏa mãn với phong cách
chính trị trong đời sống GD bây giờ, nên kéo nhau ra mở trường tư.Tất cả những

4


chuyện đó cũng mới chỉ giải quyết một cách tạm bợ những vấn đề của GD Việt
Nam.Lối thoát để giải quyết vấn đề GD Việt Nam, là phải học những kinh nghiệm mở
cửa về kinh tế như cách đây 20 năm. Phải có thái độ của những người như Tổng bí
thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã thể hiện với đầu tư nước ngoài trong giai
đoạn trước thì đất nước mới đổi mới được.

Vấn đề cần quan tâm với hệ thống GD nước ta hiện nay là rất cấp thiết, khơng chỉ
xét từng bộ phận mà cịn phải xét một cách tổng thể. Do đó ở đây em chỉ dừng lại tìm
hiểu thực trạng GD đại học hiện nay ở nước ta. Dựa trên cơ sở là các phương pháp
luận như tổng hợp,đánh giá,luận chứng và một số phương pháp khác; trong đó có sử
dụng phương pháp luận triết học duy vật biện chứng để đánh giá. Nội dung bài viết
này chia làm ba chương : chương 1,chương 2, chương 3.
Trước hết em xin chân thành cảm ơn thầy (cơ) đã giúp đỡ em hồn thành đề tài
này.

5



B phần nội dung.
Chương 1. khái quát tình hình chung.
1.

Khái niệm giáo dục.

Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc
biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và người học theo
hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hồn thiện nhân cách người học bằng những tác
động có ý thức từ bên ngồi, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của
con người trong xã hội đương đại.
2. Cơ sở lý luận.
Với vị trí và vai trị như ở trên thì GD quả là niềm hy vọng lớn lao cho đất nước ta
hiện nay, với mục tiêu cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. chúng ta đi lên từ
nghèo nàn lạc hậu có được thành quả như ngày nay có thể nói là bước phát triển thần
kỳ. tuy nhiên ở bất cứ xã hội nào , thời đại nào và trên lĩnh vực nào nó cũng ln tuồn
tại hai mặt : mặ tích cực mà xã hội đó đã làm được va những hạn chế chưa làm
được . ở nước ta cũng vậy việc phát triển GD ngày càng hoàn thiện địi hỏi phát huy
thế mạnh và khắc phục khó khăn mới đạt kết quả cao.
Phải khẳng định rằng những gì chúng ta đã làm được trong GD là rất to lớn. vì lợi
ích “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” theo tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại mà
sự nghiệp GD ở nước ta đã nhận được sự quan tâm của tồn Đảng, tồn dân, của
đơng

đảo

các

sinh


viên,

giảng

viên



các

tầng

lớp

tri

thức.

Xu thế tồn cầu hố và hội nhập quốc tế đang địi hỏi GDĐH Việt Nam phải nhanh
chóng đổi mới cách quản lý để đảm bảo và ngày càng nâng cao chất lượng đào tạo.
Bài viết này nêu tổng quan về quan điểm chất lượng trong GDĐH tại Việt Nam qua
các giai đoạn, hệ thống và cơ chế đảm bảo chất lượng GDĐH hiện nay, cùng các

6


thành quả và các vấn đề cần giải quyết để tiếp tục đẩy mạnh triển khai đảm bảo chất
lượng GDĐH tại Việt Nam.
So với các thời kỳ trước, Giáo dục đại học Việt Nam cho đến giữa thập niên 1980

vẫn cơ bản là giáo dục dục tinh hoa.Vì vậy, trong giai đoạn này vấn đề chất lượng
giáo dục đại học hầu như không được đặt ra, trong một thời gian dài, hệ thống giáo
dục đại học Việt Nam đã quan niệm quản lý chất lượng giáo dục đồng nghĩa với việc
kiểm sốt đầu vào thơng qua các kỳ thi tuyển mang tính cạnh tranh cao độ. Năm 1986
đánh dấu sự bắt đầu của công cuộc đổi mới giáo dục đại học tại Việt Nam, trong đó
một trong những mục tiêu quan trọng của việc đổi mới giáo dục đại học tại Việt Nam
là tăng cường “khả năng cung ứng” của các cơ sở giáo dục, mở rộng tối đa cơ hội
tiếp cận cho người học. Để đạt mục tiêu này, trong vòng gần hai thập niên kể từ khi
giáo dục đại học Việt Nam bắt đầu đổi mới, rất nhiều biện pháp đã được thực hiện để
đạt được mục tiêu nói trên, mà kết quả là số lượng người học cũng như các cơ sở
giáo dục đại học của Việt Nam đã tăng lên một cách đột biến.
Nhìn chung hệ thống GD nước ta phát khá hoàn thiện với đủ các loại hình:trường
cơng lập, bán cơng, nội trú, các học viện, trung tâm giáo dục kết hợp vừa học vừa
làm. Các hình thức đào tạo cũng phong phú từ chính quy, cao học, tại chức, liên
thông, đào tạo từ xa, du học. mỗi năm có hàng chục trường được xây dựng và nâng
cấp thu hút hàng trăm nghìn SV theo học.
2.1 vai trò của nhà nước và cơ quan quản lý giáo dục .
Trước hết phải nói đến vai trị của nhà nước Trong những năm qua, để thúc đẩy
giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng dạy và học, Nhà nước đã thực hiện xã hội
hóa để huy động tiềm năng của các thành phần kinh tế cho giáo dục và đào tạo. Ngân
sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục và đào tạo đã tăng từ 15% năm 2000 lên 18%
năm 2005 với cơ cấu tăng chi cho những nhiệm vụ trọng tâm của ngành như đổi mới
chương trình, bồi dưỡng giáo viên, tăng cường giáo dục miền núi. hàng loạt các chính
sách được ban hành. Cụ thể là, Triển khai nghiêm túc trong toàn hệ thống Chỉ thị số

7


296/CT-TTg ngày 27/2/2010 của Thủ tướng Chính phủ và Chương trình hành động
của Bộ về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012. Đến hết ngày

15/8/2010 đã có 311 trường đại học, cao đẳng báo cáo tình hình triển khai thực hiện
Chỉ thị 296 (đạt tỷ lệ 76,4%), trong đó, có 300 trường (đạt tỷ lệ 96,5% ) thành lập Ban
chỉ đạo đổi mới công tác quản lý giai đoạn 2010-2012; có 183 trường (đạt tỷ lệ 58,8%)
xây dựng và công bố chuẩn đầu ra ngành đào tạo; có 218 trường (đạt tỷ lệ 70,1%) tổ
chức xây dựng, rà soát, bổ sung các chỉ số trong chiến lược phát triến trường giai
đoạn 2011-2015, định hướng đến 2020. Đặc biệt là các chính sách ưu đãi cho SV. Đối
với SV có hồn cảnh khó khăn thì có biện pháp hỗ trợ về vốn (vay vốn, miễn giảm học
phí), tặng học bổng đối với những SV có thành tích học tập tốt, lựa chọn những SV ưu
tú gửi đi đào tạo ở nước ngoài... Theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội, đến
hết tháng 6/2010, đã có 1.915.774 học sinh, sinh viên của 1.723.782 hộ gia đình được
vay vốn, với tổng dư nợ là 23.745,595 tỷ đồng. Trong đó, 786.739 sinh viên đại học
được vay vốn, dư nợ 10.376,171 tỷ đồng. Từ ngày 26/8/2009, Thủ tướng Chính phủ
đã quyết định tăng mức cho vay ưu đãi từ 800.000 đ/sinh viên/tháng lên
860.000đ/sinh viên/tháng
2.2 vai trò của các trường
Còn về bản thân các trường để thu hút SV đã liên tục đổi mới trang thiết bị dạy và
học, thay đổi phương pháp dạy, xây dựng các trương trình chuẩn quốc tế, liên kết đào
tạo với nước ngoài, thuê giảng viên nước ngoài giỏi về giảng dạy, tuyển chọn đọi ngũ
giảng viên có kinh nghiệm. đồng thời triển khai mạnh mẽ chủ trương đào tạo nhân lực
theo nhu cầu xã hội. Năm học vừa qua, các trường ĐH trong cả nước tiếp tục triển
khai tích cực các văn bản thoả thuận đã ký kết với các các doanh nghiệp, các địa
phương để đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, như: Tập đồn
Than và khống sản Việt Nam, tập đoàn Hồng Hải (Đài Loan), Intel, Campal
Electrronic Company, tập đoàn Dệt May, ... các doanh nghiệp đã hỗ trợ kinh phí, trang
bị cho các trường cơ sở vật chất, trang thiết bị, tạo điều kiện cho sinh viên thực hành,
thực tập và tiếp nhận sinh viên sau tốt nghiệp về làm việc tại doanh nghiệp...
2.3 vai trò của gia đình và xã hội .

8



Đối với gia đình và xã hội cũng rất quan tâm đến đầu tư cho giào dục. có nhiều
gia đình mặc dù hồn cảnh khó khăn vẫn cố gắng lo cho 2, thậm chi là ba người con
đi học ĐH. Có nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã tổ chức hội chợ việc làm cho SV, tạo
điều kiện làm thêm cho SV…
2.4 vai trò của sinh viên .
Về bản thân SV, do được sự quan tâm của Đảng, nhà nước, gia đình và xã hội đã
cố gắng học tập tốt và đạt được nhiều kết quả cao. Mới đây khi được tin giáo sư Ngô
Bảo Châu đã đạt được giải thưởng toán học quốc tế Fields như một hiện tượng làm
vinh quang khơng chỉ cho đất nước mà cịn lá tấm gương cho các bạn SV học tập. có
rất nhiều SV đã đoạt giải cao trong các kỳ thi olimpic quốc tế,chúng ta đã có bốn thí
sinh xuất sắc đều đoạt giải Olimpic toán cũng như các cuộc thi Robocon vừa qua Việt
Nam đạt giải nhì(năm 2010)…
3. Những khó khăn.
Trên đây là những thánh tựu rất đáng tự hào củ chúng ta. Vì vậy để nâng cao vị
thế GD Việt Nam trên trường quốc tế và nâng cao chất lượng đào tạo, địi hỏi chúng
ta khơng chỉ xem xét khía cạnh đã làm được mà còn phải dũng cảm đối diện với
những gì chưa làm được vì đó là vấn đề quan tâm của toàn xã hội hiện nay. Nếu như
một vài năm gần đây, cả nước bừng tỉnh với con số hàng trăm nghìn thí sinh trượt đai
học mỗi năm và phát hiện nguyên nhân chính là kết quả của căn bệnh thành tích thì
từ đó đến nay chúng ta lai quá quen thuộc với nó. Hàng ngày chúng ta đã quá quen
thuộc khi đề cập đến các căn bệnh trong GD như“bệnh thành tích”, “bệnh đối phó”,
“bệnh đấu đá”, “bệnh thiếu trung thực” đang tràn lan khắp nơi, ở mọi người kể cả thầy
lẫn trò mà hiện tượng quay cóp đang hồnh hành, trở thành quốc nạn. Đảng và nhà
nước ta đã có chủ trương rất đúng đắn: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và cũng đã
có những biện pháp cụ thể cải cách giáo dục. Tại sao ngành giáo dục vẫn loay hoay
lúng túng, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với giáo dục? Tại sao
khi ta cởi trói cho nơng dân và cho các nhà doanh nghiệp, thì nơng nghiệp và doanh
nghiệp phát triển? Tại sao chúng ta khơng cởi trói cho giáo dục để giáo dục phát


9


triển? nếu như một thầy thuốc thì cần chẩn đốn đúng bệnh và cho đúng thuốc, thuốc
đắng giã tật, bệnh nặng đến đâu cũng chữa được. Phải thẳng thắn nhìn vào sự thật
những căn bệnh trầm kha của giáo dục Việt Nam nói trên. Và phải biết trị tận căn, mới
mong chất lượng giáo dục của Việt Nam được cải thiện.
3.1 Trong quản lý giáo dục.
Thời đại hiện nay, thế kỷ XXI, khoa học quản trị, nhất là quản trị chất lượng trở
nên rất hệ trọng cho sự phát triển. Sau một thời gian đổi mới, tư tưởng bao cấp, duy ý
chí, quản trị theo cảm tính vẫn cịn tàn dư, khoa học quản trị chất lượng chưa thật sự
đi vào nền nếp đời sống quản trị giáo dục từ cấp Bộ xuống đến cấp cơ sở giáo dục.
Nếp sống văn hóa chất lượng chưa được hình thành. Lãnh đạo Bộ cũng như cấp
trường vẫn chưa thật sự quan tâm đến khuyến cáo của các chuyên gia và thực sự
chưa xây dựng được một đội ngũ chuyên gia hùng hậu có chun mơn cao, có khả
năng thuyết phục cao, nhất là thích ứng với hồn cảnh đổi mới, vẫn thường quyết
định theo cảm tính hoặc do duy ý chí. Như tại Thái Lan, đối với các trường cơng lập
thì lo quản lý chặt chẽ về tài chánh, chun mơn thì để trường hoàn toàn lo. Đối với
các đại học tư, nhà nước lại không quản lý tài chánh, quản lý nhân sự lãnh đạo, song
lại quản lý rất chặt chẽ về chuyên môn. Khi muốn mở một ngành mới, nhà nước quy
định cứ 100 sinh viên thì phải có 3 tiến sĩ, 3 thạc sĩ, 1 cử nhân. Tất cả các trường đều
phải tuân thủ, thượng tôn luật pháp.
Các khâu định hướng, mục tiêu, kế hoạch, thanh tra, sử dụng, quản lý nhân sự về
chất lượng đào tạo còn nhiều hạn chế, bất cập, thiếu nhất quán ổn định. Tiêu chí
chun mơn, hiệu quả chưa thật sự được coi trọng.

3.2 Phương pháp dạy học
Hầu như các giảng viên chỉ quan tâm đến truyền đạt kiến thức và kiểm tra trí nhớ
mà không quan tâm đến rèn luyện kỹ năng và nhân cách chuẩn bị vào đời, thường
dùng phương pháp thuyết giảng là chủ yếu, truyền thụ kiến thức một cách thụ động,


10


có nơi cịn nạn thầy đọc trị ghi, có đổi mới thì lại chuyển từ "đọc chép sang nhìn
chép”,chưa hướng dẫn sinh viên tự học, tự nghiên cứu hoặc không có biện pháp cụ
thể khuyến khích sinh viên tự học, tự nghiên cứu.
Không lấy sinh viên làm trung tâm trong quá trình dạy học. Khi giảng viên áp dụng
phương pháp chủ động, lại gặp quá nhiều khó khăn do hạn chế phương tiện thiết bị
giảng dạy hay thư viện còn rất hạn chế hoặc sinh viên lại rất thụ động, có thói quen
lười suy nghĩ, khơng làm theo hướng dẫn của giảng viên.
.Các trường đại học vẫn chưa thật sự quan tâm đến thực hành, thực tập. Bài tập
càng nhiều, kỹ năng càng được rèn luyện, tính thưc hành, thực tiễn càng cao. Ngay
giáo trình cũng thiếu vắng các bài tập. Thiếu hẳn một hệ thống trợ giảng (giảng viên)
hay trợ giáo, kèm cặp (tutoring, sinh viên giỏi đàn anh phụ trách, được cấp tiền bồi
dưỡng tượng trưng từng giờ hay từng buổi phụ việc).
Các trường đại học ở Việt Nam chưa quan tâm đến phương pháp học nhóm, các
thư viện chưa bố trí những phịng học nhóm, chưa có trường nào bố trí rất nhiều bàn
ghế để cho bất cứ sinh viên lúc chưa đến giờ học hay giờ trống đến ngồi gặp gỡ
nhau. Các giảng viên cũng không bắt buộc những bài tập làm theo nhóm, chấm điểm
theo nhóm.
3.3 Đội ngũ giảng viên.
Nếu học vị tiến sĩ là điều kiện chuẩn có khả năng dạy đại học thì hiện nay số
lượng giảng viên có học vị này cịn quá thấp so với khu vực ASEAN cũng như các
nước phát triển trên thế giới. Dĩ nhiên cũng có các trường hợp ngoại lệ chỉ có bằng cử
nhân nhưng vẫn là người giảng viên đại học giỏi, đầu ngành, được phong hàm giáo
sư hay phó giáo sư. Đối với các nước trên thế giới, người có học vị cử nhân chỉ có thể
làm trợ giảng mà khơng được phép dạy lý thuyết. Điều này ta chưa làm được, rõ ràng
đã phản ánh chất lượng yếu kém của đội ngũ giảng viên đại học ở Việt Nam.
Đội ngũ giảng viên đại học tại Việt Nam còn rất yếu kém về nghiên cứu sáng tạo,

hiện chỉ mang tính đối phó, mang tính phong trào, làm lấy lệ, rất ít người say mê

11


nghiên cứu và giành nhiều thời gian cho công tác nghiên cứu ngay cả những người
có khả năng nghiên cứu
Các giảng viên phải lo kiếm sống, nên việc lo tròn trách nhiệm của một người
giảng viên bình thường đã là điều rất khó, chứ chưa thể nghĩ tới trách nhiệm nghiên
cứu hay đi xa hơn nữa là hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc ngay như những người có
tinh thần trách nhiệm cao nhất.
Hiện tượng đấu đá không những phổ biến trong giới lãnh đạo để tranh quyền lực
mà ngay trong các cán bộ giảng viên bình thường để tranh giành các danh hiệu thi
đua, đã tạo ra một môi trường làm việc không được lành mạnh, làm sao công tác
giảng dạy và nghiên cứu có thực chất.
3.4 Sinh viên
Rất ít các SV chọn học được ngành học và trường đại học thích hợp với sở
trường và sở thích đích thực của mình và trường cũng khơng chọn được sinh viên mà
mình muốn đào tạo. SV chỉ học đối phó, cốt lấy điểm, học cho qua, trở thành bệnh
thành tích, bệnh hình thức, thiếu thực chất… ngay cả SV khá giỏi cũng sẵn sàng quay
cóp nhất là đối với những mơn học khó nhớ, lại q nhiều giờ học, mà khơng phải
ngành nào cũng như nhau khiến SV khơng thích học.
Theo PGS.TS Nguyễn Công Khanh, mỗi SV lớn lên trong môi trường văn hố, xã
hội khác nhau, hình thành những thói quen, cách suy nghĩ, các năng lực nhận thức,
hứng thú cũng khác nhau. Điều này tạo nên sự đa dạng và sự phong phú về phong
cách học, một số SV học tập tích cực, chủ động, một số khác lại tỏ ra thụ động, thích
im lặng ngồi nghe hơn là tranh cãi.
Có tới 64% SV chưa tìm được phương pháp học phù hợp với bản thân.
Có 55,9% SV thường suy ngẫm để tìm ra các phương pháp học phù hợp và hiệu
quả khi học các loại tài liệu khác tuỳ theo mục đích và hồn cảnh cụ thể.


12


Có 68,2% SV thường suy nghĩ về cách học, cách thức tự quản lí việc học của
mình sao cho hiệu quả.
Có 50,9% SV cho rằng mình tự học hiệu quả nhờ biết kết hợp các phương pháp
học khác nhau phù hợp với nhiệm vụ học tập cụ thể.
Nhưng chỉ có 29,2% SV cho rằng mình đã lập thời gian biểu học tập và cố gắng
thực hiện đúng thời gian biểu; có 36% SV được khảo sát cho rằng mình đã tìm được
những phương pháp học phù hợp với đặc điểm nhận thức của cá nhân và tất nhiên
64% sinh viên còn lại là mơ hồ về phương pháp học.
Về tinh thần tích cực và năng động của sinh viên, ơng Khanh cũng cảm thấy rất
đáng tiếc khi có tới 36,1% biểu lộ phong cách học thụ động: ngại nêu thắc mắc, ngại
nói ra ý tưởng riêng của mình trong các cuộc thảo luận trên lớp; Có 22,9% SV chỉ
thích giáo viên giảng cho mình nghe hơn là chủ động hỏi, nêu thắc mắc (chưa kể
42,7% SV cũng có quan điểm gần gần như vậy);
41,1% cho rằng mình học chủ yếu từ vở ghi, giáo trình và ít có thời gian tìm
31,4% số SV được khảo sát cho rằng các chiến lược học của mình hướng vào việc
Hơn 50% SV được khảo sát không thật tự tin vào các năng lực/ khả năng học
của mình.
Hơn 40% cho rằng mình khơng có năng lực tự học;
Gần 70% SV cho rằng mình khơng có năng lực tự nghiên cứu;
nắm kiến thức hơn là phát triển các năng lực tư
Gần 55% SV được hỏi cho rằng mình khơng thực sự hứng thú học tập.
SV yếu nhất ở các nhóm: Kĩ năng thuyết trình, kĩ năng sử dụng máy vi tính, kĩ
năng viết báo cáo tham luận, kĩ năng vận dụng vào thực tế.

13



SV mạnh hơn ở các nhóm kĩ năng: Phân tích và giải thích, giải quyết vấn đề,
nghe ghi và hiểu bài giảng. (PGS.TS Nguyễn Cơng Khanh).

3.5 Trương trình đào tạo.
Định hướng, mục tiêu, phương pháp dạy học và phương thức lượng giá hầu như
khơng thấy ghi trong chương trình hoặc rất sơ sài, phản ảnh sự thiếu chuyên môn
trong việc soạn các chương trình dạy học, chưa được thiết thực, đáp ứng được nhu
cầu của xã hội trong thời kỳ đổi mới, hội nhập vào thế giới .
Cấu trúc chương trình nhiều điểm chưa hợp lý, chiếm quá nhiều thời gian lên lớp
về lý thuyết, rất ít giờ bài tập, rất ít giờ hoạt động ngoại khố tự học, tự nghiên cứu.
Nhiều nội dung chương trình lạc hậu hay nặng nề, khơng cịn phù hợp, tạo sự chán
nản cho sinh viên, khiến sinh viên không đi sâu vào ngành học, nhất là năm đầu tiên
có q ít mơn của ngành học.
3.6 Cơ sở vật chất.
Cơ sở vật chất đại học ở Việt Nam kể cả công lập và dân lập đều rất yếu kém, từ
quy mơ đến chất lượng, tính hiệu quả phục vụ sự giảng dạy cũng như học tập, nghiên
cứu …, nhất là các trường đại học dân lập thì hầu như chưa có, bởi một vài trường có
rồi chỉ là tạm bợ, chưa có thể là quy mô hay chất lượng của một trường đại học, nếu
chưa muốn nói chưa được là một trường trung học phổ thơng trung bình. Cũng có thể
chỉ ở Việt Nam mới xảy ra tình trạng cơ sở vật chất trường đại học như vậy.
Chương 2. Khái quát tình hình chung.
1.

Những thành tựu.

Trước hết là hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ đã góp phần tích cực
nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển kinh tế xã hội đất nước. Các đơn vị trực
thuộc Bộ GD&ĐT đang triển khai thực hiện 20 đề tài độc lập cấp Nhà nước, 34 nhiệm


14


vụ nghiên cứu thuộc các Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước. Trong năm
qua, các đơn vị cũng đã triển khai thực hiện 103 đề tài KH&CN trọng điểm cấp Bộ. Đã
hỗ trợ gần 1.300 NCS thông qua các đề tài NCKH cấp cơ sở có nội dung gắn với
luận án tiến sĩ từ nguồn kinh phí sự nghiệp KHCN. Đã có hơn 960 bài báo và CTKH
đăng trên các tạp chí quốc tế, gần 4.100 bài báo, cơng trình đăng trên các tạp chí
khoa học trong nước...
Một thành tựu đáng kể đến là có rất nhiều SV Việt Nam du học ở nước ngồi
và có rất nhiều người tốt nghiệp loại xuất sắc, nhiều CTNC được đánh giá rất cao đưa
GD Việt Nam sánh ngang với thế giới. theo thống kê của hội du học thì số SV Việt
Nam du học tại mỹ đứng thứ 9 thế giới. dưới đây là thống kê NCKH của một số nước
trong khu vực:
Bức tranh NCKH của 11 nước Đơng Á (Hình 1) cho thấy khơng có bất cứ lý do
nào để khước từ CBQT nếu chúng ta muốn đất nước sánh vai với các nước tiên tiến
trong khu vực.

Hình 1
Tính

trên

một

triệu

dân,

Singapore đứng đầu khu vực

về CBQT, gấp 170 lần Việt
Nam. Theo sát sau Singapore


Đài

Loan,

Hàn

Quốc,

HongKong và Nhật Bản, năm
nước này tạo thành nhóm tiên
tiến nhất trong khu vực. Dưới
cùng trở lên là Indonesia,
Philippines và Việt Nam. Thái
Lan, Trung Quốc và Malaysia
thuộc nhóm giữa, nhưng vẫn

15


vượt khá xa ba nước vừa nêu trong nhóm cuối. Năm 2008, 65 triệu dân Thái Lan
công bố 3904 công trình, trong khi đó Việt Nam đơng dân hơn (87 triệu) nhưng chỉ
mới có 806 cơng trình. Thành tích CBQT của Việt Nam khá hơn Indonesia và
Philippines, mặc dù thu nhập bình quân của hai nước này cao hơn ta gấp hai lần. Hơn
nữa, trong nhiều năm liền, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao về cơng bố
quốc tế, 16%/năm, ngang với tốc độ của Thái Lan và Malaysia.


1.1 Đầu tư cho giáo dục
Giáo sư Đào Trọng Thi, giám đốc Đại học Quốc gia HN đưa ra một so sánh : tỷ lệ
đầu tư cho GD mới đạt 3 % GDP, trong khi tỉ lệ này ở Philippines là 4,2 %, ở Thái Lan
là 5,4 % và ở Malaysia là 6,7 %. Một cách so sánh khác : Chính phủ hiện quy định
mức trần thu học phí đối với các trường ĐH công lập là 2.9 triệu đồng/ năm/ SV, chỉ
bằng khoảng 20 - 25 % định mức chi phí đào tạo thường xuyên cho một SV (định mức
này ở hai ĐHQG là 9 360 000 đồng/ SV, các trường ĐH công lập khác vào khoảng 7 8,5 triệu đồng).
1.2 Tình hình du học
Giáo sư Phạm Phụ, ĐH Quốc gia TPHCM đưa ra con số : VN hiện nay đã có trên
20 000 SV đang du học tự túc ở nước ngồi, chi phí ước tính khơng dưới 200 triệu
USD/năm. Nhà nước cũng đã có chương trình học bổng du học từ ngân sách quốc
gia với tổng kinh phí 1 000 tỉ đồng trong 5 năm.

2. Nguyên nhân.
Do tư tưởng, con người, cách làm của thời bao cấp, thời chiến tranh khơng dễ gì
một sớm một chiều có thể thay đổi ngay được. Do đời sống vật chất của giảng viên
quá thấp, không ai sống bằng đồng lương, khơng ai có thể tồn tâm tồn ý và đủ thời
gian hồn thành trách nhiệm chun mơn của họ

16


Do từ lâu, quan niệm, định hướng giáo dục, mục tiêu giáo dục rất mơ hồ, có thói
quen lượng giá, đánh giá… trong các hệ thống giáo dục rất sai lầm. Ít quan tâm đế
những mục tiêu về kỹ năng, thái độ, nhân cách chuẩn bị vào đời, đáp ứng yêu cầu
của xã hội
Đồng thời do nhà nước áp dụng một hệ thống thi cử, thi đấu, thi đua hết sức nặng
nề khắp các cấp, khắp các đối tượng, cán bộ, thầy và trò cùng một số nguyên nhân
khác tạo ra tinh thần khoa cử, thi đấu rất nặng nề trong xã hội, tạo áp lực học sinh
phải học thêm, học tủ để đạt kết quả trước mắt với bất cứ giá nào kể cả kiệt sức, quay

cóp… đưa tới cách dạy đối phó, học đối
2.1 Cơ sở vật chất.
Trang bị các phịng học, các thư viện, phịng thí nghiệm ở các Đại học rất yếu
kém, vừa không cập nhật, vừa khơng có hệ thống. Vào mạng các Trường Đại học
nước ngồi, chưa nói các nước Âu - Mỹ, chỉ riêng các Đại học lớn ở Nga, Trung Quốc
- các nước vừa chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, họ cũng có nhiều
thư viện điện tử nhiều kho dữ liệu rất phong phú cho Sinh viên, Giảng viên sử dụng.
Chúng ta không nên quên bài học về nông nghiệp. Từ một nước thiếu gạo, chỉ cần
thay đổi chính sách hợp lý, chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên
thế giới.
Nhà nước cũng như xã hội chưa thật sự quan tâm đến việc xây dựng các trường
học, tương xứng với chủ trương GD là quốc sách hàng đầu hay tinh thần hiếu học của
người Việt Nam. Chưa quan tâm đến cơ sở vật chất phục vụ phương cách học tập
hiện đại: học nhóm, phương pháp dạy và học giao tiếp…
2.2 Quản lý.
Do tàn dư của cơ chế quản lý bao cấp, cơ cấu nhân sự bất cập, chưa đáp ứng
được yêu cầu hiệu quả của thời kỳ đổi mới. Do chức năng chồng chéo, lẫn lộn, trách
nhiệm không rõ ràng. Do thiếu chuyên môn, thiếu đào tạo, bồi dưỡng khoa học kỹ
thuật quản trị mới từ cấp Bộ đến cấp trường đại học.

17


2.3 Phương pháp đào tạo.
Do ảnh hưởng từ lâu của lối dạy học nặng lý thuyết, mang tính kinh viện. Do ảnh
hưởng từ lâu cách kiểm tra, cách thi nặng về kiến thức, cách đánh giá về kết quả hơn
về cách đánh giá quá trình học tập. Cách đánh giá, cách thi nào sẽ có cách học đó.
Do ảnh hưởng từ lâu lối giáo dục đặt nặng về điểm số, đặt nặng thành tích, khơng
quan tâm đến sự hứng thú và thực tiễn, trị lo học đối phó để kiếm điểm kể cả quay
cóp tràn lan.

2.4 Đội ngũ giáo viên.
Do lịch sử thời bao cấp và thời chiến tranh để lại. Tình trạng thầy khơng ra thầy,
trị khơng ra trị, trường không ra trường, lớp không ra lớp là chúng ta hiểu được và
đành chấp nhận trong hoàn cảnh lịch sử đó, vì u cầu của đấu tranh, một mất một
cịn, khơng thể nào khác! Mà hiện nay trong thời kỳ đổi mới và hội nhập với khu vực
và thế giới, yêu cầu hoàn toàn khác, cách làm phải theo quy luật hoàn toàn khác, nếu
ta muốn tồn tại và phát triển.
Do đời sống vật chất của giảng viên quá thấp, khơng ai sống bằng đồng lương,
khơng ai có thể toàn tâm toàn ý và đủ thời gian hoàn thành trách nhiệm chun mơn
của họ. Khơng thể địi hỏi nhiều hơn nữa nơi họ vì họ đã chịu đựng như thế là quá phi
thường, quá sức chịu đựng của họ rồi, nhất là đối với những người có khả năng và
trách nhiệm cao!
2.5 Sinh viên.
Do từ lâu, quan niệm, định hướng giáo dục, mục tiêu giáo dục rất mơ hồ, có thói
quen lượng giá, đánh giá, thi, kiểm tra trong các hệ thống giáo dục rất sai lầm, chỉ
theo lối đánh giá kết quả bằng điểm số mà chỉ về kiến thức, khơng đánh giá theo q
trình học tập, ít quan tâm đế những mục tiêu về kỹ năng, thái độ, nhân cách chuẩn bị
vào đời, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Ngay cách đánh giá đạo đức của sinh viên vừa
mới ban hành cũng nặng về điểm số và không giao trách nhiệm cho các giảng viên
đánh giá nhận xét!

18


Đồng thời do nhà nước áp dụng một hệ thống thi cử, thi đấu, thi đua hết sức nặng
nề khắp các cấp, khắp các đối tượng, cán bộ, thầy và trò cùng một số nguyên nhân
khác tạo ra tinh thần khoa cử, thi đấu rất nặng nề trong xã hội, tạo áp lực học sinh
phải học thêm, học tủ để đạt kết quả trước mắt với bất cứ giá nào kể cả kiệt sức, quay
cóp… đưa tới cách dạy đối phó, học đối phó.
Do giáo dục phổ thơng chưa chuẩn bị tốt, hướng dẫn rèn luyện để học sinh lựa

chọn ngành học, trường học phù hợp và chuẩn bị cách học ở đại học.
2.6 Chương trình đào tạo.
Do chưa thật mạnh dạn đổi mới, còn ảnh hưởng tư duy giáo dục thời bao cấp.
Do chưa đảm bảo những nguyên tắc về định hướng và mục tiêu, từ đó, nội dung và
phương pháp giảng dạy và cách thức lượng giá phải thể hiện. Do Bộ và các trường
đại học chưa chuẩn bị tốt, xây dựng, đào tạo đội ngũ các chuyên gia soạn chương
trình và triển khai tốt kế hoạch soạn chương trình đào tạo đại học.
2.7 nguyên nhân khác
Trong lĩnh vực GD&ĐT ở nước ta đang xảy ra một nghịch lý: Là một nước thuộc
loại nghèo nhất thế giới, chúng ta đang có hàng nghìn sinh viên tự túc du học ở nước
ngồi. Họ là những con nhà giàu có chăng? Chỉ đúng một phần.
Có nhiều bậc cha mẹ đã và đang thế chấp nhà cửa, vay tiền và sống đạm bạc để
cho con đi du học. Tại sao? Vì họ có nhu cầu cho con học đại học và thực tế con cái
họ có khả năng học đại học ở nước ngồi. Nhưng ở ta, họ khơng được chấp nhận.
Cái quy trình đi du học của nhiều người diễn ra như sau:
Thi đại học - trượt - Thi lại - Thi lại trượt - Đi du học
Điều đó cho thấy, đi du học đối với họ không phải là sự lựa chọn mà là sự bắt
buộc. Nếu mỗi SV đi du học tự túc ở nước ngoài phải chi mỗi năm 10.000 USD thì số
ngoại tệ của đất nước ta chảy ra ngoài hàng năm lên tới hàng chục triệu USD. Số tiền

19


đó thật là đáng quý đối với một nước nghèo như nước ta. Nó có thể sẽ cao hơn số
tiền ngân sách mà nhà nước chi cho ngành GD&ĐT.
Chương 3. Gỉai pháp và kiến nghị
Đã ít lâu nay, khi bàn về giáo dục ở nước ta hiện nay, hình như nhiều người
thường thống nhất với nhau: Thơi, khơng nên nói tình hình nữa, tình hình giáo dục,
những căn bệnh của giáo dục đang khiến cả xã hội không thể yên tâm, thì ai cũng biết
và nhận ra cả rồi. Vấn đề bây giờ là cần tìm giải pháp nào để thay đổi được.Có thể nói

rằng nguyên nhân đầu tiên, sai lầm đầu tiên và bao trùm là ở chính vấn đề quan trọng
nhất, cơ bản nhất của giáo dục: ‘triết ly giáo dục’. Chúng ta định xây dựng và thực
hiện nền giáo dục này để làm gì? Thật vậy, đang có vấn đề, có vấn đề lớn ở ngay câu
hỏi cơ bản: bằng nền giáo dục này, chúng ta muốn đào tạo nên những con người như
thế nào đây? Chúng ta định đào tạo nên những con người tự do, biết suy nghĩ và có
suy nghĩ độc lập, từ đó là những con người sáng tạo, cho một xã hội tự do và sáng
tạo, hay đào tạo nên những con người biết chấp hành, vâng lời, phục tùng, hết sức dễ
bảo, cho một xã hội trong đó mọi sự đều được chỉ huy tập trung răm rắp, một xã hội
trong đó có ai đấy, một lực lượng hay một tổ chức, một người hay một số người nào
đấy suy nghĩ sẵn mọi điều cho mọi người và mọi người cứ thế học thuộc lòng và làm
theo. Trong một bài viết gần đây, giáo sư Hồng Tuỵ có nói: “Để khắc phục khó khăn
hiện nay, chỉ có một lối thốt duy nhất là hiện đại hóa giáo dục”. Tơi hồn tồn đồng
tình với phương hướng đó. Nhưng thế nào là hiện đại hóa giáo dục, thế nào là một
nền giáo dục hiện đại? Tôi nghĩ rằng một nền giáo dục hiện đại trước hết là ở trong
tính hiện đại của triết lý giáo dục mà nó đeo đuổi, biết và dám độc lập suy nghĩ, biết
cách tự mình chiếm lĩnh lấy kiến thức, tự mình đi khám phá ra chân lý, và từ đó làm
chủ cuộc sống của mình, của đất nước...
Chất lượng GDĐH tùy thuộc vào những yếu tố, thứ tự theo tình trạng thực tế yếu
kém nổi trội và trong tầm tay khả thi mà chúng ta cần phải ưu tiên giải quyết như sau:
- Quản trị.
- Phương pháp dạy học và phương tiện dạy học.

20


- Thầy.
- Trị.
- Chương trình.
- Cơ sở vật chất của trường.


1.1 Cơ quan quản lý
Đổi mới tư tưởng, cơ chế, cung cách quản trị mới, chun mơn hóa, lấy hiệu quả,
đáp ứng yêu cầu xã hội là mục tiêu, tiêu chí hàng đầu.
Có kế hoạch cụ thể xây dựng văn hóa chất lượng vào từng trường đại học. Mỗi
trường đại học có một hiệu phó phụ trách về CLĐT, về kiểm định CLĐT.
Bộ cũng như mỗi trường đại học nhanh chóng xây dựng đội ngũ chuyên gia GD,
với học vị tiến sĩ về quản trị GDĐH trong các lĩnh vực quản trị học đường, soạn
chương trình, cơng tác sinh viên, tư vấn sinh, phương pháp dạy học…
1.2 Phương pháp dạy
Đổi mới tư tưởng giáo dục, lấy SV làm trung tâm trong q trình dạy học, phát
huy tính tích cực, tính chủ động tự học trong học tập và nghiên cứu đáp ứng nhu cầu
của xã hội.
Quy chế chuyên môn, giảng dạy được quy định rất cụ thể: buộc phải đề cương
môn học rất kỹ càng và đề cương bài giảng với những yêu cầu đổi mới cụ thể, quy
định rất rõ ràng các biện pháp quản lý, giám sát chuyên mơn quy trình triển khai các
đề cương mơn học và đề cương bài giảng đến từng sinh viên. Xây dựng nghiêm túc
và có hiệu quả chế độ trợ giảng, trợ giáo…
Cấu trúc chương trình của từng mơn học và giáo trình, đề cương bài giảng phải
có các bài tập. Một buổi học lý thuyết phải được bố trí 1 buổi bài tập.

21



×