Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN một số giải pháp giúp học sinh lớp 1 rèn luyện kỹ năng sử dụng màu sắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.26 KB, 16 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn sáng kiến:
Con người sống giữa thiên nhiên đầy ắp màu sắc của cỏ cây, hoa lá, mây trời,
muông thú, tất cả đều lung linh, đẹp đẽ. Chúng không chỉ cho ta vật chất để sống
mà từ cái đẹp đó đã đem lại cho con người những xúc cảm, tình cảm yêu đời, yêu
người.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, phù hợp với truyền thống Việt Nam. Yếu tố cơ bản và nền tảng để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững đó là phát triển nguồn
nhân lực con người. Hay nói cách khác là phát triển và đổi mới giáo dục trong đó
có môn Mĩ thuật - một môn học chính thống của cấp tiểu học đặc biệt dạy theo
phương pháp mới hiện nay. Xuất phát từ nhận thức trước đây thường xem môn Mĩ
thuật là môn phụ cho nên các ngành, các cấp chưa quan tâm nhiều về trí tuệ, thời
gian cũng như trang thiết bị, đồ dùng học tập đặc biệt là phương pháp dạy học chủ
yếu còn mang nặng phương pháp dạy học cổ truyền, máy móc, rập khuôn, chưa chú
trọng đến giáo dục thẩm mĩ. Vì vậy hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được mục tiêu
môn học. Mà chúng ta đã biết giáo dục thẩm mĩ cho học sinh là nhiệm vụ chính của
môn Mĩ thuật. Bởi con người ta luôn có khát vọng vươn tới cái đẹp, mà muốn cho
mỗi người trong đó có trẻ em tiếp cận và cảm thụ một cách đầy đủ về cái đẹp nói
chung, về màu sắc nói riêng thì việc rèn luyện kĩ năng sử dụng màu sắc phù hợp
cho học sinh lớp 1 là một việc làm hết sức cần thiết. Có năng khiếu và yêu thích
môn vẽ nhưng phải có kĩ năng chuẩn mực mới có thể vẽ đẹp, hợp lí và sáng tạo.

1


Đối với học sinh lớp 1 là lứa tuổi nhỏ nhất trong bậc tiểu học, cần có sự uốn nắn,
rèn luyện ngay từ đầu.
Trong chương trình giáo dục mới, môn Mĩ thuật được xem như là một phương
tiện giáo dục quan trọng trong việc giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Ngoài việc cung
cấp cho học sinh một số kiến thức mĩ thuật phổ thông, hiểu biết về cái đẹp môn Mĩ


thuật còn giúp các em có thêm hứng thú để các em học tốt các môn học khác cũng
như giúp học sinh vận dụng những hiểu biết kiến thức mĩ thuật vào học tập và sinh
hoạt hàng ngày.
Môn Mĩ thuật rèn luyện cho học sinh cách quan sát, khả năng tìm tòi, tư duy,
sáng tạo để góp phần hình thành phẩm chất của người lao động mới Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, giúp học sinh nhận thức được vẽ đẹp của Mĩ thuật dân tộc và có ý
thức giữ gìn và bảo tồn nền mĩ thuật đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta. Vì vậy,
muốn giáo dục cái đẹp để các em tiếp nhận và cảm thụ được một cách đầy đủ, biến
nó thành những giá trị thẩm mĩ thực sự cho bản thân thì việc giáo dục thẩm mĩ nói
chung và rèn luện kĩ năng sữ dụng màu sắc thích hợp cho học sinh nói riêng cần
phải được giải quyết tốt ở năm học đầu cấp tiểu học.
Để giúp các em biết bộc lộ tình cảm của bản thân mình với mọi người, với thế
giới tự nhiên và xã hội, thì những người thầy giáo, cô giáo dạy môn Mĩ thuật đóng
một vai trò hết sức quan trọng để đạt được mục tiêu môn học đề ra. Gắn giáo dục
thẩm mĩ với các môn học khác, với đặc thù của địa phương phải được tiến hành
một cách thường xuyên, nghiêm túc để các em có những tư duy tốt về thẩm mĩ, để
các em mang lại nhiều cái hay, cái đẹp cho cuộc sống, cho xã hội.

2


Từ những thực tế như đã nói trên và qua nhận định chủ quan của cá nhân, qua
kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến “Một số giải
pháp giúp học sinh lớp 1 rèn luyện kỹ năng sử dụng màu sắc”.
1.2. Phạm vi áp dụng sáng kiến:
Đề tài nghiên cứu được áp dụng trong dạy học Mĩ thuật cho học sinh lớp 1 ở
trường tiểu học.
1.3. Điểm mới của sáng kiến: Ở mầm non các em vẽ và tô màu theo ý thích,
các em thấy màu sắc nào nổi bật, sặc sỡ thì các em cho đó là đẹp do đó cách sử
dụng màu sắc của các em có phần hạn chế. Điểm mới của sáng kiến ở chỗ giúp các

em rèn luyện kỹ năng sử dụng màu sắc như: cách phối màu, nhận biết độ đậm nhạt,
các đường nét, nhận biết được các màu sắc, phát huy tính sáng tạo cũng như cảm
nhận được cái đẹp trong các tác phẩm mỹ thuật qua đó các em càng yêu thích môn
Mĩ thuật hơn.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
2.1.1. Đặc điểm tình hình
a. Thuận lợi:
* Về phía nhà trường: Tiếp tục thực hiện phong trào “Ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học”. Năm học này nhà trường đã mua sắm thêm nhiều máy
móc, thiết bị dạy học như màn hình ti vi 51 in, bảng tương tác, lắp đặt nhiều gói
Internet nên việc tìm hiểu thông tin phục vụ hoạt động dạy học cho giáo viên có
phần thuận lợi. Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên quan tâm chỉ đạo giáo viên

3


thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học, tạo mọi điều kiện thuận lợi để giáo
viên nghiên cứu và áp dụng các sáng kiến kinh nghiệm trong dạy học.
* Về phía giáo viên: Bản thân là giáo viên được đào tạo về chuyên môn giảng
dạy Mĩ thuật, giàu lòng đam mê và tâm huyết với bộ môn. Với kinh nghiệm giảng
dạy ở trường tiểu học hơn 6 năm, tôi đã không ngừng trau dồi kỹ năng, học hỏi
phương pháp dạy học từ các đồng nghiệp, theo dõi và nắm bắt kiến thức mĩ thuật
qua các phương tiện truyền thông đã giúp tôi có được một số kinh nghiệm, một số
phương pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng màu sắc cho học sinh, đặc biệt là học sinh
lớp 1.
* Về phía học sinh: Học sinh bậc tiểu học nói chung đã được tiếp xúc với
môn học Mĩ thuật từ bậc mầm non nên phần nào các em đã có kiến thức cũng như
kĩ năng sử dụng màu sắc. Các em đã được học tập theo phương pháp dạy học mới
(theo định hướng phát triển năng lực) nên đã rèn luyện được tính tự sáng tạo, tính

độc lập của mình. Đa phần các em đều ngoan, thích được học mĩ thuật, nhiều em
rất có năng khiếu vẽ, tạo hình, tích cực hoạt động trong giờ học, tham gia tốt các
cuộc thi vẽ tranh do nhà trường, hội đồng đội phát động.
b. Khó khăn:
* Về phía nhà trường: Hiện tại trường đã có phòng học bộ môn Mĩ thuật
nhưng trang thiết bị phục vụ cho bộ môn còn thiếu thốn nên chưa đáp ứng đầy đủ
yêu cầu môn học.
* Về phía giáo viên: Trường chỉ có một giáo viên dạy mĩ thuật nên việc tiếp
thu, rút kinh nghiệm qua dự giờ góp ý không có mà chỉ dự giờ rút kinh nghiệm

4


thông qua dự giờ của các đồng nghiệp không cùng chuyên môn nên việc học tập
phương pháp dạy học có phần hạn chế.
* Về phía học sinh: Trong thực tế, bên cạnh việc học sinh thích học môn Mĩ
thuật vẫn còn không ít em chưa thực sự say mê môn học này, nhiều em ngồi học
không chú ý, nói chuyện riêng. Một số em không thực sự có năng khiếu nên việc
học còn mang tính đối phó. Học sinh ở trường đa phần có điều kiện kinh tế gia đình
khó khăn, nên một số em còn thiếu đồ dùng học tập, đặc biệt là màu vẽ.
2.1.2. Kết quả của thực trạng trên:
Chất lượng bộ môn qua khảo sát đầu năm học 2018-2019:
Số
Lớp
1A
1B
1C
Tổng

lượng

24
24
20
68

Đẹp

Chưa đẹp

SL

%

SL

%

19
18
16
53

79,2
75,0
80,0
77,9

05
06
04

15

20,8
25,0
20,0
22,1

Từ kết quả nêu trên bản thân tôi luôn tìm biện pháp làm thế nào để cho kết quả
tốt hơn, cụ thể là tìm “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 1 rèn luyện kỹ năng
sử dụng màu sắc” góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Mĩ thuật đối với
học sinh đầu cấp của bậc tiểu học.
2.2. Các giải pháp:
2.2.1. Thường xuyên quan tâm giáo dục cho học sinh biết yêu thích cái đẹp:
Xuất phát từ nội dung và mục tiêu đã định, dạy học Mĩ thuật phải tạo điều
kiện cho học sinh tiếp xúc, làm quen và bước đầu tập thể hiện cái đẹp, vận dụng nó
vào học tập và sinh hoạt hàng ngày, bộ môn Mĩ thuật góp phần vào giáo dục thẩm
5


mĩ cho học sinh. Dạy Mĩ thuật giáo viên phải gợi mở, cung cấp kiến thức tới học
sinh để hướng kiến thức đó không những giúp học sinh dễ hiểu mà còn là động lực
thúc đẩy sự phát triển, tìm tòi, sáng tạo hơn trong học tập.
2.2.2. Yêu cầu học sinh nhớ tên ba màu cơ bản, biết cách sử dụng màu sác
để vẽ theo ý thích, nhận xét được cảm nhận về sản phẩm của mình và của bạn.
Mặc dầu các em đã nhận biết ba màu cơ bản từ bậc học mầm non song do đặc
điểm tâm sinh lí của các em ở lứa tuổi này, việc ghi nhớ chưa bền vững, nên việc
nhắc nhở thường xuyên là một việc làm cần thiết. Đặc biệt các màu do pha trộn mà
có (đỏ pha với vàng tạo thành màu da cam; đỏ pha với xanh lam tạo thành màu
tím...), cao hơn phân biệt độ đậm nhạt của màu sắc, biết chọn những màu sắc phù
hợp để vẽ vào tranh.


Hình 1: Cách pha màu
2.2.3. Hướng dẫn học sinh so sánh các mẫu vật thực:
6


Độ đậm nhạt của màu sắc phụ thuộc vào các màu nằm cạnh nó, hay nói cách
khác một màu sắc nào đó không phát huy hết tính chất của nó khi chỉ nằm một
mình đơn độc, mà nó được bộc lộ tốt hơn khi nằm cạnh màu khác làm tôn nó lên.
Trong trường hợp này có thể xẩy ra hai hiện tượng hoàn toàn trái ngược nhau: hoặc
tốt hơn, hoặc xấu đi. Thí dụ: màu đỏ đặt lên màu vàng làm cho đỏ ấy tươi sáng lên,
rực rỡ hơn; nhưng cũng màu đỏ ấy đặt lên màu xanh thì sẽ làm mất tính chất của nó
mà thôi. Điều này đòi hỏi giáo viên định hướng cho các em một cách hết sức khéo
léo và tế nhị, vì chọn màu gì và sử dụng màu như thế nào mà không làm mất đi sự
tự do sáng tạo của học sinh mà vẫn đảm bảo sự hợp lí trong khi sử dụng màu, đó
mới là điều cơ bản của việc dạy học môn Mĩ thuật mà giáo viên cần lưu tâm.
Ví dụ: Chủ đề 2 - Sắc màu em yêu.
Học sinh có thể vẽ các hình ảnh trong tự nhiên hoặc đồ vật quen thuộc quanh
em và sau đó phối màu đỏ, lam, vàng với các màu khác để bức tranh thêm sinh
động.

Hình 2: Tranh vẽ về con vật của học sinh lớp 1

7


2.2.4. Gợi ý học sinh chỉ các màu sắc có trong bức tranh, màu nào được sử
dụng nhiều, màu nào ít sử dụng trong bức tranh đó:
Ở trường hợp này có thể tổ chức cho học sinh học theo nhóm. Thông qua hoạt
động nhóm học sinh ham thích tìm được những màu vẽ có trong tranh, các em cảm

nhận được cái hay, cái đẹp thông qua việc sử dụng màu sắc mà mình hay các bạn
tìm ra...
Ví dụ: Sau khi trình bày giới thiệu, đánh giá sản phẩm.
Giáo viên hướng dẫn học sinh thuyết trình về sản phẩm của mình, của bạn:
- Bức tranh trên có những màu nào?
- Màu sắc như thế nào?
- Có đẹp không? Em thích bài nào? Vì sao?

Hình 3: Tranh vẽ về thiên nhiên của học sinh lớp 1
2.2.5. Phát huy năng lực sáng tạo và khả năng độc lập của học sinh:
Dạy Mĩ thuật phải phát triển ở các em những năng lực quan sát, so sánh, đối
chiếu, phân tích, tổng hợp, suy nghĩ độc lập sáng tạo trong học tập, để các em tìm
ra được cái mới, cái đẹp và cảm thụ được nó.

8


Mục tiêu của dạy học lấy học sinh làm trung tâm là tôn trọng nhu cầu tiềm
năng của học sinh, chuẩn bị cho học sinh sớm thích ứng với đời sống xã hội, hoà
nhập và phát triển cộng đồng. Giáo viên là người tổ chức điều hành, học sinh là
người thực hiện, học sinh tự giác, chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình,
được tham gia đánh giá và đánh giá lẫn nhau.
2.2.6. Tổ chức cho học sinh các trò chơi học tập:
Trò chơi học tập là trò chơi có nội dung trí thức gắn với hoạt động của học
sinh, gắn với nội dung bài học. Thông qua trò chơi giúp các em biết vận dụng linh
hoạt những kiến thức đã học vào cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày; tạo cho các em
tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát hơn, sáng tạo hơn nhằm thích nghi với mọi tình
huống xảy ra trong học tập cũng như trong cuộc sống hàng ngày.
Ví dụ:
- Tổ chức hát các bài hát liên quan đến chủ đề.

- Trò chơi đây là ai.
- Trò chơi ai nhanh hơn ai khéo hơn.
- Trò chơi ghép tranh…
- Trò chơi đoán màu từ chữ cái đầu.
2.2.7. Liên hệ với thực tiễn cuộc sống:
Tri thức của môn học đều được chắt lọc từ cuộc sống và trở lại phục vụ cho
cuộc sống, cho nên trong dạy học cần liên hệ bài học với thực tiễn tạo cho học sinh
sự liên tưởng, gây thói quen quan sát, so sánh, móc nối giữa cái đang học và cái đã
có trong cuộc sống, hướng các em đi tìm cái đẹp cho mai sau.

9


Để vận dụng biện pháp này có hiệu quả đòi hỏi giáo viên cần suy nghĩ, tìm tòi,
phân tích tổng hợp, yêu nghề và hứng thú với bộ môn.
Biện pháp này giúp học sinh tự bổ sung nhận thức và phát huy óc tưởng
tượng, khả năng tư duy, sáng tạo cho các em. Trang bị cho các em những hiểu biết
cần thiết để vận dụng vào cuộc sống. Như là cảm nhận được màu sắc đẹp ở viên
gạch lát nền của lớp học, hình vẽ, hoạ tiết ở tờ giấy khen... hay sự cảm nhận tinh tế
với màu sắc của thiên nhiên khi thể hiện qua các bài văn miêu tả sau này, thiết thực
hơn nữa có thể chọn màu sắc trang phục, đồ dùng cá nhân cho phù hợp với con
người...
Ngoài những biện pháp trên còn phải vận dụng các phương pháp giáo dục
chính khoá và ngoại khoá để giáo dục, hướng dẫn học sinh phân biệt các màu sắc,
những màu đậm, những màu nhạt, vẽ màu từ đơn giản đến phức tạp để vận dụng
vào các bài tập thực hành một cách có hiệu quả.
- Đánh giá phân tích kết quả qua các bài thực hành của học sinh của học sinh
lớp 1.
- Quá trình tư duy của học sinh có vai trò trong việc tiếp thu những tri thức về
môn Mĩ thuật và vận dụng những tư duy của các em dần dần phát triển từ khái quát

đến chi tiết.
- Ở lớp 1, tư duy hình ảnh trực quan còn đơn giản, dễ sai lệch, khi lên các lớp
trên khả năng tư duy hình ảnh trực quan của các em cao hơn, chính xác hơn, đến
lớp cuối cấp khả năng tư duy trừu tượng xuất hiện và hoàn thiện dần. Việc rèn
luyện cách quan sát, nhận xét, kĩ năng chọn màu thích hợp thông qua các bài vẽ

10


tranh, vẽ trang trí, hay xem tranh tôi nhận thấy các em vẽ tốt hơn, không lạm dụng
quá nhiều màu sắc và biết phân định màu sắc tương đối hợp lí . Những biểu hiện cụ
thể:
- Học sinh vẽ màu mạnh dạn biết sử dụng màu có đậm, có nhạt, vẽ màu rất tự
tin không vẽ tuỳ tiện, đơn điệu.
- Biết áp dụng các đường nét đã học để vẽ màu theo ý thích của mình. Mặt
khác cũng thấy được sự hào hứng, say mê khi vẽ bài...
2.2.8. Ứng dụng công nghệ thông tin:
Có thể nói, công nghệ thông tin đã thổi một luồng gió mới vào xu thế đổi mới
quá trình dạy - học. Từ bấy lâu nay, công nghệ thông tin đã giúp cho giáo viên vận
dụng được những phương pháp dạy học một cách linh hoạt và đơn giản, công nghệ
thông tin đã giúp giáo viên thực hiện được những bài giảng để truyền đạt kiến thức
tới học sinh thực sự dễ dàng và hiệu quả.
Đối với môn Mĩ thuật việc sử dụng giáo án điện tử đã đem lại rất nhiều thuận
lợi cho sự hình thành kiến thức về “Hội hoạ” cho học sinh. Nhờ vào phương pháp
áp dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại trong giảng dạy Mỹ thuật mà học sinh được
tiếp cận trực quan hơn.
Phần hướng dẫn tìm hiểu giữ một vai trò quan trọng trong phần bài giảng, giáo
viên sẽ cho các em xem tranh và đặt ra các câu hỏi để các em nhận xét như: Bức
tranh này đẹp hay xấu? Đẹp ở chỗ nào ? Hoạ tiết ra sao ? Bố cục thế nào ? Có
những màu nào trong tranh ? Màu sắc có hài hoà không ?... nhằm giúp các em tự

nhận biết được màu sắc, phân biệt được cái đẹp và có cảm xúc nghệ thuật, thích thú

11


bài học, từ đó hình thành cho các em kỹ năng sử dụng màu sắc để đạt kết quả tốt
nhất.
* Kết quả đạt được: Qua quá trình thực hiện các giải pháp trên, kết quả đã
đạt được qua khảo sát đầu học kì 2 năm học 2018-2019 như sau:
Số
Lớp

Đẹp

Chưa đẹp

SL

%

SL

%

1A

lượng
24

24


100

/

/

1B

24

24

100

/

/

1C

20

20

100

/

/


Tổng
68
68
100
/
/
Tuy thời gian chưa nhiều, song kết quả thu được là rất đáng mừng, số học sinh
làm bài hoàn thành tốt tăng lên rõ rệt. Theo tôi đã là giáo viên thì việc học hỏi, tìm
tòi và sáng tạo trong cách dạy là một nhiệm vụ mỗi ngày của người thầy, hoạt động
đó phải được diễn ra thường xuyên có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao đối với tri thức và đặc biệt đi sâu nghiên cứu biện pháp rèn luyện kĩ năng
sử dụng màu sắc phù hợp cho học sinh lớp 1.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến:
Xuất phát từ mục tiêu giáo theo định hướng năng lực, lấy người học làm trung
tâm, từ nhiệm vụ phải giáo dục thẩm mĩ cho thế hệ trẻ để xây dựng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, việc giảng dạy Mĩ thuật nhằm mục tiêu
giáo dục con người có một tầm quan trọng trong các trường tiểu học nói chung và
trường tôi nói riêng.

12


Những khả năng bước đầu sử dụng màu sắc phù hợp cho học sinh lớp 1 có
phát huy được hết những giá trị giáo dục hay không, còn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố: chủ quan, khách quan, môi trường giáo dục... xác định được vấn đề quan trọng
như vậy, các nhà giáo dục, các thầy giáo, cô giáo, các bậc phụ huynh hãy cùng phối
hợp để khơi dậy những điều tốt đẹp còn tiềm ẩn trong mỗi một con người các em
để phát huy năng lực nhận thức của mình từ khi đang ngồi trên ghế nhà trường. Để

điều đó trở thành hiện thực khi mỗi một chúng ta, nhất là giáo viên dạy học môn Mĩ
thuật cần:
- Kiên trì, chịu khó nghiên cứu bài dạy một cách chu đáo.
- Phải nắm vững nội dung yêu cầu, nhiệm vụ của từng tiết dạy cụ thể, nắm
được đặc điểm tâm sinh lí của của học sinh cũng như khả năng tư duy, sáng tạo của
từng học sinh.
- Phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, tinh thần học hỏi cao để luôn luôn trau dồi
chuyên môn nghiệp vụ.
- Tăng cường làm đồ dùng dạy học, dụng cụ trực quan...
Trên đây là một vài biện pháp của bản thân tôi đã áp dụng thành công trong
những năm học vừa qua. Mặc dầu vậy nhưng không tránh khỏi những hạn chế tồn
tại nhất định rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học nhà trường, Hội đồng
chuyên môn và đồng nghiệp để ngày càng đạt kết quả cao hơn trong dạy học môn
Mĩ thuật.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
3.2.1. Về phía nhà trường:

13


- Nhà trường cần mua thêm tranh, ảnh và vật mẫu cho bộ môn Mĩ thuật.
3.2.2. Về phía Giáo viên:
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
- Ngày càng nâng cao hiệu quả về công nghệ thông tin trong dạy học.
- Không ngừng học tập, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển
năng lực nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.

14



MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU

Trang
1

1.1 Lý do chọn đề tài.

1,2

1.2. Phạm vi áp dụng sáng kiến.

2

2. PHẦN NỘI DUNG

3

2.1.Thực trạng của nội dung nghiên cứu.

3

2.1.1. Đặc điểm tình hình

3

2.1.2. Kết quả thực trạng

4


2.2. Các giải pháp .

4

2.2.1. Thường xuyên quan tâm giáo dục cho học sinh biết yêu
4,5
thích cái đẹp.
2.2.2.Yêu cầu học sinh nhớ tên ba màu cơ bản, biết cách sử dụng
màu sác để vẽ theo ý thích, nhận xét được cảm nhận về sản phẩm của

5

mình và của bạn.
2.2.3. Hướng dẫn học sinh so sánh các mẫu vật thực:

6

2.2.4. Gợi ý học sinh chỉ các màu sắc có trong bức tranh, màu
7
nào được sử dụng nhiều, màu nào ít sử dụng trong bức tranh đó:
2.2.5. Phát huy năng lực sáng tạo và khả năng độc lập của học
8,9
sinh:
2.2.6. Tổ chức cho học sinh các trò chơi học tập:

9,10

2.2.7. Liên hệ với thực tiễn cuộc sống:

10,11


2.2.8 Ứng dụng công nghệ thông tin:

11

3. PHẦN KẾT LUẬN

12
15


3.1. Ý nghĩa của sáng kiến:

12,13

3.2. Kiến nghị - Đế xuất

13

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu hướng dạy học mĩ thuật dành cho giáo viên tiểu học – Nhà xuất bản
giáo dục Việt Nam.
2. Sách dạy Mĩ thuật lớp 1 - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
3. Sách học Mĩ thuật lớp 1 - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
4. Đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học - Nhà xuất bản giáo dục.

16




×