Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi hóa học qua một số bài tập hóa học vô cơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.52 KB, 18 trang )

Phát hiện và bồi dỡng học sinh giỏi
hoá học qua một số bài tập hoá học vô cơ

Phần I: mở đầu
Cũng nh bao bộ môn khoa học khác, hoá học là một môn
khoa học có vị trí hết sức quan trọng trong nhà trờng phổ
thông. Môn hoá học đòi hỏi ngời học sinh phải có trình độ hiểu
biết ở mức độ tơng đối cao. Do đó đến cuối cấp II cụ thể là lớp
8 bộ môn hoá học mới đợc đa vào chơng trình học của học sinh
và chơng trình dạy của giáo viên.
Mục đích đa môn hoá học vào dạy ở lớp 8 và lớp 9 góp
phần làm cho các em học sinh phát triển tri thức một cách toàn
diện, có cách nhìn duy vật về thế giới vật chất từ vĩ mô đến vi
mô, nắm đợc và hiểu đợc những khái niệm, những nguyên tắc
chung nhất về hoá học, có những hiểu biết nhất định về một
số ngành sản xuất hoá học, có kỹ năng, kỹ xảo thực hành làm
cơ sở quan trọng cho các em học lên, đi sâu, đi xa vào khoa
học hoá học.
Ngày nay khi toàn Đảng toàn dân, toàn quân ta đang
quyết tâm đa đất nớc theo con đờng Công nghiệp hoá, Hiện
đại hoá đất nớc. Hơn bao giờ hết việc đào tạo một thế hệ trẻ có
đầy đủ năng lực, phẩm chất để đáp ứng đợc nhu cầu phát


triển của đất nớc là một vấn đề sống còn mang tính chất thời
đại. Từ năm học 1993-1994 đến nay Bộ giáo dục và đào tạo đã
tổ choc thi quốc gia chọn học sinh giỏi hoá cấp phổ thông trung
học. Từ năm 1996 đến nay Việt Nam chính thức tham gia vào
các kỳ thi giỏi hoá quốc tế và vinh dự cho Thành phố Hải Phòng
có em : Nguyễn Hải Bình đạt huy chơng vàng về môn hoá học
quốc tế lần đầu tiên ở Việt Nam vào năm 2000. Để có học sinh


giỏi hoá cấp phổ thông trung học quốc gia và quốc tế, sau này
trở thành những ngời gắn bó với hoá học, cống hiến cả đời
mình cho hoá học thì việc phát hiện và bồi dỡng, việc đào tạo
nguồn học sinh giỏi hoá học bậc trung học cơ sở là một việc làm
hết sức quan trọng đối với những ngời giáo viên dạy hoá học.

Phần II: Nội dung
A/- cơ sở lý luận
I/- Đặc điểm tâm sinh lý bậc thcs:
-

Phải nói rằng lứa tuổi học sinh bậc Phổ thông trung học
cơ sở đặc điểm

tâm sinh lý hết sức điển hình đây là thời kỳ quá độ của việc
chuyển giao từ trẻ con sang ngời lớn do đó tạo cho các em một
nhân cách đa dạng phong phú thể hiện ở một số điểm cơ bản
sau đây:
- Hứng thú của các em phát triển ở mức độ cao, hứng thú
về học tập đã xuất


hiện và ngày càng đậm nét. Đây là việc hết sức thuận lợi đối
với việc giảng dạy bộ môn hoá học. Từ việc tò mò thích thú dẫn
tới say mê bộ môn không phải là khoảng cách xa với các em.
-

Bên cạnh đó ý thức tự lập và khả năng tìm tòi đi sâu
khám phá khoa học


là một u điểm điển hình của học sinh bậc trung học cơ sở. Tuy
nhiên việc đi sâu vào bản chất khái niệm, khả năng phân tích,
tổng hợp so sánh của các em không phải lúc nào cũng bộc lộ rõ
nét.
Song song với những u điểm trên các em cũng còn bộc lộ
những nhợc điểm sau: có hứng thú say mê, có niềm khát khao
khám phá chân lý, có lòng yêu khoa học song các em còn rụt rè e
ngại, đôi khi hay nản trí mất lòng tin khi gặp phải công việc
quá khó khăn mà bản thân cha thể giải quyết đợc. Làm thế nào
để có thể khắc phúc đợc những khó khăn đó. Điều quan trọng
nhất: mỗi giảng viên nên thực sự quán triệt nguyên tắc: Tôn
trọng nhân cách học sinh nên tin tởng vào các em, mạnh dạn
giao phó công việc để các em ngày thêm vững vàng lớn khôn
hơn.
II/-Những thuận lợi và khó khăn của việc giảng dạy bộ môn hoá
học ở nhà trờng THCS

Căn cứ vào phân phối chơng trình bộ môn hoá học ở trờng
THCS cùng với đặc thù của bộ môn khoa học này có thể nhận
thấy những thuận lợi và khó khăn trong giảng dạy cũng nh việc
phát hiện và bồi dỡng học sinh giỏi bộ môn.


1/-Thuận lợi:
- Hoá học là khoa học thực nghiệm, là khoa học nghiên cứu
về các chất và
sự biến đổi về các chất. Mặc dù những kiến thức trong sách
giáo khoa viết cô đọng nhng lại gây hứng thú với học sinh đặc
biệt là hệ thống các thí nghiệm làm tăng tính tò mò, ham hiểu
biết của các em. Những hiện tợng hoá học xảy ra trong cuộc

sống hàng ngày của các em để có thể vận dụng kiến thức đã
học hoặc sẽ học để giải thích làm rõ. Đây chính là thuận lợi hết
sức to lớn.
- Điều thuận lợi cơ bản thứ hai cũng chính là xuất phát từ
khả năng tìm tòi,
muốn khám phá khoa học, một đặc điểm nhân cách điển
hình của các em. Với bộ môn hoá học là một môn khoa học tự
nhiên, với chính xác cao của tri thức, tính hợp lý của kiến thức,
tính suy luận và logic chặt chẽ, càng gây tính tò mò, hứng thú
học tập của các em.
- Điều thuận lợi thứ ba là ứng dụng của khoa học hoá học
ngày càng đợc
sử dụng rộng rãi phổ biến trong đời sống, sản xuất trên mọi
lĩnh vực, chính vì vị trí của bộ môn hoá học ngày càng đợc
đề cao. Đây là một trong những điều kiện hết sức thuận lợi để
các em thêm yêu thích bộ môn
2/- Khó khăn:


- Do phân phối chơng trình bộ môn hoá học ở trờng THCS
đã làm hạn
chế về mặt thời gian giảng dạy trên lớp của giáo viên, thời gian
tìm tòi và nghiên cứu của học sinh, trong khi đó yêu cầu của
việc nắm bắt kiến thức lại ở mức độ cao. Đây là khó khăn rất
lớn đòi hỏi phải có sự quyết tâm vợt khó, sự say mê tìm tòi
không quản thời gian của cả thầy cô giáo và học sinh.
- Hoá học là khoa học thực nghiệm gắn lion với thực hành.
Do đó việc
truyền thụ kiến thức hoá học thôi là cha đủ mà quan trọng hơn
là phải giúp học sinh nắm bắt những kỹ năng, kỹ xảo thực

hành. Dựa thêm những hiểu biết về kiến thức vận dụng chúng
vào cuộc sống muôn hình muôn vẻ, trong khi thiết bị thí
nghiệm ở hầu hết các trờng THCS còn nghèo nàn, thiếu thốn, lạc
hậu cha đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của bài giảng và thực tế
yêu cầu đang phát triển của xã hội. Mặt khác việc kiểm tra,
đánh giá kiến thức của học sinh còn nặng nhiều về tính toán,
cha thực sự gắn liền với kỹ năng thực hành thí nghiệm, làm cho
mảng kiến thức ở trờng THCS còn nhiều lỗ hổng. Đây là khó
khăn rất lớn cho việc giảng dạy và đào tạo học sinh giỏi hoá.
Bên cạnh những yếu tố khách quan đã nêu trên thì việc
giảng dạy bộ môn hoá học cha đợc coi trọng, còn bị coi là môn
phụ nên việc dành thời gian cho môn hoá còn ít.
Trên đây là một số thuận lợi và khó khăn trong việc giảng dạy
môn hoá học và việc phát hiện bồi dỡng học sinh giỏi hoá ở trờng


PTCS theo tôi còn có nhiều khó khăn nhng nếu nh mỗi giáo viên
giảng dạy đều xác định đợc mục tiêu giáo dục là: Tất cả vì
học sinh thân yêu và trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai, các
em phảI đợc hởng thụ tất cả những gì tốt đẹp của xã hội thông
qua con đờng học tập. Trớc ngỡng cửa của thời đại mới , thời đại
khoa học phát triển nh vũ bão đã đang thâm nhập vào mọi lĩnh
vực của đời sống. Ngời giáo viên phảI biết tranh thủ sự ủng hộ
của gia đình, nhà trờng làm cho các em say mê nhiệt tình
hứng thú trong môn học thì những khó khăn trên hoàn toàn
khắc phục đợc.
B Quá trình thực hiện
1. Cách phát hiện học sinh giỏi hoá
Do đặc thù của bộ môn hoá học là khoa học thực nghiệm đòi
hỏi các em học sinh nói chung cũng nh các em học sinh giỏi hoá

nói riêng, muốn học giỏi môn hoá học cần có năng lực tiếp thu
kiến thức tốt, có năng lực sáng tạo, khả năng suy luận tốt, khả
năng t duy độc lập trong tình huống khó khăn. Các em phải có
niềm say mê môn học, ham hiểu biết có sức khỏe, đó là những
điều kiện không thể thiếu. Nhng không phải lúc nào các em học
sinh cũng có thể có đầy đủ phẩm chất năng lực đó và nếu có
thì làm thế nào để phát hiện đợc. Trong mỗi chúng ta, ngời nào
cũng có một sở trờng nhất định mà có thể cha đợc thể hiện nh
một mỏ vàng mà không có ngời phát hiện thì cũng không thể
biết đợc giá trị. Chính phơng pháp dạy học nêu vấn đề, đặt
các tình huống đã kích thích đòi hỏi con ngời phải suy nghĩ,


tìm tòi và phát huy sáng tạo. Chính tình huống, vấn đề mà ngời giáo viên đa ra làm nảy sinh nhu cầu cần thiết phảI học hỏi,
phảI suy nghĩ để giảI quyết tình huống một cách hợp lý, khoa
học. Trên cơ sở đó giúp ngời giáo viên phát hiện ra các em có
năng khiếu bộ môn, có phẩm chất năng lực tốt để bồi dỡng
nâng cao khả năng học tập của các em.
II. Cách bồi dỡng học sinh giỏi hoá hoc THCS.
Căn cứ vào kiến thức hoá học lớp 8, 9 có thể chia toán hoá
thành các dạng, các chuyên đề cơ bản sau:


Dạng 1: Toán nồng độ và độ tan

Đây là chuyên đề xuyên suốt quá trình giảI toán hoá. Khi dạy
về chuyên đề này ngoài việc cung cấp cho các em các công
thức tính nồng độ, độ tan thì ngời giáo viên phảI bổ sung
thêm một loại kiến thức nh: Quy tắc đờng chéo, quy luật về
độ tan cho các chất khi hạ và tăng nhiệt độ, tinh thể Hyđrat,

công thức liên quan giữa các loại nồng độ. Việc cung cấp
những kiến thức này cho học sinh không nên gò bó, ồ ạt mà
giúp học sinh nắm đợc bản chất, thấy phảI cần thiết vận
dụng.
Ví dụ cho một bài toán sau:
Bài 1: Hãy tính toán để pha chế 2 lít dung dịch CuSO 4 từ
CuSO4.5 H2O
Để xác định nồng độ của dung dịch này ngời ta làm nh sau:
Cho 12,5g CuSO4.5 H2O vào 87,5 ml nớc. Hãy xác định nồng


độ M của dung dịch pha đợc. Từ đó tính khối lợng riêng của
dung dịch biết D của nớc = 1g/ml, giả sử sự hoà tan không
làm thay đổi thể tích.
Đây là bài toán nồng độ dung dịch dạng đơn giản nhng học
sinh bình thờng hay nhầm khối lợng chất tan ở đây là 12,5
g. Nhng nếu học sinh khá sẽ phát hiện đợc lợng chất tan là
CuSO4.
Bài 2: Hãy nói cách pha 2 lít dung dịch H 2SO4 0,2 M từ dung
dịch H2SO4 95% biết D = 1,84 g/ml.
Với bài tập này giáo viên rèn kỹ năng cho học sinh khi pha một
hoá chất có thể gây nguy hiểm và các tính toán cho nhanh,
hợp lý để lấy một lợng hoá chất đủ, chính xác tức là tính toán
để lấy một lợng thể tích dung dịch H 2SO4 95% là bao nhiêu
đề pha đợc 2 lít dung dịch H2SO4 0,2M
Bài 3: Hãy xác định lợng AgNO3 tách ra khi làm lạnh 2500g
dung dịch AgNO3 bão hoà ở 60o C xuống còn 10o C là 170g
Qua bài tập này củng cố cho học sinh nắm vững kiến thức
về độ tan của một chất có trong dung dịch ở những nhiệt
độ khác nhau và khả năng suy luận t duy toán học.

Từ những kiến thức cơ bản vững vàng và khả năng t duy
tốt, giáo viên có thể đa ra thêm những bài tập ở mức độ cao
hơn nh dạng bài tập sau:
Bài 4: Cho 500g KNO3 bão hoà 20o C có nồng độ 6,5% cho bay
hơI nớc ở nhiệt độ 20o C cho đến khi nhận đợc một phần hỗn


hợp gồm một phần KNO3 kết tinh và một phần dung dịch
KNO3 còn lại có khối lợng là 313g. Tìm khối lợng KNO3 kết tinh.
Đây là một bài tập vừa liên quan tới độ tan vừa liên quan tới
bài toán nồng độ phần trăm, do vậy học sinh phải có kiến
thức tổng hợp, khả năng t duy, lập luận lôgic trên cơ sở khoa
học thì mới giảI đợc



Dạng 2: Toán nhận biết, tách chất.

Loại toán này giúp học sinh hình thành một cách có hệ thống
các tính chất hoá học của từng loại chất cụ thể, rèn luyện khả
năng ứng phó linh hoạt với những tình huống khó, cũng nh
dạng toán 1 thì loại này phảI đợc bồi dỡng thờng xuyên trong
suốt quá trình giảng dạy.
Ví dụ một số bài toán sau:
Bài 1: Làm thế nào để nhận biết đợc 7 chất khí trong các
bình bị mất nhãn ( Cho các điều kiện và hoá chất khác đấy
đủ ) đó là: N2, H2, O2, CO2, C2H4, NO2, CO.
Bài 2: Chỉ dùng một kim loại duy nhất nhận ra dung dịch
AgNO3, NaOH, HCl, BaCl2 đựng trong ống nghiệm không có
nhãn.

Bài 3: Không đợc dùng thêm bất cứ một hoá chất nào khác, nêu
cách nhận biết ra 4 dung dịch CuSO4, Na2SO4, NaOH, H2SO4.


Bài 4 Chỉ dùng H2O và khí CO2 có thể phân biệt đợc 5 chất
bột trắng sau đây hay không NaCl, Na 2CO3, BaCO3, Na2SO4,
BaSO4. Nếu đợc hãy trình bày cách phân biệt.
Bài 5: Cho một hỗn hợp gồm Al2O3, CuO, Fe2O3, dùng phơng
pháp hoá học nào để tách từng chất ra khỏi hỗn hợp.
Qua các bài tập nêu trên với những yêu

cầu, những tình

huống khác nhau từ dễ đến khó nh:
-

Nhận biết bằng thuốc thử cho trớc

-

Tự chọn hoá chất nhận biết

-

Nhận biết các chất khí không dùng hoá chất khác hoặc
dùng ít nhất hoá chất nhất.

-

Nhận biết các chất khi các chất này có mối liên quan với

nhau hoặc là sản phẩm của quá trình sản xuất hoá học

Dạng 4: Toán nhúng kim loại vào dung dịch
muối
Loại toán này phảI dựa trên quy luật tăng , giảm khối lợng
của kim loại ( chất rắn). Tuy nhiên trong quá trình giảng
dạy, cần giúp học sinh nắm bắt đợc bản chất của loại toán
bằng cách đa ra những bài toán làm ví dụ, xuất hiện
nhiều tình huống , vấn đề cần giảI quyết nh:
-

Cho hai kim loại nhúng vào dung dịch có 1 muối, tiến tới
dung dịch có 2 muối

-

Cho hai kim loại vào dung dịch có 2 muối


-

Cho kim loại có tham gia phản ứng với nớc vào dung dịch
muối

Kết hợp với yêu cầu phản ứng xảy ra hoàn toàn, không hoàn
toàn, cho phản ứng ngừng lại. Có nh vậy học sinh mới bị bất
ngờ trong các tình huống khó khăn.
Ví dụ:
a, Cho 32 g bột Cu kim loại vào bình chứa 500 ml dung
dịch AgNO3.1M khuấy đều hỗn hợp để phản ứng xảy ra.

Sau một thời gian cho phản ứng ngừng. Ngời ta thu đợc một
hỗn hợp chất rắn cân nặng 62,2 g và một dung dich Y.
Tính nồng độ M của các chất trong dung dịch Y.
b, Cho thanh kim loại hoá trị II vào dung dich Y ( kim loại
hoạt động mạnh hơn Cu và Ag ). Sau khi phản ứng xảy ra
hoàn toàn đem thanh kim loại cân nặng thì thấy khối lợng của thanh này tăng thêm 7,3 g. Xác định khối lợng
nguyên tử và tên của kim loại hoá trị II đó.
Qua bài toán này củng cố kiến thức cho học sinh phần kim
loại mạnh đẩy kim loại yếu ra khỏi dung dịch muối, toán
nồng độ áp dụng vào phơng trình đồng thời phát hiện ra
đợc những học sinh có khả năng t duy, vận dụng kiến thức
đã học vào bài toán. Cụ thể trong bài này học sinh phảI xác
định đợc khối lợng chất rắn cân nặng sau phản ứng là
62,2g là của chất rắn nào?. Chất tan có ở trong dung dịch
sau khi phản ứng kết thúc là chất gì và khối lợng thanh kim


loại tăng lên 7,3g đấy chính là khối lợng của kim loại nào
bám vào đó? Từ đó học sinh sẽ có cách giải đúng.
Tơng tự nh toán nhận biết thì cách làm loại toán tách chất
cũng vậy, các bài tập cũng đợc nâng dần từ đơn giản
đến phức tạp, từ tách các chất trong hỗn hợp có tính chất
khác nhau đến các chất có trong hỗn hợp có nhiều tính
chất giống nhau hoặc trực tiếp thực hành thao tác trên một
số hoá chất cho phép. Qua các bài tập nh vậy đã giúp học
sinh hiểu sâu thêm kiến thức, phát triển t duy sáng tạo,
cách trình bày khoa học và tính cẩn thận.
Dạng 3: Toán điều chế, viết phơng trình biểu

diễn dẫy biến hoá

Loại toán này giúp các em nắm vững kiến thức cơ bản, khả
năng suy luận, tính lôgic chặt chẽ của từng loại phản ứng khác
nhau, cho điều chế các loại hợp chất một cách linh hoạt
Ví dụ cho một số bài toán sau:
Bài 1: Viết phơng trình theo sơ đồ sau

A1

A2

A3

X

CaCO3

B1

B2

B3


Biết A1 + B1

X ; các chất X, A1, A2, A3, B1, B2, B3 là các chất vô

cơ. Hãy tìm công thức và viết phơng trình biểu diễn dãy
biến hoá trên
Bài 2: Viết phơng trình theo sơ đồ sau

A

O2

+Cu

B

NaOH

C

NaOH

D + HCl

B

+O 2

E

+ H 2O F

B

Bài 3: Từ các nguyên liệu ban đầu là quặng pirit, sắt, muối
ăn, không khí, nớc và các thiết bị cùng những chất xúc tác cần
thiết viết các phơng trình phản ứng điều chế FeSO4,
Fe( OH)3, NaHSO4

Bài 4: Từ muối ăn, lu huỳnh, nớc cùng các điều kiện cần thiết
có thể điều chế

đợc những khí nào?. Viết phơng trình

phản ứng.


Dạng 5: Toán biện luận sục khí CO2, SO2 vào
dung dịch kiềm NaOH, Ca( OH )

2

Đây là loại toán đòi hỏi học sinh có năng lực tiếp thu kiến
thức tốt, nắm bắt các trờng hợp xảy ra, dự đoán, suy luận
để tìm đợc sản phẩm sau phản ứng. Từ bài toán tổng
quát đến những bài tập riêng lẻ. Các em phảI hình thành
đợc hệ thống kiến thức cơ bản chặt chẽ.
Ví dụ: Dẫn khí CO2 vào 1,2 lít dung dịch Ca( OH)2 1,1M.
Quan sát thấy thoạt tiên xuất hiện một muối kết tủa trắng
có khối lợng 5g, sau đó từ từ biến mất.
A, Viết phơng trình phản ứng xảy ra.


B, Tính thể tích của CO2 đã dùng khi phản ứng tạo thành
muối tan. Tính nồng độ M của dung dịch muối tan đó.
Từ các hiện tợng của bài toán, yêu cầu học sinh viết đợc
đúng phơng trình phản ứng xẩy ra dựa vào dữ liệu đầu
bài cho Ca( OH )2


không chỉ phản ứng với CO 2 để tạo

thành muối không tan mà Ca(OH)2 còn tham gia với CO2 để
tạo thành muối tan. Có xác định đúng thì viết phơng
trình mới đúng và mới giảI đúng bài tập đó.


Dạng 6: Dạng tổng hợp
Đây là loại bài toán khó, không chỉ đòi hỏi các em có đầy
đủ kiến thức cơ bản về hoá học mà còn đòi hỏi ở các em
khả năng t duy sáng tạo và kỹ năng giải toán .
Ví dụ: Cho 7g hỗn hợp gồm Fe và Cu vào 500ml dung dịch
AgNO3 khuấy kỹ, sau khi phản ứng kết thúc lọc kết tủa thu
đợc dung dịch A và 21,8 g chất rắn B. Thêm lợng dung
dịch NaOH loãng vào A, lọc kết tủa nung trong không khí
ở nhiệt độ cao đến khi có khối lợng không đổi thu đợc
chất rắn C là 7,6g
A, Tính thành phần % theo khối lợng của Fe và Cu trong A
B, Tính CM của dung dịch AgNO3.
C, Tính thể tích HNO3 2M cần thiết dùng để hoà tan hoàn
toàn 7g A. Biết phản ứng giảI phòng ra NO duy nhất.
Bài toán này muốn giảI đúng, trớc hết các em phải nắm
vững kiến thức hoá học về kim loại mạnh đẩy kim loại yếu


ra khỏi dung dịch muối. Tính chất của muối tác dụng với
kiềm, tính chất của Bazơ không tan khi bị nung nóng,
đặc biệt của Fe(OH)

2


khi bị nung nóng trong không khí sẽ

trở thành Fe2O3 chứ không phảI tạo thành FeO. Bài toán này
đòi hỏi các em khả năng t duy lôgic và xác định đợc lợng
chất rắn còn lại trong dung dịch A là 21,8 gam là của chất
nào và lợng Cu(NO3)2 phải tham gia vào hai quá trình là
một phần tác dụng với Fe, còn một phần tác dụng với NaOH.
Từ đó học sinh mới có cách giải đúng.
Do việc phân phối chơng trình của môn học làm
cho thời gian giảng dạy đội tuyển còn rất nhiều hạn chế,
trong khi đó lợng kiến thức đòi hỏi vừa có chiều rộng và
chiều sâu. Làm thế nào để giải quyết đợc mâu thuẫn
này. Trớc hết ngời giáo viên phải xác định đợc vấn đề dạy
cái gì ? Dạy nh thế nào ? Cụ thế :
1. Dạy lý thuyết
-

Việc dạy tính chất hoá học của các loại oxít, axit, bazơ,
muối, tính chất của kim loại, phi kim .. đòi hỏi phải theo
một hệ thống chuyên mục cụ thế, bởi ở đối tợng học
sinh giỏi khả năng tổng hợp và khái quát của các em ở
mức độ cao hơn so với học sinh trung bình. Tuy nhiên
việc dạy phần lớn kiến thức

này cần tránh áp đặt,

thông báo ồ ạt, bỏ qua thí nghiệm làm giảm hứng thú
học tập và khả năng khắc sâu kiến thức của các em.



-

Để dạy tôt mảng kiến thức về định luật, khái niệm,
tính chất hoá học, cần giúp học sinh thấy đợc bản chất
của từng định luật, biết giải thích vận dụng một cách
linh hoạt sáng tạo, các em thấy cần thiết phải học, phải
đọc để hiểu biết thêm.

-

Song song với hai mảng kiến thức trên thì việc giảng dạy
về kỹ năng, kỹ xảo thực nghiệm, khả năng vận dụng
kiến thức của học sinh vào việc giảI thích các hiện tợng
hoá học trong cuộc sống là một phần không thể thiếu
đợc. Để dạy tốt đợc mảng này đòi hỏi

ngời giáo viên

trong quá trình giảng dạy cần phải giúp các em nắm
đợc các thao tác thí nghiệm , cách lắp ráp, sơ đồ điều
chế, các dụng cụ và hoá chất cụ thể sau đó có thể
nâng dần mức độ kiến thức bằng cách đa ra hệ thống
các câu hỏi gợi mở đòi hỏi các em phải động não.
Ví dụ: Có thể đặt ra câu hỏi nh sau
+ Dụng cụ và sơ đồ này dùng để điều chế chất
gì ? Tại sao phải lắp đặt nh vậy?.
+ Ngoài dùng để điều chế khí A còn dùng sơ đồ
trên để điều chế khí nào? Trong những trờng hợp đó hãy
lắp đặt lại sơ đồ thí nghiệm, dụng cụ điều chế và giải

thích.
Rút ra những kết luận quan trọng của thí nghiệm trên, từ
đó giúp các em vững vàng hơn về kiến thức, rèn luyện đ-


ợc tính cẩn thận, tính khoa học, tin tởng vào kiến thức đã
học.
2.Dạy bài tập
Nh đã hệ thống ở trên trong quá trình giảng dạy bài tập
hoá học cho các em học sinh giỏi nên áp dụng dạy theo hệ
thống chuyên đề, trên cơ sở nắm vững nền tảng lý
thuyết, chú ý tới kiến thức toán học, tránh gò bó hoặc đa
ra các bài toán không phù hợp với các em. Muốn vậy ngời
giáo viên phải có hệ thống các bài tập đợc sắp xếp từ dễ tới
khó, từ những bài tập đơn giản tới những bài tập cần có sự
tổng hợp, khái quát và sáng tạo. Những bài tập này có thể
chọn lọc từ những đề thi học sinh giỏi, các sách tham khảo
hoặc tự giáo viên có thể ra đề cho phù hợp.
2.

Yêu cầu, kiểm tra, đánh giá học sinh.

Song song với quá trình giảng dạy bồi dỡng của giáo viên
thì vấn đề kiểm tra đánh giá trình độ nhận thc của học
sinh cũng nh yêu cầu đối với các em trong đội tuyển là
một vấn đề hết sức quan trọng. Chính vì vậy giáo viên
cần phảI có kế hoạch kiểm tra định kỳ với các em, có thể
kiểm tra vấn đáp hoặc trắc nghiệm hoặc làm bài viết với
thời gian 90 phút, 120 phút hoặc 150 phút. Qua kết quả
bài làm giúp giáo viên nắm đợc trình độ và khả năng tiếp

thu của từng em trong đội tuyển. Đồng thời với việc kiểm
tra, giáo viên cần chú trọng tới giao công việc cho các em từ
bài đọc thêm đến bài tập trong sách nâng cao. Đây phải


là hoạt động thờng xuyên giữa giáo viên với học sinh. Tuy
nhiên không nên đòi hỏi quá cao ở các em, làm giảm đi
hứng thú của các em với bộ môn.

Ngời viết:
Đơn vị



×