Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN một số biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.37 KB, 24 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. LÍ DO CHỌN SÁNG KIẾN
Như chúng ta đã biết, mục tiêu giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình
thành những cơ bản ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở.
Nền tảng nhân cách, kỹ năng sống, kỹ năng học tập cơ bản (nghe, nói, đọc,
viết và tính tốn) của học sinh được hình thành ở Tiểu học và được sử dụng trong
suốt cuộc đời của mỗi con người. Học sinh tiểu học được dạy từ những thói quen
nhỏ nhất như cách cầm bút, tư thế ngồi viết, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho
đến các kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng giao tiếp, các kỹ năng học tập và khả năng tự
học, sáng tạo. Như vậy, giáo dục Tiểu học là nền tảng của giáo dục phổ thông; đặt
cơ sở vững chắc cho sự hình thành nhân cách và sự phát triển toàn diện của con
người. Thành quả của giáo dục tiểu học có giá trị lâu dài, có tính quyết định, vì
thế, làm tốt giáo dục tiểu học là đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước đặc
biệt trong thời kì Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Tại Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã
khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp Giáo dục và Đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp
dụng phương pháp tiên tiến, phương pháp hiện đại vào quá trình dạy - học”.
Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo theo Nghị quyết
29/NQ-TW, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 29 của Chính phủ và
kế hoạch hành động của ngành giáo dục. Bắt đầu từ ngày 15/10/2014 học sinh
tiểu học được đánh giá theo Thông tư 30/2014/TT- BGDĐT ngày 28/8/2014 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Với những nội dung đánh giá tồn diện trên
ba mặt. Đó là:
- Đánh giá hoạt động học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của học sinh
theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục theo từng mơn học và
hoạt động giáo dục.
- Đánh giá sự hình thành và phát triển năng lực chung của học sinh tiểu học:
tự phục vụ, tự quản; giao tiếp, hợp tác; tự học và tự giải quyết vấn đề.
- Đánh giá sự hình thành và phát triển các phẩm chất: Chăm học, chăm


làm, tích cực tham gia hoạt động giáo dục; tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm;
trung thực, kỉ luật, đoàn kết; yêu gia đình, bạn bè và những người khác.
Để giúp học sinh phát triển toàn diện về kiến thức - kĩ năng, năng lực và
phẩm chất hơn ai hết đó nhà trường. Vì trường học là cái nơi đầu tiên cho mỗi
học sinh bắt đầu cuộc sống và lao động.Trong nhà trường, học sinh được tiếp thu
những tri thức khoa học, những kĩ năng cần thiết để hình thành và phát triển
những phẩm chất tốt đẹp ban đầu của con người mới. Mơi trường giáo dục ln
có tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người thông
qua các mối quan hệ xã hội đa dạng. Trong đó có thể nói đến vai trị tích cực của
người giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm.
1


Ở bậc Tiểu học, công tác chủ nhiệm quyết định rất lớn đến chất lượng giáo
dục của giáo viên đối với học sinh. Làm tốt công tác chủ nhiệm tức là người giáo
viên đã hoàn thành tốt việc giảng dạy các bộ môn và tổ chức giáo dục, rèn luyện
phẩm chất, năng lực cho học sinh. Trong trường Tiểu học, vai trò của người giáo
viên chủ nhiệm hết sức quan trọng đối với học sinh. Bởi vì giáo viên chủ nhiệm
là người thay mặt nhà trường quản lí, điều hành lớp, trực tiếp giảng dạy nhiều tiết
và giáo dục tư tưởng, đạo đức, hình thành nhân cách cho học sinh; là cầu nối
giữa 3 mơi trường giáo dục: gia đình - nhà trường - xã hội.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, cơng tác chủ nhiệm lớp ngày càng
địi hỏi sự dày công của người giáo viên bởi yêu cầu ngày càng cao của xã hội
đang phát triển, bởi tình hình xã hội đang tồn tại những tác động xấu đến học
sinh và bởi sự mưu sinh của gia đình nên khơng ít phụ huynh đã giao phó việc
dạy dỗ, học hành của con cái mình cho nhà trường. Là giáo viên chủ nhiệm lớp
nhiều năm, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong cơng tác giáo dục tồn
diện cho học sinh thông qua làm tốt công tác chủ nhiệm lớp nên tôi chọn sáng
kiến: “Một số biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục, phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 2”. Vấn đề

mà chắc hẳn không chỉ riêng bản thân tôi mà rất nhiều đồng nghiệp khác cũng
quan tâm suy nghĩ với mong muốn là làm sao để phát triển toàn diện về Kiến
thức - Kỹ năng, năng lực, phẩm chất của học sinh theo mục tiêu giáo dục tiểu học
và đây cũng là vấn đề mà phụ huynh và xã hội hết sức quan tâm.
2. ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN
2.1 Phạm vi áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến được áp dụng cho giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học đặc biệt
là giáo viên chủ nhiệm khối lớp 2.
Các tiết học chính khóa, tiết ơn luyện hàng ngày của các phân môn, tiết
sinh hoạt lớp, các tiết hoạt động ngoài giờ của học sinh khối 2 ở trường Tiểu học
đang dạy.
Các buổi hoạt động tập thể, hoạt động Đội - Sao, hoạt động ngoại khố của
tồn trường.
Các buổi họp phụ huynh học sinh của lớp.
2.2 Điểm mới của sáng kiến:
Làm tốt công tác chủ nhiệm lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, phát
triển năng năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 2.
Sáng kiến được áp dụng trong năm học 2014 - 2015 khi các trường Tiểu
học trong cả nước triển khai thực hiện Thông tư 30/2014/TT- BGDĐT ngày
28/8/2014 của Bộ giáo dục và Đào tạo.
Việc tổ chức dạy học theo mơ hình trường học mới VNEN đang trong quá
trình thực hiện ở một số trường và một số trường đang tiếp cận với mơ hình
VNEN mức 1 nên cơng tác đổi mới hình thức tổ chức dạy học, thay đổi không
gian lớp học và xây dựng các ban tự quản, ban điều hành... trong lớp cũng mang
tính chất “vừa học, vừa làm”. Trong sáng kiến này, tôi xin đề cập đến những biện
2


pháp để nâng cao chất lượng giáo dục phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh
mà ở đó vai trò của người giáo viên được thay đổi thực sự: họ khơng cịn là người

truyền thụ, giảng giải thậm chí là làm thay mà chuyển sang vai trò là người tổ
chức, người hướng dẫn, trợ giúp cho học sinh. Hoạt động dạy học được thay đổi
cơ bản so với dạy học truyền thống, thể hiện ở hình thức tổ chức lớp học thành
từng nhóm. Học sinh chủ yếu là tự nghiên cứu, hợp tác với bạn và cùng với sự hỗ
trợ của giáo viên để tìm hiểu kiến thức. Bên cạnh hoạt động học tập, các hoạt động
tập thể, hoạt động Đội - Sao, hoạt động vui chơi cũng là nơi để học sinh được phát
huy tốt hơn các kỹ năng sống, các nhóm năng lực và phẩm chất.
2.3 Sáng kiến nhằm giải quyết những vấn đề:
Giúp giáo viên nhận thức đúng đắn tầm quan trọng, cần thiết của việc nâng
cao năng lực, phẩm chất cho học sinh. Đồng thời bước đầu tháo gỡ những vướng
mắc, lúng túng về hình thức, biện pháp hình thành một số năng lực và phẩm chất
cho học sinh. Từ đó cùng các đồng nghiệp tìm ra được một số biện pháp, hình thức
tổ chức hữu hiệu để phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh.
Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội;
giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói
quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật…
Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với mơi trường xung quanh, tự chủ,
độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để
trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.
Giúp học sinh tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống
hằng ngày như: tự chăm sóc sức khỏe, bảo vệ mơi trường và phịng chống các tệ
nạn xã hội… để các em chủ động, tự tin không phụ thuộc hồn tồn vào người
lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình.
Sáng kiến đã được áp dụng cho học sinh khối lớp mình giảng dạy đem lại
kết quả khả quan. Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn và các đồng nghiệp
đánh giá cao và sẽ triển khai cho các khối lớp khác trong nhà trường vào học kì 2
của năm học 2014 - 2015 và những năm học sau.

3



II. PHẦN NỘI DUNG
1. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NĂNG LỰC, PHẨM CHẤT
CỦA HỌC SINH CHƯA TỐT

1.1 Thực trạng:
Phương pháp giảng dạy, hình thức tổ chức dạy học và giáo dục ở các
trường Tiểu học của nước ta đã quan tâm đến việc phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên còn mang tính bộ phận và hình thức,
đơi khi cịn áp đặt, gị bó, chưa quan tâm lắng nghe tâm tư nguyện vọng của
học sinh. Việc đánh giá, sửa sai cho học sinh cịn có biểu hiện khắt khe, thiếu
dân chủ, chủ yếu là giáo viên nhận xét, đánh giá. Bởi vậy học sinh cịn có
những khiếm khuyết về nhân cách như: rụt rè, thụ động, thiếu tự tin vào bản
thân, không dám đề đạt ý kiến, không mạnh dạn thể hiện khả năng của mình.
Trong lúc đó như chúng ta thấy, học tập là một nhu cầu thường trực
của con người trong mọi thời đại. Học tập không chỉ dừng lại ở các tri thức
khoa học thuần túy mà còn được hiểu là mọi tri thức về thế giới trong đó có
cả các mối quan hệ, cách thức ứng xử với môi trường xung quanh. Cả năng
lực và phẩm chất cơ bản. Năng lực tự phục vụ, tự quản; giao tiếp, hợp tác và
tự học, tự giải quyết vấn đề cùng các phẩm chất như Chăm học, chăm làm;
Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm về bản thân; Trung thực, kỉ luật, đồn
kết; u gia đình, bạn bè và những người khác; yêu trường lớp, yêu quê
hương, đất nước...
Chương trình học hiện nay đang gặp phải nhiều chỉ trích do quá nặng
nề về kiến thức trong khi những tri thức vận dụng cho đời sống hàng ngày bị
thiếu vắng. Hơn nữa, người học đang chịu nhiều áp lực về học tập khiến cho
khơng cịn nhiều thời gian cho các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội.
Điều này dẫn đến sự “xung đột” giữa nhận thức, thái độ và hành vi với
những vấn đề xảy ra trong cuộc sống.
Thông tư 30/2014/TT- BGDĐT mới được ban hành nên bước đầu sự tiếp cận,

thực hiện trong việc giáo dục đánh giá học sinh của giáo viên còn nhiều bỡ ngỡ.
Qua thực tế giảng dạy ở lớp 2, bản thân tôi nhận thấy năng lực của các
em còn nhiều hạn chế. Chỉ một số ít học sinh có hành vi, thói quen, phục vụ
bản thân và giao tiếp đơn giản. Còn phần lớn các em cịn thụ động trơng chờ
vào sự giúp đỡ của bố mẹ, thầy cô trong học tập cũng như trong ăn uống, vệ
sinh cá nhân hàng ngày. Các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa
có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh chưa mạnh
dạn thể hiện khả năng của bản thân. Các em cịn ngại nói, ngại viết, rụt rè
trước đám đông, trước tập thể, khả năng tự học, tự xử lý tình huống, tự tìm
tịi, khám phá, năng lực tổ chức, điều hành hoạt động tập thể còn hạn chế.
Qua tiến hành khảo sát ( lần 1) ở lớp 2 tôi đang chủ nhiệm đầu năm
học với chủ đề “Năng lực và phẩm chất của em”; kết quả như sau:

4


Về năng lực:
* Tự phục vụ - Tự quản:

Thực hiện tốt việc Thực hiện khá tốt việc
Chưa biết thực hiện
Tổng số phục vụ học tập và phục vụ học tập và phục việc phục vụ học tập
phục vụ bản thân
vụ bản thân
và phục vụ bản thân
HS
SL
%
SL
%

SL
%
29
3
10,3
9
31,1
17
58,6
*Về giao tiếp - Hợp tác

Mạnh dạn, nói rõ Có hình thành năng lực Cịn rụt rè, chưa trình
Tổng số ràng, biết nhìn vào giao tiếp nhưng trình bày bày rõ ràng nội dung
người đối thoại
chưa rõ ràng
giao tiếp
HS
SL
%
SL
%
SL
%
29
2
6,9
10
34,5
17
58,6

* Về tự học và giải quyết vấn đề:

Biết tự học, tự giải
Chưa biết tự học còn
Bước đầu biết tự học song
trông chờ sự giúp đỡ
Tổng số quyết vấn đề học
cịn thụ động
tập
của cơ giáo và bạn bè
HS
SL
%
SL
%
SL
%
29
3
10,3
12
43,4
14
48,3

Tổng số
học sinh
29

Về phẩm chất:

Chăm học, chăm làm, tham gia hoạt động nhóm lớp...
Chăm học, biết cách lắng Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra
nghe, hợp tác trong nhóm
khỏi nhóm
SL
%
SL
%
12
41,4
17
58,6

Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm
Tự tin, biết chịu trách nhiệm Còn rụt rè, chưa mạnh dạn nhận lỗi và
Tổng số
trước việc mình làm.
sửa lỗi
học sinh
SL
%
SL
%
29
10
41,5
19
65,5

Tổng số

học sinh

Trung thực, kỉ luật, đoàn kết
Chấp hành nội quy trường lớp
Chấp hành nội quy trường, lớp chưa tốt, còn cãi nhau, chưa thân
tốt, ứng xử hài hòa, vui vẻ với thiện với bạn bè.
bạn.
5


29

SL
16

%
55,2

SL
13

%
44,8

Yêu gia đình, bạn bè và những người khác
Biết thể hiện lịng kính trọng thầyChưa biết thể hiện tình cảm, thái
Tổng số cô giáo, yêu quý ông bà, bố mẹ,độ với thầy cô, ông bà bố mẹ,
học sinh quan tâm đến mọi người...
còn thờ ơ với bạn bè
SL

%
SL
%
29
15
51,7
14
48,3
Kết quả trên cho thấy, số học sinh có năng lực, phẩm chất tốt cịn ít và
số học sinh có năng lực cần thiết phục vụ cho học tập, sinh hoạt của bản thân
chưa tốt cịn nhiều. Chính vì vậy mà việc nâng cao năng lực, phẩm chất cho
học sinh là vấn đề mà tơi rất quan tâm. Để học sinh có được những năng lực
cần thiết phục vụ cho bản thân và những phẩm chất của con người mới người
giáo viên cần phải làm gì? Nhất là những người làm cơng tác chủ nhiệm vì
nhà trường là nơi tốt nhất để hình thành nhân cách phát triển các năng lực cơ
bản cho học sinh. Đây cũng chính là câu hỏi mà bản thân cần phải tìm tịi
nghiên cứu. Từ những thực trạng trên thơi thúc bản thân tìm ra ngun nhân
dẫn đến tình trạng “Học sinh có năng lực, phẩm chất hạn chế ” là do đâu? để
từ đó tìm ra biện pháp nâng cao năng lực, phẩm chất cho học sinh.
1.2. Nguyên nhân:
Hiện tượng học sinh Tiểu học, nhất là học sinh lớp 2 chưa biết tự học, tự
chuẩn bị sách vở đồ dùng học tập, còn em ngơ ngác, lúng túng, rụt rè khi phải
xử lí những tình huống của cuộc sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu
bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng kiến và dễ nản chí ngày càng nhiều.
Nguyên nhân do đâu? Phải khẳng định rằng, trước hết do giáo dục. Nhiều vấn
đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ chưa được cập nhật, bổ sung vào
chương trình giáo dục nhà trường. Việc định hướng sai các giá trị là nguyên
nhân gây ra những hiện tượng đáng tiếc trong ứng xử của trẻ. Phương pháp
giáo dục nhồi nhét, lí thuyết khơng tạo được cho trẻ khả năng tư duy, óc phân
tích, suy xét, phán đốn, khơng tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm những vấn đề

thực trong cuộc sống hiện đại…Cụ thể:
a. Đối với giáo viên:
Trong thực tế hiện nay, việc nhận thức tầm quan trọng, cần thiết rèn kĩ
năng tự phục vụ, tự quản, giao tiếp hợp tác... cho học sinh ở một số giáo viên
còn hạn chế. Qua thăm dò, khảo sát ý kiến thực tế cho thấy một số giáo viên
lúng túng cả về cách thức, biện pháp nâng cao năng lực cho học sinh. Nhận
thức của nhiều giáo viên cịn chủ quan với lí do học sinh lớp 2 cịn bé nên
chưa thể tự mình giải quyết các nhiệm vụ học tập một cách chủ động hoàn
toàn và giao tiếp thì chỉ ở mức độ đơn giản vì khả năng ngơn ngữ và vốn từ,
vốn hiểu biết cịn có hạn. Bởi vậy nên nhiều giáo viên thường làm thay việc

6


cho học sinh do đó khơng thể tìm ra được biện pháp, hình thức tổ chức hữu
hiệu để giúp học sinh nâng cao năng lực, phẩm chất của mình.
b. Đới với học sinh:
Trong nhà trường ít nhiều vẫn cịn có hiện tượng học sinh học tập một cách
thụ động, ỷ lại vào thầy cô, bố mẹ và hiện tượng học sinh cãi nhau, chửi nhau,
đánh nhau, chưa lễ phép, gây mất đoàn kết trong tập thể lớp, làm việc riêng trong
lớp...
Các em học sinh khi học ở lớp Một, chỉ quen được các anh chị lớp trên
giúp đỡ lên làm quen với mơi trường lớp 2, các em cịn rụt rè, thụ động chưa
quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến, chưa xông xáo thực hiện
các hoạt động Đội - Sao. Khi phát biểu, các em nói khơng rõ ràng, trả lời trống
khơng, khơng trịn câu và ít nói lời cảm ơn, xin lỗi với cơ giáo, bạn bè. Do các
em ít nói lời cảm ơn, xin lỗi với cô giáo, bạn bè nên khi đến trường cơ giáo
hướng dẫn, nhắc nhở thì thấy ngại ngùng, bỡ ngỡ nên ngại nói. Nhiều em đến
trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em khơng có người trị chuyện, chia sẻ ...
c. Đới với phụ huynh học sinh:

Về phía các bậc cha mẹ các em ln nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ
chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, chưa viết, hoặc chưa biết làm
Tốn thì lo lắng một cách thái q! Ngồi ra, một trở ngại nữa là trong lớp có
một số phụ huynh quá nuông chiều con, cung phụng con cái khiến trẻ khơng có
kĩ năng tự phục vụ trải nghiệm cho bản thân. Ngược lại một số phụ huynh vì bận
nhiều cơng việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết…
Tóm lại qua thực tế giảng dạy ở trường nhiều năm, bản thân nhận thấy năng
lực của học sinh chưa tốt là do những nguyên nhân cơ bản sau:
- Giáo viên và người lớn chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh. Chưa
lắng nghe tâm tư của các em, chưa gần gũi để hiểu con trẻ.
- Việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất qua việc đổi mới tổ chức
các hoạt động học tập trên lớp còn hạn chế.
- Phát triển năng lực cho học sinh qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động
giáo dục, vui chơi còn chưa sâu sát.
- Giáo viên chưa tạo điều kiện, cơ hội và chưa khuyến khích trẻ thể hiện
năng lực của mình để điều chỉnh giúp các em.
- Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinh cịn ít.
- Cơng tác tun truyền các bậc cha mẹ cùng phối hợp thực hiện để hình
thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho các em các chưa nhiều. Nhiều người
có suy nghĩ chưa đúng về phát triển năng lực cho trẻ em. Đa số chỉ chú trọng
chăm sóc về kiến thức, ăn uống hàng ngày còn cho rằng năng lực là tự bản thân
các em nhìn nhận và tiếp thu qua cuộc sống hằng ngày.
2. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC, PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC, PHẨM CHẤT CHO HỌC SINH LỚP 2

2.1. Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh
Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết thân thiện giữa
học sinh và giáo viên chủ nhiệm, bản thân đã sắp xếp thời gian để giáo viên giới
7



thiệu cho học sinh về mình với những kỉ niệm đẹp trên ghế nhà trường. Đặc biệt
dành nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về các em với bạn bè, động
viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai
cũng như mong muốn của mình. Đây là hoạt động giúp cơ trị hiểu nhau, đồng
thời tạo một mơi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự trở thành ngôi
nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia
đình". Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp
của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một mơi trường mà
giáo viên ln gị bó và áp đặt và có khoảng cách với các em.
Tiếp theo trong tuần đầu, bản thân tôi đã cho học sinh tự do lựa chọn vị trí
ngồi của mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em:
mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay khơng
thích...Và tiếp tục qua những tuần học sau, tôi chú ý quan sát những biểu hiện về
thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu
có điều chỉnh phù hợp.
Ngay tuần học đầu tiên tơi đã tranh thủ tìm hiểu hồn cảnh gia đình, đặc
điểm tâm sinh lí của từng em, từ đó hiểu các em, gần các em hơn tạo ra bầu
khơng khí thân mật gần gũi, để các em có được niềm tin yêu.
2.2. Thành lập Hội đồng tự quản, các Ban và các nhóm; xây dựng nội quy,
nề nếp lớp,
Khác với trước đây, ban cán sự lớp do giáo viên cử và hoạt động theo các yêu
cầu của giáo viên. Bây giờ áp dụng mơ hình dạy học VNEN mặc dù trường tôi mới
thực hiện ở mức 1 nhưng tôi đã mạnh dạn thay đổi ban cán sự lớp thành “Hội đồng tự
quản”. “Hội đồng tự quản” được thành lập là vì học sinh, do học sinh và các em được
chủ động tự quản trong các hoạt động của lớp. Để có một “Hội đồng tự quản” theo
đúng ý nghĩa của nó tơi đã hướng dẫn tổ chức học sinh xây dựng kế hoạch một cách rõ
ràng. Kế hoạch bầu “Hội đồng tự quản” nêu rõ mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng
tham gia, thời gian tiến hành. Trong đó tổ chức bộ máy gồm: 01 Chủ tịch Hội đồng tự
quản, 02 phó Chủ tịch Hội đồng tự quản và các ban tham gia Hội đồng tự quản ( Ban

học tập; Ban quyền lợi học sinh; Ban đối ngoại; Ban Thư viện; Ban văn nghệ - thể
thao; Ban nề nếp - vệ sinh). Sau đó tơi lần lượt thực hiện từng bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị Bầu cử:
Tôi định hướng cho các em rõ Hội đồng tự quản là tập hợp những bạn có
trình độ học tập tốt, nhanh nhẹn trên mọi cơng việc, có phẩm chất đạo đức tốt, tự
tin, mạnh dạn và thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tiếp theo tôi cho học sinh
lập danh sách ứng cử và bầu cử để bỏ phiếu Hội đồng tự quản. Ban kiểm phiếu
cũng là đại diện học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên tiến hành bỏ phiếu và
kiểm phiếu. Các học sinh trong danh sách ứng cử và đề cử sẽ có thời gian để
chuẩn bị phần ứng cử của mình với nội dung: giới thiệu về bản thân, những mong
muốn của em về lớp học và những việc em sẽ làm nếu em là thành viên trong Hội
đồng tự quản. Qua hoạt động này tôi thấy mình đã tạo cho các em cảm thấy dân
chủ, bình đẳng và học được cách thuyết trình trước đám đông.
Bước 2: Bầu cử:
8


Tôi hướng dẫn một học sinh điều hành Bầu cử. Các ứng cử viên lần lượt
tranh cử bằng bài giới thiệu đã chuẩn bị. Ban kiểm phiếu làm việc sau khi các
ứng cử viên diễn thuyết xong. Hội đồng tự quản được lấy theo phiếu từ cao
xuống thấp. Học sinh nào có số phiếu cao nhất là Chủ tịch rồi đến Phó Chủ tịch.
Hội đồng tự quản ra mắt trước lớp sau khi ban kiểm phiếu thông báo danh sách
trúng cử.
Bước 3: Thành lập các ban:
Cùng với việc thành lập Hội đồng tự quản (HĐTQ) tôi tổ chức cho các em
thành lập các Ban chuyên trách. HĐTQ tổ chức cho các thành viên trong lớp
được tự do tham gia vào các ban. Các em có thể ghi tên mình vào mảnh giấy
hoặc các hình ảnh mà các em thích rồi dán vào ban mình đăng kí. Sau đó HĐTQ
sẽ lựa chọn trưởng ban tùy theo theo năng lực, sở trường và sở thích từng bạn để
chọn phù hợp. Ví dụ học sinh có năng lực học tập tốt, hăng hái, mạnh dạn tham

phát biểu xây dựng bài, biết chia sẻ kết quả học tập cùng bạn...thì bầu làm trưởng
Ban học tập các em hay học sinh thích văn nghệ, thể thao, có năng khiếu Âm
nhạc, khả năng trình diễn thì bầu làm trưởng ban Văn nghệ - thể thao. Học sinh
thích đọc sách, báo thì bầu làm trưởng Ban thư viện...
Có thể nói, q trình thành lập Hội đồng tự quản giúp học sinh hiểu được
quá trình bầu cử tự do, công bằng và dân chủ; giúp học sinh nảy sinh những ý
tưởng mới của chính các em. Thơng qua hoạt động này học sinh tự giác hơn, phát
huy tinh thần trách nhiệm, sáng tạo trong quản lý và chỉ đạo những công việc
được giao.
Sau khi đã thành lập HĐTQ và các Ban, tôi hướng dẫn Hội đồng tự quản
thực hiện các nhiệm vụ, kĩ năng như người thầy thứ hai:
Trước hết là xây dựng nội quy, nề nếp lớp học (ngay từ đầu năm học) qua
ý kiến của mỗi học sinh đề đạt. Sau đó thống kê lại để có nội quy chung. Ví dụ:
nề nếp ra vào lớp, chuyên cần, đúng giờ giấc, chăm chỉ học tập như học bài,
chuẩn bị đầy đủ dụng cụ, sách vở trước lúc đến lớp, soạn đúng sách vở theo thời
khóa biểu. Nề nếp giữ vệ sinh trường lớp, thói quen bỏ rác đúng nơi quy
định...Vì nề nếp đó là do các em đề ra nên các em dễ nhớ, dễ thực hiện và dễ
kiểm tra, nhận xét lẫn nhau.
Tiếp theo tôi triển khai cụ thể nhiệm vụ, chức năng tới tất cả các thành
viên trong HĐTQ. Chủ tịch HĐTQ có nhiệm vụ quản lí, điều hành tồn bộ hoạt
động của lớp, có trách nhiệm phân cơng, giao nhiệm vụ và đơn đốc các Phó chủ
tịch, các trưởng ban sau mỗi giờ học, ngày học. Giám sát, nắm bắt đầy đủ mọi
tình hình của lớp để có đánh giá, nhận xét từng điểm mạnh, điểm yếu qua mỗi
ngày học sau đó báo cáo giáo viên chủ nhiệm. Các phó chủ tịch Hội đồng phụ
trách theo dõi, đôn đốc, giúp đỡ các bạn thực hiện các nhiệm vụ được phân cơng.
Ví dụ: nếu phụ trách về học tập thì hàng ngày cùng với Ban học tập kiểm tra việc
chuẩn bị đồ dùng học tập, sách vở...của các bạn...Hay nếu được phụ trách về nề
nếp thì cùng trưởng Ban nề nếp - vệ sinh theo dõi việc thực hiện nề nếp ra vào
9



lớp, xếp hàng đầu giờ, cuối giờ và tham gia sinh hoạt giữa giờ...để nhắc nhở điều
chỉnh các bạn thực hiện tốt hơn.
Bên cạnh đó tơi cịn hướng dẫn cho HĐTQ một số kĩ năng giám sát, điều
hành lớp hoạt động.
- Kĩ năng giao nhiệm vụ: Tôi hướng dẫn HĐTQ một số câu, lệnh mẫu khi
giao nhiệm vụ cho nhóm, lớp thực hiện. Yêu cầu câu lệnh phải ngắn gọn, rõ ràng,
dễ hiểu. Ví dụ: yêu cầu hoạt động này đã rõ xin mời các bạn làm việc!; Xin mời
các bạn đánh giá, nhận xét kết quả. Mời bạn A chia sẻ cách đọc hay cho các bạn
trong nhóm....
- Kĩ năng quan sát: Đây là một kĩ năng rất quan trọng, quyết định tới hiệu quả
làm việc của HĐTQ lớp học. Trong mỗi giờ học hay trong một hoạt động nào đó Chủ
tịch hội đồng, các Phó Chủ tịch, trưởng ban cần theo dõi sao, chặt chẽ, bao quát được
hành động, việc làm của mỗi thành viên trong lớp. Nắm được bạn này, bạn kia đang
làm gì? Có làm việc lớp giao cho khơng? Tích cực hay thờ ơ? thì ghi chép lại để làm
minh chứng cho đánh giá, nhận xét về các năng lực như tự quản, tự phục vụ, hợp tác
với bạn hay phẩm chất chăm học, chăm làm...Để HĐTQ làm tốt việc này tôi đã chú ý
bố trí chỗ ngồi cho các thành viên trong HĐTQ thích hợp ( thường là ở nhóm sau cùng
hướng mặt lên bảng lớp hoặc là dãy bàn hai bên hướng mặt vào trung tâm lớp) có như vậy
các em vừa học bài của mình vừa quan sát được tất cả các bạn trong nhóm, trong lớp.
- Kĩ năng hướng dẫn, nêu vấn đề, giúp đỡ, hỗ trợ: HĐTQ tự quản kiểm
tra, giám sát, động viên, đôn đốc các bạn phát huy tốt tính tự học, tự giác, tự trao
đổi, tự giải quyết vấn đề. Hướng dẫn các thành viên trong HĐTQ quan sát thấy
bạn khó khăn vấn đề gì thì hỗ trợ, giúp đỡ.
Tuy nhiên qua quan sát thì ở 5 tuần đầu sau khi thành lập HĐTQ một số thành
viên trong HĐTQ đã giúp đỡ bạn bằng cách báo luôn kết quả cho bạn viết. Tôi đã kịp
thời điều chỉnh bằng cách hướng dẫn các em nêu vấn đề bằng các câu hỏi phụ. Đây là
một kĩ năng khó địi hỏi học sinh phải có năng lực và có thời gian rèn luyện.
Kĩ năng nhận xét đánh giá: Để các thành viên trong HĐTQ có được kĩ
năng này tơi đưa ra những câu nhận xét mẫu và hướng dẫn các em học hỏi cách

làm của cô. Câu nhận xét cần ngắn gọn, rõ ràng, đúng ý, nhẹ nhàng, cởi mở và
thiện cảm để kích thích hứng thú, niềm tin cho bạn giúp bạn tiến bộ. Có thể nhận
xét như: “Hơm nay bạn học rất tốt tuy nhiên nếu bạn cố gắng một chút nữa thì
thật tuyệt vời” hay “ Bạn cố lên chúng mình sẽ hỗ trợ cho bạn”...
- Vì là học sinh lớp 2 nên các em còn hạn chế về vốn từ, khả năng diễn đạt
chưa lưu loát và đặc biệt các em còn rụt rè nên ban đầu bản thân tôi đã phải tiếp
sức, huấn luyện rất nhiều cho HĐTQ. Trong đó có thay đổi bầu lại một số thành
viên trong Hội đồng tự quản vì các em làm chưa tốt. Tuy nhiên nếu hội đồng tự
quản làm tốt, hết học kì 1 giáo viên cũng có thể cho bầu lại để cho nhiều học sinh
có cơ hội được tập làm lãnh đạo. Những học sinh đã làm tốt rồi tôi khen ngợi và
động viên các em làm cố vấn cho các bạn mới được bầu vào Hội đồng tự quản
mới. Như vậy, nhiều học sinh được phát huy năng lực và sở trường của mình.
10


2.3 Đổi mới tổ chức lớp học, trang trí lớp học:
Lớp học là “hạt nhân” trong “Mơ hình trường học mới Việt Nam”. Bàn ghế
không kê theo kiểu truyền thống mà được bố trí lại để học sinh ngồi theo nhóm,
phù hợp với sự tương tác giữa các bạn trong nhóm và giáo viên.
Ngay từ đầu năm học tơi đã chủ động tham mưu với Đại diện Hội cha mẹ
học sinh kết hợp với cha mẹ học sinh và các em để trang trí lớp học theo hướng
tiếp cận theo mơ hình trường học mới. Xung quanh lớp học được trang trí các
phương tiện hỗ trợ học tập như: Góc học tập của em, tủ đựng sách báo, hộp
thông tin “Những điều em muốn nói”, bảng thơng tin “Ngày em đến lớp”, bảng
“Nội quy lớp học”, “Hộp thư cá nhân”,… Tất cả đã tạo nên một không gian và
môi trường học tập thân thiện. Góc học tập là nơi để các đồ dùng học tập của học
sinh và các vật dụng để làm đồ dùng trực quan trong các môn học. Các vật dụng
này không cố định mà được thay đổi, linh động theo kế hoạch dạy học. Giáo viên
cần huy động cả học sinh và phụ huynh tham gia chuẩn bị các đồ dùng học tập để
góc học tập trở nên phong phú và phục vụ tốt cho việc học của các em. Đây cũng

là nơi để trưng bày những sản phẩm học tập, những bài văn hay, những trang vở
đẹp của học sinh. “Hộp thư cá nhân”, “Điều em muốn nói” là nơi để học sinh
được bày tỏ cảm xúc, chia sẻ những tâm sự của mình với bạn bè, với thầy giáo,
cô giáo. Giáo viên hướng dẫn học sinh dùng giấy hoặc bìa cứng để gấp những
phong bì thư, trên đó có ghi tên học sinh, ngày sinh và sở thích rồi dán vào bảng
“Hộp thư cá nhân” của lớp. Giáo viên nên giải thích kỹ cho học sinh về mục đích
của hộp thư. Đây là cơng cụ giúp học sinh được bày tỏ ý kiến của mình, có thể là
những tình cảm, cảm nhận, mong muốn, đề nghị hoặc bất cứ điều gì các em
muốn nói về thầy cô, cha mẹ,…Hay mỗi khi một thành viên trong lớp có hành
động đẹp, có kết quả học tập tiến bộ hay hành động chưa tốt…các học sinh khác
có thể viết thư cho vào phong thư của bạn đó để khen ngợi hoặc nhắc nhở. Giáo
viên khéo léo tâm sự với HS để nghe các em chia sẻ những cảm xúc của mình
đối với bạn bè, sau đó gợi ý để học sinh viết thư cho bạn hoặc viết thư bỏ vào
hộp thư “Điều em muốn nói” . Cách làm này đã giúp học sinh thân thiện, quan
tâm đến nhau nhiều hơn. Các em có ý thức hơn khi học tập cũng như khi tham
gia các hoạt động để nhận được nhiều lời khen ngợi từ phía các bạn và cô giáo.
Đối với Hội đồng tự quản khi nhận được thư ở hộp thư “Điều em muốn nói” cần
phải đọc để biết phản hồi từ phía các bạn để có hướng điều chỉnh cho phù hợp
với nhu cầu chung và nội quy của lớp. Nếu những việc các bạn bày tỏ mà Hội
đồng tự quản không giải quyết được thì phải nhờ tới sự can thiệp của giáo viên.
Ngồi ra, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh trang trí “Góc sinh nhật” để tạo sự
vui tươi trong lớp học. Giúp HS biết cách quan tâm đến bạn, biết cách tổ chức
những buổi lễ nho nhỏ. Giáo viên cùng học sinh dùng giấy A0 để vẽ cây hoa có
12 bông hoa, mỗi bông hoa là một tháng trong năm. Trên các bơng hoa ghi tên
những bạn có ngày sinh nhật trong tháng đó. Góc sinh nhật giúp cả lớp biết sắp
đến ngày sinh nhật của bạn nào để tổ chức sinh nhật cho bạn. Việc tổ chức không
11


cần cầu kì. Học sinh có thể tổ chức một chương trình văn nghệ, trị chơi…và nói

những lời chúc mừng bạn. Chính những hoạt động này đã góp phần giúp học
sinh phát huy tốt hơn năng lực tự quản của mình.
2.4. Nâng cao năng lực, phẩm chất của học sinh qua các tiết sinh hoạt lớp,
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động tập thể, vui chơi, hoạt động
ngoại khoá...
Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, bản thân đã phát động
các phong trào: “Nói lời hay làm việc tốt” qua cách ứng xử lễ phép như biết đi
thưa về trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cảm
ơn khi được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè, lễ phép với thầy cô và những
người lớn tuổi,... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp. Bản thân học cách lắng
nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng những tình cảm, cử
chỉ yêu thương của mình khi u cầu điều gì đó với học sinh. Tránh hành hung,
nói nặng lời để các em bớt đi tính hung hăng. Đối với những học sinh nghịch
ngợm, mắc lỗi cần giúp các em nhận ra lỗi sai và tạo cơ hội cho các em sửa
sai. Bởi vì học sinh hoang nghịch hay cá biệt dù cho có khó giáo dục đến đâu đi
chăng nữa thì bên trong các em vẫn luôn tiềm ẩn những nhân tố, những phẩm chất
tích cực nếu có phương pháp đúng chúng ta vẫn khơi gợi để làm thức tỉnh các em.
Để giúp học sinh rèn khả năng giao tiếp, hợp tác có hiệu quả bản thân cịn
vận dụng thơng qua các hoạt động ngồi giờ học, các buổi ngoại khóa của
trường, lớp. Trong các tiết hoạt động ngoài giờ, giáo viên lồng ghép cho các em
thực hành kĩ năng sống theo những bài học trong sách Thực hành Kĩ năng sống
dành cho học sinh lớp 2 mà Bộ giáo dục vừa xuất bản tháng 9/2013. Tập trung
vào các bài: Lắng nghe và nghe thấy; Ai cũng yêu quý em; Chuẩn bị bài thuyết
trình; Thuyết trình đồng đội; Tương tác hội trường; Tinh thần hợp tác; Kĩ năng
phân cơng hay hồi bão cuộc đời...Qua đó giúp các em luyện các kĩ năng nghe
và lắng nghe, yêu quý và quan tâm đến những người xung quanh, tự tin khi giao
tiếp trước đông người, biết tương tác khi giao tiếp để tạo sự thân thiện và thuyết
phục người đối thoại. Đặc biệt là đưa ra các tình huống để các em thể hiện tinh
thần hợp tác, kĩ năng phân công nhiệm vụ khi làm việc...
Trong các buổi hoạt động ngoại khoá của trường, của Liên đội giáo viên

cũng phối hợp cùng các lực lượng trong nhà trường tạo cơ hội để các em thể hiện
khả năng của mình.
Ví dụ: Nhân ngày lễ Chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20-11. Đội đã
phát động phong trào thi làm báo tường giữa các Chi đội và Sao nhi đồng trong
toàn trường. Bản thân đã hướng dẫn các em cùng sưu tầm bài và viết bài, vẽ
tranh và trang trí báo. Qua hoạt động này rèn cho các em nhiều kĩ năng như: trình
bày, trang trí,…các em rất nhiệt tình, đồn kết và hợp tác nhau rất tốt. Kết quả là
tờ báo “Ước mơ tuổi thần tiên” của lớp đã đạt được giải nhất.
Hoặc trong các buổi sinh hoạt Đội dưới cờ do Liên đội tổ chức, tháng 11
vừa qua, lớp tôi được phân công đảm nhận chương trình sinh hoạt với nội dung
“Liên hoan hát dân ca hò khoan Lệ Thủy”. Đây là hoạt động hết sức mới mẻ
trong năm học này nhưng tôi đã hướng dẫn chỉ đạo lớp tham gia tích cực và đã
tạo được ấn tượng tốt trong toàn thể cán bộ GV và HS trong trường. Qua hoạt
12


động này phần nào đã tạo cho các em có một sân chơi bổ ích, các em có cơ hội
để trải nghiệm, để khẳng định mình khi tự bản thân các em vừa phải đảm nhiệm
vai trò của một MC, vừa đảm niệm vai trị là những diễn viên nhí để thể hiện
xuất sắc một chương trình “Hát dân ca - Hị khoan Lệ Thủy” khá cơng phu do
lớp đảm nhiệm. Nhờ vậy mà các em đã mạnh dạn tự tin hẳn lên và chủ động thực
hiện tốt các phong trào hoạt động mà Nhà trường và Liên đội đề ra.
Hoặc trong các tiết sinh hoạt lớp, sinh hoạt Sao nhi đồng, dưới sự hướng
dẫn kĩ càng và sự phân công rõ ràng cho từng thành viên trong HĐTQ cũng như
các ban. Tiết sinh hoạt lớp đã trở thành một “Hội nghị” của các em. Các em đã
mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình một cách chân thật, hồn nhiên. Tốt xấu, hay dở
đã được các em bộc lộ rõ ràng, dứt khốt. Đặc biệt trong đợt bình bầu danh hiệu
học sinh cuối học kì I vừa qua, dưới sự hướng dẫn kĩ càng về các thiêu chuẩn thi
đua, các em đã bình bầu sơi nổi khách quan và tương đối chính xác.
Trong những tiết học chính khóa, hay trong các hoạt động NGLL, hoạt

động cao điểm của Liên đội, tôi đã thiết kế và tổ chức cho các em tham gia các
trị chơi học tập nhằm tạo khơng khí “Chơi mà học - Học mà chơi” giúp HS có
sự say mê hứng thú trong học tập và kĩ năng tự giải quyết vấn đề, đồng thời giúp
các em kĩ năng hợp tác, học tập lẫn nhau một cách chủ động, sáng tạo. Khơng
những thế, bản thân cịn khuyến khích các em cùng chia sẻ những cảm nhận,
những suy nghĩ, những quan sát của mình với cơ với bạn một cách thoải mái, tự
nhiên khơng gị bó, áp đặt. Hoặc ở những giờ sinh hoạt lớp, giờ ra chơi bản thân
cùng các em tham gia những trò chơi dân gian, trị chơi giúp các em phát triển trí
tuệ (Cờ vua, Ơ ăn quan, mèo đuổi chuột, kéo co)…Ngồi ra, tơi cịn tranh thủ
hướng dẫn Ban thư viện tìm những loại sách báo hay phù hợp với lứa tuổi với
chương trình học để đọc cho các em nghe trong mọi tình huống như những lúc
sinh hoạt đầu giờ hoặc trong giờ sinh hoạt lớp. Tăng cường kể cho các em nghe
các câu chuyện cổ tích, câu chuyện trong bài tập đọc, bài thơ,…để qua đó rèn
luyện phẩm chất cho các em, giúp các em hồn thiện mình, dạy các em kính
trọng thầy cơ giáo, u q tự hào về gia đình, ơng bà, bố mẹ; thương u anh
chị em, đồn kết với bạn bè, yêu thương con người. Tạo hứng thú cho các em
qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tị mị, ham học hỏi, phát
triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang
trí lớp học xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, bản thân đã
hướng dẫn các em ý thức giữ gìn vệ sinh các nhân, giữ gìn sách vở. Đặc biệt
hướng dẫn các em cùng cơ giáo trang trí bảng lớp học thân thiện, chăm sóc bồn
hoa cây cảnh trong nhà trường và giáo dục các em biết bảo vệ của công.
Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các
em có ý thức cao trong việc nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện các năng
lực, phẩm chất có hiệu quả là bản thân ln chú ý đến công tác động viên, khen
thưởng học sinh qua biện pháp sau.
2.5. Động viên, khen thưởng:
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt nhiệm vụ học tập các
mơn học và có tiến bộ trong các mặt rèn luyện năng lực, phẩm chất ngay từ buổi

13


họp phụ huynh đầu năm học bản thân đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các em lớp
mình phụ trách. Trao đổi với Ban Đại diện cha mẹ học sinh lớp cùng phối hợp và
dành một khoản quỹ riêng để khen thưởng kịp thời động viên các em để tạo cho
các em có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện và phát huy hơn nữa. Bản
thân theo dõi thường xun, các em có biểu hiện tốt thì ghi vào sổ Nhật kí hằng
ngày, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt
sẽ được gắn một bông hoa lên bảng tên của mình trong nhóm. Vì vậy, các em thi
đua nhau “ nói lời hay, làm việc tốt” và cuối tuần nào cũng có rất nhiều em được
bơng hoa.
Cuối học kì, bản thân đã tổng kết và cùng Ban đại diện Hội cha mẹ học
sinh khen thưởng những em đã đạt nhiều Bông hoa việc tốt trên tất cả các mặt
bằng những phần quà nhỏ với những câu khen ngợi rất tình cảm như: Em đã
hồn thành tốt nội dung học tập các mơn học; Em đã có nhiều tiến bộ trong
tham gia hoạt động học tập với nhóm; Em đã tiến bộ nhiều khi biết chia sẻ kết
quả học tập với bạn hay Em đã có ý thức giúp bạn cùng tiến ...Tơi cố gắng phát
hiện và tìm ra điểm tốt, điểm tiến bộ dù nhỏ nhất của các em để khen ngợi nhằm
phát huy mặt tích cực của các em. Qua đó tơi thấy các em rất vui và hãnh diện
khi được nhận những món q của cơ giáo tặng. Vì thế các em khơng ngừng thi
đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông hoa mà cơ giáo thưởng. Đây
là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh
nhẹn hơn, có phẩm chất tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong
cuộc sống.
2.6. Giáo viên tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy các em các năng
lực, phẩm chất cơ bản
Ngay từ phiên họp phụ huynh học sinh đầu năm tôi đã triển khai các nội
dung đánh giá học sinh theo Thông tư 30/TT-BGD ĐT và những yêu cầu của đổi
mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo mơ hình trường học mới VNEN

cho phụ huynh nắm để tạo sự đồng thuận, đồng lịng, đồng sức trong kết hợp giáo
dục tồn diện con em mình. Cụ thể:
Phụ huynh và các thành viên trong gia đinh phải gương mẫu, yêu thương,
tôn trọng, đối xử công bằng với các em và đảm bảo an toàn cho các em.Tạo điều
kiện tốt nhất cho các em vui chơi.
Cơ giáo, cha mẹ ln khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình,
nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những
lựa chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thơng số để theo đó mà lựa
chọn, cố gắng khơng chỉ trích các quyết định của các em. Việc này sẽ hình thành
kĩ năng tự kiểm sốt bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi tham gia các
hoạt động và các buổi thảo luận tại trường sau này.
Cô giáo, cha mẹ giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm
bảo rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện ý
thích đó bằng hoạt động trải nghiệm thực tế. Không nên bao quát hết tất cả các
cơng việc mà các em thích làm và có thể làm được.
Ví dụ: Một số học sinh thích vẽ, ngồi việc cho các em học năng khiếu vẽ
thì cơ giáo, cha mẹ có thể cho các em thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho các
em cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính các
14


em hoặc triển lãm tranh của các em ở góc nhỏ trong nhà, trong lớp. Hay học sinh
thích văn nghệ thì tạo điều kiện để các em được tham gia các lớp bồi dưỡng thêm
để các em có đủ tự tin biểu diễn trên sân khấu trong những ngày lễ lớn của
trường tổ chức: 20/11; 26/3; Văn nghệ “ Mừng đảng - Mừng xuân”;...
Cô giáo, cha mẹ cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống,
biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; Cụ thể: Các em được làm quen với
những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch
sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ
dùng, vật dụng, thái độ ăn uống từ tốn, không vội vã, khơng khí cởi mở, thoải

mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố
trên sẽ giúp các em có thói quen tốt để hình thành kĩ năng tự phục vụ và ý nghĩa
hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
2.7 Giáo viên và các bậc phụ huynh cần tạo cơ hội cho trẻ thể hiện năng lực
của mình.
Trong giảng dạy giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học với
nhiều hình thức khác nhau phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh, nhất là
trong việc hợp tác với bạn để tìm ra kiến thức. Bản thân đã vận dụng phương
pháp dạy học VNEN trong các tiết dạy, đưa lại hiệu quả trong giảng dạy.
Bên cạnh đó trong các cuộc họp phụ huynh học sinh và các cuộc gặp gỡ
phụ huynh giáo viên trao đổi để phụ huynh cùng hợp tác trong việc nâng cao
năng lực, phẩm chất cho các em. Cụ thể là tạo cơ hội để trẻ thể hiện kĩ năng sống
của mình mọi lúc, mọi nơi và tin tưởng ở trẻ.
Giáo viên có thể kể cho phụ huynh nghe những mẩu chuyện thường xảy ra
trong cuộc sống hằng ngày mà phụ huynh khơng để ý vơ tình hạn chế khả năng
rèn kỹ năng sống của trẻ và làm tổn thương đến các con.
Ví dụ: Câu chuyện về tâm sự của một con trẻ mà giáo viên đã đọc trong
Tạp chí giáo dục kĩ năng sống của trường Tiểu học Chu văn An, đó là:
“Hơm ấy gia đình mình có khách, mình lễ phép chào khách rồi hồ hởi
giúp bố lấy phích rót nước pha trà để bố mời khách. Thấy vậy, bố vội cản:
- Con ra ngoài chơi đi, để bố làm cho. Con làm không khéo nước sơi đổ cả
người đấy!
Mình tiu nghỉu ra sân chơi. Thế là mình đã mất đi một cơ hội để trải
nghiệm.
Tối đến, sau bữa cơm chiều, mình nhanh nhẹn lấy dĩa trái cây mẹ để bên
bàn ăn với ý định dùng dao gọt vỏ mấy quả táo và bổ cam mời cả nhà ăn tráng
miệng. Mình vừa cầm dao mẹ đã lên tiếng:
- Để mẹ làm cho, đứt tay đấy con ạ! Vậy là một lần nữa mình lại mất đi
cơ hội trải nghiệm. Mình thật buồn khi mình đã lớn nhưng bố mẹ cứ xem
mình hãy là đứa bé học Mầm non.”

Từ câu chuyện trên, giáo viên và phụ huynh cùng thảo luận để thấy được
trong cuộc sống hàng ngày các bậc cha mẹ cần tạo mọi điều kiện để con trẻ thực
hiện kỹ năng tự lập, tự phục vụ của mình, giúp các em tự tin và bản thân, chủ
động trong cuộc sống và không lệ thuộc, ỷ lại vào người lớn.
Giáo viên cũng trao đổi để phụ huynh thấy, các em học sinh lớp 2 mặc dù
chưa lớn nhưng các em đã làm quen với môi trường Tiểu học năm thứ 2 nên khi
15


đưa con đến trường phụ huynh nên dừng lại cách cổng trường một khoảng để các
em tự tin bước vào trường, vào lớp. Ở nhà, phụ huynh cần khuyến khích, tạo cơ
hội cho các em làm những công việc phục vụ bản thân như tự tắm rửa, tự ăn
uống, tự đánh răng rửa mặt thường xuyên, tự mặc quần áo, trang phục khi đến
lớp, tự sắp xếp sách vở theo thời khóa biểu hay nhận làm giúp bố mẹ làm việc
nhà tùy theo sức của mình. Khi các em làm cần chú ý quan sát để điều chỉnh và
nên nhớ là khích lệ các em để các em tự tin hăng hái thể hiện mình. Tránh trường
hợp con làm sai thì la mắng hoặc khơng cho làm nữa như vậy làm cho trẻ mất đi
cơ hội để trải nghiệm thực tế, có lối sống thụ động và khó tiến bộ.
*Các phương pháp nghiên cứu để thực hiện các giải pháp trên:
Nghiên cứu lí luận:
- Nghiên cứu Thơng tư 30/2014/TT- BGDĐT; Nghị quyết 29/NQ-TW
- Tìm hiểu tài liệu Hỏi - Đáp về mơ hình, phương pháp dạy học VNEN.
- Tìm đọc các tài liệu về tâm lí lứa tuổi học sinh Tiểu học.
- Tìm đọc tài liệu có liên quan đến việc hình thành và phát triển năng lực cho học
sinh.
Nghiên cứu thực tế:
+ Khảo sát thực tế học sinh: Qua hai đợt (đầu năm và cuối học kì 1)
+ Phương pháp quan sát:
Quan sát hoạt động tự quản, ý thức tự phục vụ ( Xem các em đã chuẩn bị sách
vở, đồ dùng học tập như thế nào, ý thức giữ gìn sách vở, vệ sinh các nhân ra sao...)

Quan sát hoạt động giao tiếp, hợp tác trong học tập ( Xem các em có mạnh
dạn phát biểu xây dựng bài, đã mạnh dạn trao đổi với cô giáo hay chia sẻ với bạn
bè chưa? Có kĩ năng làm bài hay khơng?...)
Quan sát hoạt động vui chơi (Thích trị chơi nào, thái độ trung thực hay gian lận
khi tham gia trò chơi, đã biết giải quyết các vấn đề nảy sinh trong hoạt động chưa?).
Quan sát hoạt động giao tiếp với mọi người xung quanh (Thái độ khi nói
chuyện với bạn bè, cách xưng hô với thầy cô giáo, với người lớn tuổi, hành vi
tốt/ xấu với mọi người…).
+ Sử dụng phương pháp thực hành: Phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh
thông qua các hoạt động để học sinh thể hiện, thực hành, luyện tập, tự cảm nhận,
đánh giá, nhận xét qua các hành vi và từ đó hình thành các kĩ năng; thực hiện sự
phối hợp trong và ngồi nhà trường, làm tốt cơng tác “xã hội hóa” trong việc
giáo dục năng lực, phẩm chất
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm giáo dục
Phân tích các nguyên nhân dẫn đến học sinh có năng lực, phẩm chất hạn chế.
Tổng hợp các biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm khối lớp Hai trong
nhà trường và các biện pháp giáo dục của nhà trường.
* Trên đây là một số phương pháp tiêu biểu mà tôi đã áp dụng trong sáng kiến kinh
nghiệm này. Vì mỗi phương pháp đều có cái hay, cái tích cực nên trong quá trình áp
dụng thực hiện nếu chúng ta áp dụng đúng phương pháp trong từng thời điểm thích
hợp thì hiệu quả đạt được rất tốt.
Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng rèn cho
học sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học
16


sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt
xử lí trong mọi trường hợp.
Việc nâng cao năng lực và giáo dục phẩm chất cho học sinh qua học tập sinh hoạt ở nhà trường là điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Để đạt
được điều đó, giáo viên cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục

trong suốt quá trình giảng dạy.
Qua từng tiết dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh kĩ năng làm việc theo
nhóm: biết cách phân cơng cơng việc, lắng nghe ý kiến người khác, tranh luận,
biết chấp nhận đúng sai, thống nhất ý kiến, thực hiện đúng ý kiến đã thống
nhất… Đây là kĩ năng hết sức cần thiết khi các em trưởng thành, làm việc trong
tập thể.
Trong sinh hoạt hằng ngày, giáo viên cần chú ý nâng dần kĩ năng giao tiếp tự nhận thức cho các em như biết sử dụng đúng các quy tắc: chào hỏi, xin phép,
cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu… Biết cảm thông, chia sẻ buồn vui với mọi người. Đặc
biệt trẻ tiểu học thường hay bắt chước người lớn và rất tin tưởng ở các thầy giáo,
cơ giáo. Vì vậy, mỗi giáo viên cũng phải luôn thường xuyên tự rèn kĩ năng giao
tiếp ứng xử của mình ln thể hiện là tấm gương trong sáng, mẫu mực cho học
sinh noi theo.
Trong tổ chức các hoạt động lao động cần chú ý vừa sức với học sinh: vệ
sinh sân trường, lớp học, trồng chăm sóc cây trên sân trường, bồn hoa, vườn
trường... học sinh được rèn một số kĩ năng như: cầm chổi quét, hốt rác, tưới cây,
tỉa lá,... thơng qua đó học sinh biết sử dụng có hiệu quả đồ dùng lao động.
Hình thành và phát triển năng lực, rèn phẩm chất đạo đức cho mọi người nói
chung và học sinh nói riêng là điều rất cần thiết. Nó trang bị đầy đủ những kĩ năng
cho các em để các em có được cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đồng thời giúp các
em từ bỏ thói quen xấu, hành vi tiêu cực để trở thành con ngoan, trị giỏi và là người
có ích cho xã hội sau này.
3. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN

Qua khảo sát lần 2 ở lớp 2B (cuối học kì 1) với chủ đề “Năng lực và phẩm
chất của em” kết quả so với đầu năm thì các em tiến bộ rất nhiều. Cụ thể như sau:
Về năng lực:
* Tự phục vụ - Tự quản:

Thực hiện tốt việc Thực hiện khá tốt việc
Chưa biết thực hiện

Tổng số phục vụ học tập và phục vụ học tập và phục việc phục vụ học tập
phục vụ bản thân
vụ bản thân
và phục vụ bản thân
HS
SL
%
SL
%
SL
%
29
12
41,4
14
48,3
3
10,3
*Về giao tiếp - Hợp tác

17


Mạnh dạn, nói rõ Có hình thành năng lực Cịn rụt rè, chưa trình
Tổng số ràng, biết nhìn vào giao tiếp nhưng trình bày bày rõ ràng nội dung
người đối thoại
chưa rõ ràng
giao tiếp
HS
SL

%
SL
%
SL
%
29
10
34,5
14
48,3
5
17,2
*Về tự học và giải quyết vấn đề:
Biết tự học, tự giải
Cịn trơng chờ sự
Bước đầu biết tự học song
giúp đỡ của cô giáo và
Tổng số quyết vấn đề học
chưa thật chủ động
tập
bạn bè
HS
SL
%
SL
%
SL
%
29
13

44,8
12
41,4
4
13,8
Về phẩm chất:

Tổng số
học sinh
29

Chăm học, chăm làm, tham gia hoạt động nhóm lớp...
Chăm học, biết cách lắng Chưa tập trung lắng nghe, còn tách ra
nghe, hợp tác trong nhóm
khỏi nhóm
SL
%
SL
%
22
75,9
7
24,1
Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm

Tổng số
học sinh
29

Tự tin, biết chịu trách nhiệm Còn rụt rè, chưa mạnh dạn nhận lỗi và

trước việc mình làm.
sửa lỗi
SL
%
SL
%
24
82,8
5
17,2

Trung thực, kỉ luật, đồn kết
Chấp hành nội quy trường, lớp Chấp hành nội quy trường lớp
Tổng sớ tốt, ứng xử hài hịa, vui vẻ với chưa tốt, còn cãi nhau, chưa thân
học sinh bạn.
thiện với bạn bè.
SL
%
SL
%
29
25
86,2
4
13,8

Yêu gia đình, bạn bè và những người khác

18



Biết thể hiện lịng kính trọng thầyChưa biết thể hiện tình cảm, thái
Tổng số cơ giáo, u q ơng bà, bố mẹ,độ với thầy cô, ông bà bố mẹ,
chưa quan tâm đến người khác
học sinh quan tâm đến mọi người...
SL
%
SL
%
29
26
89,7
3
10,3
Qua việc thực hiện các biện pháp trên, đến cuối học kì I, bản thân nhận
thấy học sinh có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em học sinh mạnh dạn, tự tin, linh hoạt,
sáng tạo, tích cực hơn trong học tập và các hoạt động. Khơng khí học tập trong
lớp tự nhiên, nhẹ nhàng, thân thiện. Giáo viên và học sinh tương tác với nhau
nhiều hơn. Học sinh hứng thú tiếp nhận kiến thức. Các em được phát huy năng
lực tự học, học sinh có nhiều cơ hội độc lập suy nghĩ, bộc lộ ý kiến riêng khi làm
việc cá nhân và có nhiều cơ hội phát huy năng lực hợp tác khi học nhóm. Phát
huy tốt vai trị lãnh đạo, nhiều em thể hiện được khả năng của mình khi điều
hành các bạn. Khả năng giao tiếp, ứng xử của học sinh tiến bộ hơn nhiều. Học
sinh mạnh dạn tham gia đánh giá quá trình học tập, rèn luyện của mình, của bạn.
Một số học sinh có tính cách nhút nhát đã dần trút bỏ được sự tự ti và trở nên
mạnh dạn, tự tin để thể hiện khả năng của bản thân mình. Việc học tập, sinh hoạt
hàng ngày trên lớp, trong nhiều nghi thức lời nói, các em biết vận dụng những lời
nói thân thiện vào thực tế, những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi, những yêu cầu, đề
nghị lịch sự,... đã trở thành thói quen được các em vận dụng hàng ngày. Các em
rất hăng hái phát biểu trong tiết học và luôn được nhận cờ luân lưu trong tuần.

Cha mẹ học sinh đã hiểu được lợi ích của việc đổi mới hình thức tổ chức dạy
học, đổi mới tổ chức lớp và đổi mới đánh giá ảnh hưởng tiachs cực đối với con
em họ và nhiệt tình hưởng ứng.
Kết quả ći học kì 1
Hoạt động
giáo dục
MƠN HỌC VÀ
HOẠT ĐỘNG GD
NĂNG LỰC
PHẨM CHẤT

Hồn thành
( Đạt)

Chưa hồn thành
( Chưa đạt)

SL
29

%
100

SL
0

%
0

29

29

100
100

0
0

0
0

* Khen thưởng cuối học kì 1:
Số học sinh được khen: 22 em
tỉ tệ: 75,9 %
Khen thưởng toàn diện: 4 em
- tỉ lệ: 13,8%
Khen thưởng hoàn thành tốt nội dung các môn học và khen từng mặt:
18 em
- tỉ lệ: 62,1%

19


III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của sáng kiến:
Chúng ta biết rằng giáo dục là một quá trình tác động qua lại, là quá trình hoạt
động và giao lưu trong các mối quan hệ xã hội đa dạng, được tổ chức có mục đích có
kế hoạch của các nhà giáo dục và người được giáo dục để hình thành nhân cách
hồn thiện trong nhà trường xã hội chủ nghĩa khơng những dạy “chữ” mà cịn dạy
“người.”

Trong cơng cuộc đổi mới hiện nay của đất nước ta, khi yếu tố con người được
coi trọng về tiềm năng trí tuệ cùng với sức mạnh tinh thần. Nhân cách của con người
càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội. Thực tế hiện nay
ngành giáo dục đào tạo đã được nhà nước quan tâm đưa lên quốc sách hàng đầu thì
việc dạy chữ nói chung và việc rèn năng lực, phẩm chất nói riêng là vấn đề đặc biệt
quan trọng. Một nhà hiền triết đã nói “khoa học mà khơng có hành vi đạo đức thì chỉ
là sự tàn rụi của linh hồn”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nói: Có tài mà khơng
có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”. Điều đó
cho thấy năng lực quan trọng nhường nào đối với mỗi chúng ta mà năng lực đó chính
là kĩ năng sống của học sinh. Vì vậy việc thực hiện rèn kĩ năng sống để nâng cao
năng lực cho học sinh là cần thiết biết bao.
Trẻ em trong lứa tuổi tiểu học rất hồn nhiên ngây thơ trong trắng. Vốn kiến
thức, vốn kinh nghiệm sống của các em mới có rất ít. Vì vậy muốn đạt được mục tiêu
giáo dục phát triển toàn diện của nhà trường, các thầy cơ giáo cần phải kiên trì, nhiệt
tình, có tâm huyết với nghề. Bên cạnh kiến thức về chun mơn nghiệp vụ, người
giáo viên phải có vốn kiến thức tâm lý học, hiểu được tâm sinh lý của trẻ, gần gũi, tạo
mối thân thiện với trẻ. Từ đó sẽ tìm ra được những phương pháp hiệu quả để giáo dục
trẻ. Việc dạy “chữ” cần luôn song hành với việc dạy “làm người”, và phải được
xuất phát ngay từ những tình huống, những việc làm nhỏ nhất trong cuộc sống thực tế
của học sinh. Ngay trong những giờ học ngoài việc đảm bảo mục tiêu kiến thức, kĩ
năng của bài, giáo viên cần chú ý đến việc hình thành và phát triển năng lực cho học
sinh qua việc tổ chức hoạt động dạy học, xây dựng Hội đồng tự quản, xây dựng nề
nếp lớp học...Học sinh được nâng cao năng lực, phẩm chất qua nội dung kiến thức
của bài, qua lĩnh hội kiến thức pháp luật, qua tham gia các hoạt động học tập trong
lớp, hoạt động ngoài giờ, hoạt động vui chơi do giáo viên và Liên đội tổ chức. Tích
cực đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, động
20


viên khuyến khích, khen thưởng các em để các em hăng hái tham gia các hoạt động

học tập vui chơi nhằm năng cao năng lực, rèn luyện phẩm chất.
Học sinh được học tập sinh hoạt vui chơi, rèn luyện trong mơi trường gia đình,
nhà trường, xã hội. Vì vậy, cần thực hiện tốt việc gắn kết 3 môi trường để giáo dục học
sinh. Phối kết hợp chặt chẽ với các ban ngành đoàn thể để giúp đỡ, nhất là tư vấn, tạo
điều kiện để phụ huynh hiểu và tạo cơ hội cho học sinh trải nghiệm từ đó các em tích
lũy thêm kĩ năng sống và rèn luyện phẩm chất đạo đức cho học sinh được tốt hơn.
2. Bài học kinh nghiệm
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp đạt hiệu quả cao, đặc biệt là làm
công tác chủ nhiệm trong năm học 2014 - 2015 gắn với đổi mới đánh giá tồn diện
học sinh theo Thơng tư 30 tôi rút ra một số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng
giáo dục, phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 2” như sau:
2.1/ Người giáo viên chủ chiệm cần xác định rõ tầm quan trọng của việc nâng cao chất
lượng giáo dục, phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh trong giai đoạn hiện nay.
2.2/ Giáo viên cần nghiên cứu kĩ hướng dẫn đánh giá học sinh theo Thông tư
30/2014/TT - BGDĐT ngày 28/8/2014 để thấy được tính ưu việt trong cách đánh
giá tồn diện học sinh.
2.3/ Giáo viên dạy Tiểu học cần nắm và hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học
sinh lớp mình chủ nhiệm từ đó ln gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh.
thương yêu và tôn trọng học sinh. Hãy bước vào lớp với nụ cười. Khi học trị chào
hãy nhìn vào mắt từng em để hiểu được tâm trạng của các em: Vui thì chung vui,
buồn thì động viên. Hãy kiềm chế, kiên trì, bình tĩnh và mềm mỏng.
2.4/ Phải xây dựng được một Hội đồng tự quản, thành lập các Ban, các nhóm
trưởng làm nịng cốt, là “cánh tay phải” của mình và hướng dẫn Hội đồng tự quản
đề ra nề nếp, nội quy lớp.
2.5/ Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với giáo viên bộ mơn tích cực đổi mới phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm tạo cơ hội, khuyến khích, động viên, khơi
dậy sự tự tin ở từng em để các em có hướng phấn đấu học tập chủ động, sáng tạo
phát huy năng lực tự học, tự phục vụ, giao tiếp, hợp tác...cho các em. (VD: sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp gợi mở, nêu vấn đề, phương
pháp đóng vai,...; biết lựa chọn phối kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình

thức tổ chức dạy học.).Qua các hoạt động học tập, học sinh được rèn các kĩ năng
phân tích, tổng hợp, tư duy sáng tạo, hợp tác theo nhóm, kĩ năng đánh giá, nhận
xét, kĩ năng hợp tác trong nhóm, kĩ năng xử lý tình huống,...
1.6/ Thường xun tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi tập thể lành mạnh, chơi
các trò chơi dân gian, tổ chức các hoạt động văn nghệ thể thao, qua các hoạt động
rèn cho học sinh kĩ năng ứng xử với bạn bè, xây dựng tinh thần đoàn kết tốt, kĩ
năng lắng nghe, kĩ năng hợp tác, kĩ năng quyết định, biết kiềm chế bản thân trong
khi xử lí các tình huống với bạn bè. Luôn tạo mọi điều kiện để các em có thể bày
tỏ, thể hiện mình, tham gia tốt các buổi hoạt động ngoại khóa của trường, lớp.
1.7/Tổ chức các hoạt động lao động vừa sức với học sinh: vệ sinh sân trường, lớp
học, trồng chăm sóc cây trên sân trường, bồn hoa, vườn trường; học sinh được
rèn một số kỹ năng như: cầm chổi quét, hốt rác, tưới cây, tỉa lá,...; thơng qua đó
học sinh biết sử dụng có hiệu quả đồ dùng lao động.
21


1.8/ Hình thành và phát triển năng lực cho học sinh không phải là công việc “một
sớm, một chiều” mà địi hỏi phải có q trình, kiên nhẫn và bằng cả tâm huyết và ở
mọi lúc, mọi nơi, thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Năng lực các em
khơng đồng đều mà mang tính cá nhân rất đa dạng và mang đặc trưng vùng, miền
đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp với
nhu cầu, trình độ của học sinh và đặc điểm, hoàn cảnh của nhà trường, địa phương.
Cho nên cần tổ chức các cuộc nói chuyện chuyên đề về nâng cao năng lực, phẩm
chất của học sinh cho giáo viên, phụ huynh, cộng đồng và học sinh.
1.9/ Trẻ tiểu học thường hay bắt chước người lớn và rất tin tưởng ở các thầy giáo,
cơ giáo. Vì vậy, mỗi giáo viên cũng phải luôn thường xuyên tự rèn năng lực,
phẩm chất của mình cũng như tác phong sinh hoạt ứng xử mẫu mực để học sinh noi
theo. Đặc biệt phải hết lịng thương u và tơn trọng học sinh. Hãy ln ghi nhớ:
“Học trị khơng phải là một chiếc bình cần đổ đầy kiến thức, các em là những
ngọn đuốc cần được thắp lên”

2.10/ Biết cách phối hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà trường để tổ chức các hoạt
động nhằm cao năng lực, phẩm chất của học sinh qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động
ngoài giờ, hoạt động tập thể, hoạt động Đội - Sao, hoạt động ngoại khố, vui chơi...
Tóm lại chúng ta thấy trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất
nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, là nhân tố để
cây đời mãi mãi xanh tươi. Cho nên việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, bồi dưỡng
trẻ em trở thành công dân tốt của đất nước là một công việc vô cùng quan trọng
mà mỗi giáo viên chúng ta phải cùng có trách nhiệm.
3. Kiến nghị
Là giáo viên, bản thân hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng người. Vì thế,
bản thân ln cố gắng trau dồi sách vở, học hỏi từ đồng nghiệp cũng như đúc kết kinh
nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên môn. Bản thân đã luôn
tôn trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các em được nói, được diễn đạt, bày tỏ
thoải mái ở mọi nơi mọi lúc để các em có cơ hội phát triển một cách tồn diện.
3.1/Về phía nhà trường:
- Tun truyền để phụ huynh không nên coi việc giáo dục con em là việc của nhà
trường của giáo viên chủ nhiệm.
- Các cấp lãnh đạo thường xuyên tổ chức các cuộc thi, các hội thảo về công tác chủ
nhiệm lớp để giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
- Có hình thức khen ngợi các giáo viên làm công tác chủ nhiệm tốt nhằm động viên
khuyến khích họ thực hiện tốt hơn.
- Mở lớp hướng dẫn, nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng để giáo viên có cơ hội
chia sẻ, học tập những bài học hay, những kinh nghiệm tốt, áp dụng vào thực tế, góp
phần thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục giáo dục tồn diện theo Thơng tư 30..
3.2/Về phía phụ huynh:
- Trước hết phụ huynh cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực
phẩm chất cho con em, tạo một chỗ dựa vững chắc để trẻ chia sẻ, bày tỏ tâm tư
nguyện vọng, ý kiến, thái độ của mình
- Ln phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các em,
theo dõi mọi biểu hiện của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ thực hiện kĩ năng sống, năng

lực của mình để có sự giáo dục cho phù hợp.
22


- Quan tâm giáo dục phẩm chất đạo đức cho con em để các em trở thành con
ngoan, trò giỏi đem lại niềm vui, niềm tự hào cho gia đình và xã hội.
Trên đây là những kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn quá trình tổ chức thực
hiện của bản thân về việc nghiên cứu kinh nghiệm “Làm tốt công tác chủ nhiệm lớp
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển năng lực, phẩm chất cho học
sinh lớp 2”. Rất mong được nhận sự giúp đỡ, góp ý bổ sung của Ban giám hiệu
nhà trường, các cấp quản lý giáo dục và các bạn đồng nghiệp để bản sáng kiến có
có tính thực thi cao hơn và có thể áp dụng rộng rãi hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Quảng Bình, ngày 10 tháng 01 năm 2015

23


24



×