Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM_ PHÁT HIỆN VÀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.72 KB, 24 trang )


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHÁT HIỆN VÀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI THCS
A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Như chúng ta đã biết, thể kỷ XXI là thế kỷ của tư duy, của tài năng khoa
học. Việc phát triển kinh tế xã hội ở trình độ cao không còn con đường nào
khác, con đường phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dung người người giỏi.
Đã đến lúc tài nguyên quáy giá nhất là trí tuệ con người, bở lẽ kỹ thuật có thể
nhập cảng, khoa học có thể học tập, vận dụng, giúp đỡ nhau. Nhưng trí tuệ, tài
năng không thể không thể nhập cảng. Vì tầm vóc mang ý nghĩa thời đại, vấn đề
phát triển học sinh năng khiếu, tài năng sẽ thực sự góp phần phát triển nguồn
nhân lực quý giá cho đất nước.
Ở trong mọi thời đại, nhân tài luôn là tài sản vô giá của mỗi quốc gia, dân
tộc, nhân tài là kho báu của cả nhân loại… Ngay từ thời trung đại Việt Nam ông
cha ta đã khẳng định "Hiền tài là nguyên khí quốc khí quốc gia" (1470). Cái
"khí" - cái "hồn" - sự vững mạnh của một quốc gia có hay không, nhiều hay ít
đầu tiên phải nói đến, đó là nhân tài.
Nhưng, nhân tài - người tài - người giỏi (thời học sinh phổ thông các em
phải là những học sinh giỏi), không phải tự nhiên sinh ra đã có. Quan niệm mới:
"Thiên tài là 80% trí thông minh cộng với 20% mồ hôi và nước mắt". Như vậy
yếu tố bẩm sinh di truyền chiếm 80%, còn 20% còn lại đó là sự khổ luyện thành
tài. Sự khổ luyện ấy, trong thời đại nào cũng phải gắn với nhà trường, gắn với
người thầy đáng kính. Nhà trường chính là vườn ươm nhân tài, là "trang sách
đầu tiên của chiếc nôi văn hoá nhân loại" (Xu - Khôm - Lin - Xki - "Giáo dục
con người chân chính như thế nào"). Sẽ không có học sinh giỏi, không có nhân
tài, nếu không có sự giáo dục chân chính, không có công giáo dục bồi dưỡng
học sinh giỏi của các nhà sư phạm tài năng.
Bước sang thế kỷ XXI - thế kỷ của nền văn minh trí tuệ - thế kỷ của nền
kinh tế tri thức - đòi hỏi chúng ta phải đào tạo nên những thế hệ trẻ có đầy đủ trí
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.


1

tuệ, để thể hiện sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta đủ
sức hội nhập và phát triển cùng thế giới. Vì vậy, việc bồi dưỡng nhân tài - việc chỉ
đạo và bồi dưỡng học sinh giỏi được đặt ra ở mức cấp thiết.
Trong những năm gần đây, vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục trở thành
một vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Để đánh giá chất lượng dạy và học ở các
trường phổ thông, một trong những tiêu chí được ngành giáo dục đặc biệt coi trọng
đó là số lượng và chất lượng học sinh giỏi đạt được hàng năm của trường. Chính vì
vậy, bên cạnh việc nâng cao chất lượng đại trà thì việc phát hiện và bồi dưỡng học
sinh giỏi đang là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các trường phổ thông.
Với những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài này để nghiên cứu về
thực trạng và tìm ra giải pháp chỉ đạo bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường phổ
thông trung học cơ sở.
II. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
- Đánh giá thực trạng việc bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THCS Bình
Sơn – Anh Sơn.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng
học sinh giỏi ở trường THCS nói chung, trường THCS Bình Sơn nói riêng.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
- Nghiên cứu những biện pháp chỉ đạo việc phát hiện và bồi dưỡng học
sinh giỏi.
- Phạm vi đề tài dừng lại ở việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi ở
trường THCS Bình Sơn – Anh Sơn.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Đề tài sử dụng 2 nhóm phương pháp chủ yếu:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Đọc, nghiên cứu phân tích tài liệu, văn bản có liên quan đến công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

Quan sát, phỏng vấn, khảo sát, điều tra tổng kết, kinh nghiệm…
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
2

V. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI.
A. Mở đầu
B. Nội dung:
Chương I: Một số vấn đề về nhận thức lý luận và thực tiễn về công tác
phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi.
Chương II: Thực trạng công tác chỉ đạo phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi.
Chương III: Một số biện pháp chỉ đạo việc phát hiện và bồi dưỡng học
sinh giỏi
C. Kết luận.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHẬN THỨC LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CÔNG TÁC PHÁT HIỆN VÀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI.
I. NHẬN THỨC LÝ LUẬN.
1. Quan điểm về học sinh giỏi.
Học sinh giỏi là người thông minh, có trí tuệ phát triển, có một số phẩm
chất nổi bật, giàu tính sáng tạo và một (hoặc một số) năng lực chuyên biệt bổi
hẳn lên (Quan niệm trên vừa kế thừa, vừa phát triển quan niệm truyền thống:
"Đức - Tài" của lịch sử).
Đặc trưng cơ bản của học sinh giỏi, của học sinh năng khiếu là:
Suy nghĩ độc lập (suy nghĩ không lệ thuộc vào suy nghĩ của người khác
nếu phụ thuọc thì khó có thể sáng tạo).
Có đàu óc phê phán, lập đi lập lại vấn đề.
Nhạy cảm phát hiện mâu thuẫn, phát hiện vấn đề.
Như vậy, học sinh giỏi trước tiên phải có tư chất bẩm sinh do di truyền để
lại. Đó là mầm mống, là tiền đề, là cơ sở sinh lý của tài năng. Nếu sớm được
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.

3

phát hiện và bồi dưỡng một cách có hệ thống chắc chắn sẽ trở thành những công
dân có ích, những tài năng trong tương lai. Bởi vậy, việc phát hiện sớm và bồi
dưỡng kịp thời những học sinh có tư chất, có trí tuệ ở các cấp học nói chung, ở
THCS nói riêng là việc tất yếu và hết sức cần thiết. Nếu ở lứa tuổi này, năng
khiếu, khả năng trí tuệ của các em không được phát hiện kịp thời và bồi dưỡng
đúng hướng thì mầm mống tài năng của đất nước bị thui chột, hoặc không có cơ
hội để phát triển.
* Ta hãy xét về mối quan hệ giữa nhân tài - nhân lực - dân trí:
Ta xét theo thứ tự: Dân trí - Nhân lực - Nhân tài.
Đại học Havơt (Mỹ) xếp: Nhân lực - Nhân tài - Dân trí.
Có ý kiến cho rằng: Nhân tài quyết định nhân lực và dân trí, do đó vấn đề
nhân tài phải được xếp hàng đầu, vị trí ưu tiên.
Ông cha ta có câu "Một người biết lo bằng cả kho người biết làm". Người
biết lo chính là người tài.
Nhân tài là người có sự nhạy cảm phát hiện vấn đề nắm được quy luật, dự
báo trước được tình hình nên sớm nhìn ra nhu cầu nhân lực trong tương lai, nhờ
đó chủ động được việc đào tạo nhân lực cho tương lai cho nên không thể đặt
việc đào tạo nhân lực làm trung tâm.
Nhân tài cũng quyết định dân trí: Vì có người tài mới biết tổ chức nền
giáo dục sao cho có hiệu quả nhất. Dân trí càng cao thì càng thuận lợi cho việc
tuyển chọn người để đào tạo nhân lực, đồng thời dân trí càng cao thì càng phát
hiện được nhiều nhân tài.
Nhân tài nếu được phát hiện sớm - gặp điều kiện thuận lợi thì phát triển
thành tài năng.
2. Quan niệm về bồi dưỡng học sinh giỏi.
Trước hết, chúng ta hiểu rằng: Dạy học là hoạt động của người thầy,
nhằm tổ chức, điều khiển, tác động giúp học sinh lĩnh hội tri thức của xã hội loài
người, phát triển tâm lý và hình thành nhân cách.

§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
4

Bồi dưỡng học sinh giỏi (bồi dưỡng dưỡng nhân tài) là: bồi dưỡng trí
thông minh: năng lực tư duy, suy luận, giải quyết vấn đề linh hoạt. Bồi dưỡng óc
sáng tạo: tư duy độc lập, không rập khuôn, phát hiện quy luật, tìm tòi giải pháp
mới… và một số phẩm chất khác: như tò mò, say mê, trung thực…
Như vậy, bồi dưỡng học sinh giỏi là dưới sự tổ chức và điều khiển của người
thầy giỏi, giúp học sinh lĩnh hội tri thức của xã hội loài người một cách tốt nhất,
giúp cho trí tuệ của các em phát triển một cách cao nhất… bồi dưỡng và phát triển
tốt nhân cách của các em (cả tài và đức). Muốn làm được điều ấy, đòi hỏi người
thầy giáo không đơn thuần chỉ có nhiều tri thức, hiểu rộng, biết sâu và truyền đạt
cho học sinh tất cả những gì thầy có "thao thao bất tuyệt", mà thầy phải dạy cái gì
học sinh cần, biết men theo nhu cầu học sinh để dạy. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
đã lưu ý trong cách dạy học đó là: "áp dụng phương pháp hiện đại để bồi dưỡng
cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề".
Vậy, muốn dạy giỏi, trước hết phải nắm vững lý luận dạy học, nắm vững các
phương pháp dạy học đặc trưng bộ môn, đặc biệt là hiểu rõ đặc điểm tâm lý của
học sinh, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng, có lý tưởng nghề
nghiệp, làm việc với tất cả lương tâm và trách nhuệm của mình. Có như vậy, thầy
mới đủ điều kiện để đáp ứng theo yêu cầu của học sinh trong quá trình dạy và bồi
dưỡng năng lực cho các em. Day giỏi là biết cách dạy cho học sinh sáng tạo trong
tự học, biết men theo hứng thú kích thích được tính tò mò, ham hiểu biết ở các em.
Thầy dạy giỏi là thầy biết tổ chức, hướng dẫn cho học sinh biết tự mình
tìm kiếm tri thức thông qua quá trình dạy của mình, phải dạy "vì người học và
bằng năng lực tự học của người học", biết dạy hướng vào học sinh, biết tổ chức
cho người học tự học, biết phân phối thời gian hợp lý để người học tự học có
hiệu quả cao, làm sao để học sinh tự nghiên cứu và đối thoại với bạn bè, thầy cô
mạnh dạn, tự nhiên để hoàn thiện mình, hướng dẫn học sinh biết tự học, tự
nghiên cứu.

Hay nói cách khác, thầy giáo dạy giỏi là thầy giáo mà trong mỗi bài dạy
luôn đặt câu hỏi cho mình: Dạy cái gì? dạy như thế nào? dạy bằng cách nào? để
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
5

học sinh nắm vững kiến thức, trở thành kỹ năng kỹ xảo. Đó là những người
thầy biết cách tổ chức học sinh hoạt động chiếm lĩnh tri thức và tác động bằng
con đường ngắn nhất để các em phát triển nhanh về trí tuệ.
Chúng ta biết rằng: Năng lực tự học, nội lực sẽ khó phát triển nếu thiếu sự
hướng dẫn của thầy và sự hợp tác của bạn bè, sẽ không có trò giỏi nếu không có
thầy giỏi.
Nghị quyết Trung ương II đã chỉ rõ: "Giáo viên là nhân tố quyết định của
chất lượng giáo dục". Vì vậy đội ngũ giáo viên nói chung, giáo viên dạy giỏi nói
riêng cần có đủ đức, đủ tài, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có
phẩm chất đạo đức trong sáng mẫu mực, có uy tín cao trong học sinh, phụ
huynh; được đồng nghiệp, bạn bè tin yêu thừa nhận. Song không phải giảo viên
nào cũng làm tốt được công tác bồi dưỡng học sinh gỏi. Vì ngoài những tiêu
chuẩn đầy đủ có ở giáo viên còn phải có những phẩm chất như: nhạy cảm với
khả năng của học sinh, nắm bát được nhu cầu của học sinh một cách mau lẹ,
phát hiện chính xác những học sinh có trí tuệ, có khả năng tiếp thu và tư duy tốt.
Ngoài ra, người giáo viên dạy bồi dưỡng phải biết tự mình đúc rút kinh nghiệm,
điều chỉnh quá trình dạy học của mình thông qua hoạt động dạy của thầy và hoạt
động học của trò. Thực tế đã cho thấy, những giáo viên có bề dày kinh nghiệm
bồi dưỡng học sinh giỏi là những người đã đào tạo ra nhiều học sinh giỏi cho
nhà trường hàng năm.
Bên cạnh đó, giáo viên dạy bồi dưỡng học sinh giỏi muốn đạt kết quả cao
và đáp ứng yêu cầu đổi mới thì phải luôn biết tự bồi dưỡng mình, biết tích luỹ
cho mình một vốn kiến thức phong phú, cập nhật với cái mới, không để cho
mình lạc hậu với thời cuộc, có như vậy mới xây dựng được niềm tin vững chắc
cho học sinh, Nói cách khác, đội ngũ giáo viên dạy giỏi, dạy bồi dưỡng học sinh

giỏi là những nhà sư phạm tài năng: kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa tài
năng sư phạm, phẩm chất đạo đức của nhà giáo và sự nhạy cảm, cách ứng xử
linh hoạt trong dạy học.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa thầy và trò.
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
6

Muốn có học sinh giỏi, phải có thầy giáo giỏi, muốn có thầy giáo giỏi cần
có học sinh giỏi đó là quá trình biện chứng.
Điều kiện đầu tiên quyết định đến hiệu quả hoạt động học của học sinh đó
là mối quan hệ giữa sự chỉ đạo của thầy và việc học của trò.
Thầy là "người thiết kế" hành động, hướng dẫn chỉ đạo thực hiện hành động,
kiểm tra đánh giá việc thực hiện hành động. Trò là "người thi công", người thực
hiện hành động dưới sự hướng dẫn của thầy, tự kiểm tra hành động của mình qua
sự kiểm tra của thầy, biết tự đánh giá mình và hành động của mình. Điều quan
trọng nhất đó là sự tái tạo tri thức loài người dưới sự hướng dẫn của thầy.
Mối quan hệ giữa dạy và học còn được biểu hiện: Dạy phải đảm bảo cho
sự học tập của học sinh đạt kết quả. Trước hết cần phân hoá đối tượng, trong quá
trình giảng dạy cần có sự chỉ đạo soạn nội dung giảng dạy phù hợp với từng loại
đối tượng học sinh. Nội dung theo chương trình chuẩn quy định cho mọi đối
tượng học sinh đó là chương trình khung chuẩn mực. Ngoài ra, cần có thêm nội
dung nâng cao dành cho đối tượng học sinh khá, giỏi ở từng mức độ khác nhau.
Phần này giáo viên hướng dẫn cho các em, có khả năng tự học, tự nghiên cứu
thêm nhằm tạo điều kiện để phát huy khả năng và thoả mãn nguyện vọng của
học sinh trong việc học thêm và tự bồi dưỡng.
Ngoài ra, việc nâng cao tính độc lập, sáng tạo của học sinh là một phương
hướng qaun trọng trong việc hiện đại hoá các phương pháp dạy học. Tính độc
lập trong nhận thức là khả năng của học sinh trong việc tự xác định phương
hướng hoạt động của mình trước tình huống mới, tự phát hiện và nêu lên vấn đề
cần được giải quyết rồi tự tìm ra con đường giải quyết và thực hiện nó. Theo

Plagalgerin thì khả năng định hướng hoạt động của học sinh là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển tính tích cực sáng tạo của học sinh. Như vậy, để hình
thành và phát triển tính tích cực sáng tạo của học sinh cần xây dựng được hệ
thống phương pháp dạy học tối ưu. Trong đó phương pháp dạy học nêu vấn đề,
hướng dẫn giải quyết vấn đề được coi trọng. Đặc biệt là dạy "tự học" phương
thức không thể thiếu được trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
7

Công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi sẽ đạt hiệu quả cao hơn khi
người thầy giáo chú ý đến việc thực hiện cơ chế dân chủ trong dạy và học. Bởi
vì cơ chế dân chủ sẽ đảm bảo cho khả năng tư duy của học sinh được tôn trọng
và phát huy. Các em sẽ được thoải mái, phấn khởi, tự giác, tích cực trong học
tập và những tài năng sẽ bộc lộ và thực sự được phát triển.
II. NHẬN THỨC THỰC TIỄN: TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI, VIỆC ĐÀO TẠO NHÂN TÀI.
Thủa xa xưa, ông ta cha đã khẳng định: "Nhân bất học, bất tri lý" - làm
người mà không có học thì không thể phân biệt được đâu đúng đâu sai. Chính vì
vậy "Học thức là tài sản lớn nhất của quốc gia" (năm 1466) - Bia Văn Miếu -
Hà Nội. Và ngay từ thế kỷ XVIII - Quang Trung - vị vua trẻ anh minh trong
"chiếu lập học" (1790) đã nói: "Xây dựng đất nước, lấy việc dạy học làm đầu,
tìm lẽ trị bình lấy việc tuyển nhân tài làm gốc" - Muốn xây dựng đất nước mạnh
giàu phải có những con người có học, phải lấy việc dạy học đặt lên hàng đầu;
Muốn đất nước phồn vinh, bình yên, nhân dân ấm no hạnhg phúc… phải có
nhân tài và nhân tài không thể có, nếu không bắt đầu từ việc học, từ việc phát
hiện, tuyển chọn và bồi dưỡng nhân tài.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt trong công cuộc đổi mới hiện nay
của đất nước, Đảng ta đã xác định ngày càng rõ hơn vai trò, vị trí của giáo dục
đào tạo. Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương khoá VIII khẳng định: "Giáo
dục đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc

đẩy, là điều kiện cơ bản bảo đảm việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội,
xây dựng và bảo vệ đất nước. Phải coi đầu tư cho giáo dục là một hướng chính
sách của đầu tư phát triển".
Trong định hướng phát triển giáo dục - đào tạo, Nghị quyết lần thứ 2 Ban
chấp hành Trung ương khoá VIII tiếp tục khẳng định: "Muốn tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo,
phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền
vững".
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
8

Nghiên cứu tìm hiểu về tư tưởng và quan điểm của Hồ Chí Minh đối với
vấn đề giáo dục và đào tạo, chúng ta cũng nhận rõ quan điểm rất đầy đủ về chiến
lược con người của Bác. Về mục đích học, Người chỉ rõ: "Học để làm việc, làm
người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp, nhân dân, Tổ quốc và
nhân loài". Về chiến lược con người Bác phát biểu: "Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người có phẩm
chất và năng lực, có trình độ chính trị văn hoá khoa học kỹ thuật và chuyên môn
nghiệp vụ" (Hồ Chí Minh - Toàn tập - Tập V trang 264). Để đáp ứng được yêu
cầu đó đòi hỏi mỗi con người cần biết kết hợp chặt chẽ giữa "hổng" với
"chuyên", giữa "Đức" với " với "Tài", trong đó đức là gốc, tài là cần thiết (Tư
tưởng Hồ Chí Minh - Học viện chính trị Quốc gia 1997 trang 86).
Ngày nay trên thế giới, các nước phát triển đều quan niệm nguồn tài nguyên
thiên nhiên khai thác dần sẽ cạn, chỉ có nguồn lực con người, càng khia thác càng
phát triển. Vì vậy, Đảng ta đã khẳng định "con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của phát triển". Trong đó: mục tiêu ưu tiên là đào tạo nguồn nhân lực cho sự
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao dân trí cho lực lượng lao động, cho cán bộ
quản lý và bồi dưỡng nhân tài được xem là chính sách của quốc gia.
Từ đó ta khẳng định: vấn đề đào tạo tài năng và sử dụng người tài là một
việc hết sức quan trọng và cần thiết cho sự phát triển của đất nước. Cần phải xây

dựng một chiến lược cho việc tuyển chọn và bồi dưỡng nhân tài mà điểm khởi
đầu, đó là việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi ở các cấp học, đặc biệt là
các bậc học phổ thông.
Chúng ta biết rằng thế kỷ XXI là một thách thức lớn đối với trình độ và
bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Hoặc là tụt hậu hoặc là vươn lên để hội nhập với
cộng đồng các dân tộc trên thế giới. Giáo dục - đào tạo đứng trước thách thức
mới của lịch sử, của giai đoạn phát triển mởi của đất nước, phải có tầm nhìn
chiến lược toàn diện và phải hết sức coi trọng việc đào tạo và bồi dưỡng nhan tài
cho đất nước; đào tạo nên những thế hệ trẻ có đủ khả năng tiếp thu một cách
sáng tạo những tinh hoa tiên tiến của nhân loài, đủ sức đủ tài đưa đất nước tiến
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
9

lên. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, đặc biệt ở hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành
Trung ương khoá VIII, Đảng ta đã khẳng định một lần nữa những giá trị lớn lao
và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người - chủ thế mội sáng tạo, mọi của cải
vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh quốc gia. Hướng phát huy và bồi dưỡng
nhân tố con người Việt Nam, không những gia tăng tính tự giác, năng động, tự
chủ phát huy sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân. Kết hợp với sức mạnh cộng
đồng, con người phát triển cao về trỉ tuệ, cường tráng về thế chất, phong phú về
tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới,
đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội… tăng cường nguồn lực con người,
gắn liền với kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.
Nhân tài có ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp đến sự phát triển của xã hội,
của lịch sử. Vì vậy ở thời đại nào, quốc gia nào người giỏi cũng được tôn trọng,
đề cao. Cho nên việc bồi dưỡng, sử dụng nhân tài được xem là quốc sách.
Thế kỷ XXI - thế kỷ của nền văn minh hậu công nghiệp hay văn minh trí
tuệ, đòi hỏi thế hệ trẻ Việt Nam, pahỉ được trang bị đầy đủ hành trang trí tuệ để
bước vào đời - vấn đề bồi dưỡng học sinh giỏi, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước
càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nhưng nhân tài không tự nhiên sinh ra,

mà phải có quá trình phát hiện, đào tạo bồi dưỡng mới thành.
Cần xây dựng chính sách đồng bộ ở các khâu: Phát hiện - tuyển chọn -
đào tạo - sử dụng - đãi ngộ tài năng để tạo điều kiện cho tài năng cống hiến
nhiều cho sự nghịêp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của tư duy, của tài năng khoa học. Việc phát triển
kinh tế ở trình độ cao không còn con đường nào khác con đường phát hiện,
tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng người giỏi. Đã đến lúc tài nguyên quý giá nhất
là trí tuệ con người, bởi lẽ kỹ thuật có thể nhập cảng, khoa học có thể học tập
vận dụng, giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng trí tuệ, tài năng không thể nhập cảng, tài
năng sẽ thực sự đóng góp phần phát triển nguồn nhân lực quý giá cho đất nước.
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
10

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO VIỆC PHÁT HIỆN VÀ BỒI
DƯỠNG HỌC SINH GIỎI Ở TRƯỜNG THCS BÌNH SƠN – ANH SƠN.
I. THỰC TRẠNG VỀ ĐỘI NGŨ QUẢN LÝ VÀ GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG
THCS BÌNH SƠN - ANH SƠN.
1. Về đội ngũ quản lý.
Hiệu trưởng Hiệu phó Đảng viên Đại học
1 1 2 2
Nhà trường có đội ngũ quản lý đủ về số lượng (trường có 15 lớp: 1 Hiệu
trưởng, 1 Hiệu phó), có trình độ đào tạo Đại học, có lý tưởng nghề nghiệp, tận
tâm với nghề, có năng lực quản lý tốt, có tinh thần trách nhiệm cao với công
việc nhà trường.
2. Về đội ngũ giáo viên:
Tổng số giáo viên Đảng viên Đại học Cao đẳng Có khả năng bồi dưỡng
26 6 15 11 15
Nhà trường có đủ số lượng giáo viên đảm nhiệm công tác giảng dạy - giáo
dục. Có lòng nhiệt tình, yêu nghề, có trình độ đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn.
Có phẩm chất đạo đức tốt, có khả năng về chuyên môn. Nhưng số lượng giáo

viên thực sự có kiến thức và phương pháp, thực sự có kinh nghiệm bồi dưỡng
học sinh giỏi chưa nhiều (cơ bản mởi đủ về số lượng, còn chất lượng chưa cao),
(chỉ có 3 Đại học và 11 Cao đẳng qua hệ đào tạo chính quy).
II. THỰC TRẠNG VỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI TỪ NĂM 200 - 2001 ĐẾN
NAY.
1. Chỉ đạo tuyển chọn học sinh giỏi.
Thực hiện nghiêm túc chủ trương xoá lớp chọn của ngành, trường phân bố
đều học sinh khá ở các lớp trong khối, điều này là thật sự cần thiết đối với việc
dạy học đại trà, nhưng là một bất lợi đối với việc tuyển chọn và bồi dưỡng học
sinh giỏi - Từ năm học 2000 - 2001 đến 2002 - 2003.
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
11

Việc tuyển chọn học sinh giỏi được giao toàn quyền cho giáo viên bộ môn
quyết định. Trong quá trình dạy bộ môn (cả khối), giáo viên bộ môn được phân
công bồi dưỡng tự chọn các em học khá để bồi dưỡng (trường tổ chức dạy bồi
dưỡng mỗi môn/1buổi/tuần, vào các buổi chiều). Trong quá trình bồi dưỡng,
giáo viên bồi dưỡng hoàn toàn chủ động trong việc chuẩn bị kiến thức, tự lựa
chọn phương pháp thích hợp để truyền thụ kiến thức cho học sinh. Qua quá trình
theo dõi chất lượng bằng các bài kiểm tra, bằng khả năng tư duy trực tiếp trả lời
các câu hỏi khó ngay ở lớp… giáo viên bồi dưỡng sẽ lập danh sách đội tuyển
chính thức gửi về trường.
- Từ năm học 2002 - 2003 tới nay:
Việc phát hiện và lập đội tuyển vòng một giao cho giáo viên bồi dưỡng
trực tiếp quyết định; nhưng đội tuyển dự thi chính thức ở Huyện do trường tổ
chức thi nghiêm túc: qua 2 bài thi (với học sinh lớp 9 - thi sớm vào tháng 11),
với khối 6, 7, 8 qua 3 bài thi (các khổi này thi muộn hơn vào tháng 4 dương lịch
hàng năm).
2. Chỉ đạo về bồi dưỡng học sinh giỏi.
a. Chọn giáo viên bồi dưỡng.

Phải là những giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có
trách nhiệm cao với học sinh và nhà trường, có phẩm chất đạo đức tốt.
b. Về nội dung bồi dưỡng.
Nhà trường phân công cho tổ chuyên môn ngày từ đầu năm học, tổ
chuyên môn cân nhắc, lựa chọn các giáo viên đủ năng lực chịu trách nhệim bồi
dưỡng các môn ở các khổi làm sao để đạt được mục tiêu mà nhà trường đã giao
cho tổ.
Các giáo viên được phân công bồi dưỡng hải là các giáo viên trực tiếp dạy
bộ môn ấy trong giờ học chính khoá. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
bởi giờ học chính khoá với nội dung kiến thức cơ bản được dạy đầy đủ, sâu sắc
thì đây sẽ là cái nền vững chắc cho công tác bồi dưỡng (ở các buổi chiều).
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
12

Nội dung các buổi bồi dưỡng: giáo viên phải hệ thống hoá, khái quat
hoá… được tất cả nội dung kiến thức cơ bản, giúp các em nắm vững và hiểu bản
chất của kiến thức, có thể sử dụng linh hoạt được trong các dạng bài tập, trong
các dạng đề.
Giáo viên bồi dưỡng phải chuẩn bị được một chương trình bồi dưỡng
khép kín với một hệ thống các dạng bài tập, các dạng đề đa dạng ở mức nâng
cao và mở rộng kiến thức, nhằm phát huy tư duy sáng tạo của các em. Đồng
thời, bên cạnh các bài tập làm ngay tại lớp, giáo viên có kế hoạch ra bài tập để
các em tranh thủ thời gian làm thêm ở nhà.
Ngoài ra, giáo viên chọn lựa các dạng tài liệu cần thiết cho các em tìm
đọc tham khảo - khuyến khích tính chủ động, năng động và sáng tạo của các em.
"Tự học" của các em là một khâu không thể thiếu trong quá trình bồi dưỡng.
3. Những điều kiện cho việc dạy giỏi và học giỏi.
a. Về tinh thần.
Thường xuyên tìm ra các cá nhân điển hình trong phong trào dạy giỏi và
học giỏi để biểu dương, khen ngợi trước tập thể hội đồng giáo viên và học sinh

trong toàn trường.
Ưu tiên cho các giáo viên và học sinh đạt thành tích dạy giỏi và học giỏi
khi xét các danh hiệu thi đua.
b. Về vật chất.
* Phần thưởng đối với giáo viên dạy giỏi các cấp:
Giáo viên dạy giỏi Huyện Giáo viên dạy giỏi Tỉnh
Thủ khoa Giải 2 Giải 3 Đạt Thủ
khoa
Giải 2 Giải 3 Đạt
100.000 90.000 80.000 70.000 250.000 200.000 180.000 150.000
* Phần thưởng đối với giáo viên có học sinh giỏi các cấp:
Có học sinh giỏi Huyện Có học sinh giỏi Tỉnh
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
13

Thủ khoa Giải 2 Giải 3 Đạt Thủ
khoa
Giải 2 Giải 3 Đạt
50.000 40.000 35.000 30.000 250.000 200.000 180.000 150.000
* Phần thưởng đối với học sinh giỏi các cấp:
Giáo viên dạy giỏi Huyện Giáo viên dạy giỏi Tỉnh
Thủ khoa Giải 2 Giải 3 Đạt Thủ
khoa
Giải 2 Giải 3 Đạt
50.000 40.000 30.000 20.000 100.000 80.000 60.000 50.000
c. Về cơ sở vật chất trang thiết bị cho dạy và học bồi dưỡng.
Phòng học bồi dưỡng đầy đủ, thoáng mát, nhưng trang thiết bị đồ dùng
phục vụ giảng dạy còn thiếu.
Tài liệu giảng dạy bồi dưỡng đã có, nhưng chưa thật đầy đủ và đồng bộ.
4. Kết quả đạt được trong công tác chỉ đạo bồi dưỡng học sinh giỏi.

a. Ưu điểm: Qua quá trình chỉ đạo và bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường đã
tác động mạnh mẽ đến nhận thức tư tưởng của mỗi giáo viên. Đối với những
giáo viên có khả năng dạy bồi dưỡng thì sẽ xác định trách nhiệm cao hơn là phải
vươn lên xứng đáng với niềm tin yêu của học sinh, phụ huynh và niềm tin, sự
ngưỡng mộ của đông nghiệp, bạn bè. Đối với giáo viên chưa có kinh nghiệm
trong giảng dạy, thì phải xác định cho mình luôn cố gắng vươn lên học hỏi kinh
nghiệm của bạn bè, đồng nghiệp, của các anh chị đi trước để vươn lên đáp ứng
với nhiệm vụ với yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Chính
nhờ vậy mà chất lượng đội ngũ của nhà trường tăng lên đáng kể, phong trào tự
học tự rèn luyện dẫy lên sôi nổi, đội ngũ giáo viên đảm nhiệm công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi ngày càng có hiệu quả (bằng số lượng và chất lượng học
sinh giỏi tăng lên, không ngừng). Chất lượng mũi nhọn tăng lên, kéo theo chất
lượng đại trà cũng không ngừng được nâng cao đáp ứng với lòng tin của nhân
dân. Từ đó tạo thuận lợi cho nhà trường trong công tác vận động các lực lượng
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
14

khác (ngoài nhà trường) cùng tham gia công tác giáo dục dạy học đó là mục tiêu
chính của các nhà trường: tham gia "Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài" cho
xã hội.
* Kết quả cụ thể:
Năm học Học sinh giỏi huyện Học sinh giỏi Tỉnh
2000 - 2001 25 0
2001 - 2002 28 0
2002 - 2003 32 2
2003 - 2004 40 2
* Bài học:
1. Cần đánh giá đúng năng lực, sử trường, thế mạnh của giáo viên bộ
môn, để phân công bồi dưỡng học sinh giỏi đạt hiệu quả.
2. Tạo mọi điều kiện cần thiết về thời gian, cơ sở vật chất, trang thiết bị để

công tác bồi dưỡng tiến hành thuận lợi.
3. Kịp thời khích lệ, động viên về tinh thần vật chất cho thầy cô giáo trực
tiếp tiếp bồi dưỡng học sinh giỏi và các em học sinh giỏi đạt thành tích.
4. Chỉ đạo đội ngũ giáo viên bồi dưỡng chú ý nội dung chương trình dạy
chính khoá: đảm bảo kiến thức cơ bản đủ, đúng sâu… Đây chính là cái nền cực
kỳ quan trọng để hệ thống hoá, mở rộng, nâng cao kiến thức trong các buổi dạy
bồi dưỡng.
5. Cần phối kết hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường, để tạo
nên sự quan tâm rộng rãi đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi (tạo nên tác động
quan trọng cho người dạy và người học).
Trong đó, đặc biệt phối hợp với hội cha mẹ học sinh, phụ huynh học sinh
giỏi để gia đình động viên, khích lệ, cổ vũ các em, tạo nên động lực học tập cho
các em ngay từ phía gia đình.
b. Tồn tại:
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
15

Sự chỉ đạo nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi còn lúng túng, phần lớn giao
cho giáo viên trực tiếp bồi dưỡng tự lên chương trình, nội dung, chủ động bồi
dưỡng hệ thống kiến thức đã chọn.
Các thầy cô giáo bồi dưỡng mới chỉ chú ý đến mục đích trước mắt là dạy
làm sao cho đạt được kết quả cao trong các kỳ thi hiện tại, chứ chưa chú ý đến
mục đích lâu dài, do đó dạy chủ yếu theo phương pháp "luyện gà chọi" chứ chưa
hướng dẫn các em tập làm quen tự nghiên cứu, phương pháp tự học là chính.
* Nguyên nhân:
1. Các môn học có tổ chức thi học sinh giỏi ở THCS là các môn văn hoá
cơ bản (Văn, Sử, Địa, Anh, Toán, Lý, Hoá, Sinh, Tiếng Anh), trong khi đó 2
đồng chí quản lý và hai tổ trưởng chỉ chuyên sâu một môn được đào tạo, nên chỉ
có thể chỉ đạo môn theo thế mạnh chuyên ngành, còn các môn khác do giáo viên
trực tiếp bồi dưỡng chịu trách nhiệm.

2. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi, ở THCS thường mỗi giáo viên chỉ chịu
trách nhiệm một môn ở một khối lớp, trong một năm. Nên bằng phương pháp
nào, cách thức nào để giáo viên truyền thụ được kiến thức và kỹ năng làm bài
cho học sinh để đạt hiệu quả cao trong các kỳ thi tuyển là quan trọng nhất. Vì
vậy, phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi linh hoạt theo từng giáo viên, chứ có
một phương pháp chuẩn cụ thể.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC PHÁT HIỆN VÀ BỒI
DƯỠNG HỌC SINH GIỎI Ở TRƯỜNG THCS BÌNH SƠN – ANH SƠN.
I. NẮM VỮNG VÀ THỰC HIỆN NGHIÊM TÚC CÁC VĂN BẢN, CHỈ THỊ,
QUY CHẾ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI.
1. Quyết định 3479/1997, quyết định của Bộ Giáo dục - Đào tạo ngày
01/11/1997 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo.
2. Thông tư số 24/1997, Thông tư Bộ Giáo dục - Đào tạo ngày 29/12/1997
hướng dẫn một số điều về quy chế thi chọn học sinh giỏi các bậc học phổ thông.
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
16

Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch và biện pháp chỉ đạo có hiệu quả công
tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
II. CHỈ ĐẠO PHÁT HIỆN VÀ TUYỂN CHỌN HỌC SINH GIỎI.
Để chỉ đạo phát hiện và tuyển chọn học sinh giỏi chính xác trước tiên
chúng ta cần phân biệt "Có năng khiếu" và "Giỏi".
"Có năng khiếu" là có triển vọng của một năng lực sáng tạo, còn "giỏi" là
có tiềm năng có sự thông thạo.
"Thông thạo" chưa chắc đã "sáng tạo" và ngược lại có thể "sáng tạo" ở
một lĩnh vực nào đó nhưng về toàn cục lại có thể chưa thạo.
Phân biệt rạch ròi như vậy sẽ rất có lợi trong việc thực hiện phát hiện và
bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng khiếu.
Khâu đầu tiêo trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi, bồi dưỡng nhân tài là
phát hiện lựa chọn đúng những năng khiếu. Phát hiện sai thì sẽ chọn không đúng

nơi học, chọn sai cách học thì sẽ không thể có nhân tài. Phát hiện sót sẽ thiệt
thòi cho cá nhân học sinh, cho gia đình, cho xã hội. Chọn được đúng, chính xác
rồi thì hướng về các tiêu chí nhân tài mà bồi dưỡng trong đó tiêu chí đầu tiên là
năng lực phát hiện vấn đề - nền móng của sự sáng tạo.
Chúng ta cần có quan điểm đa dạng hoá các hình thức tuyển chọn để phát
hiện chính xác đội ngũ học sinh giỏi. Đây là việc làm cần thiết và quan trọng
đầu tiên, vì chọn đầu vào mà không tốt thì bồi dưỡng bao nhiêu cũng khó phát
triển được nhân tài.
Trước hết cần phải chỉ đạo cho từng giáo viên trong quá trình dạy chính
khoá của mình, phải thật sự chú ý đến phát hiện năng khiếu của học sinh. Để
làm được điều đó thì giáo viên phải rất công phu, phải có nhiều hình thức linh
hoạt để kiểm tra một cách thường xuyên. Đặc biệt là dùng phương pháp dạy học
phát huy tính tích cực của học sinh để dễ dàng phát hiện những em thật sự năng
động, sáng tạo trong học tập. Đó là những em có óc suy luận, suy diện, tư duy
và biết vận dụng kiến thức vào thực hành tốt.
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
17

Các nhà quản lý cũng cần chỉ đạo tốt việc ra đề thi, coi thi và chấm thi
nghiêm túc, công bằng, chính xác.
Theo tôi, một đề thi học sinh giỏi là một đề thi không chỉ để kiểm tra trí
nhớ của học sinh mà nên chú trọng nhiều vào việc vận dụng một cách sáng tạo
những tri thức đã được học vào thực tiễn để giải quyết các tình huống khác
nhau, giải thích được những vấn đề xẩy ra trong cuộc sống hàng ngày.
Mặt khác để đảm bảo thật sự khách quan trong việc chọn học sinh giỏi phải:
Trước hết phải khách quan giữa việc ra đề thi với việc hướng dẫn, bồi
dưỡng học sinh. Dứt điểm những người đã tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi, có
học sinh giỏi đi thi thì sẽ không được tham gia ra đề thi. Hơn nữa, việc ra đề thi
phải đảm bảo tính bí mật tuyệt đối.
Sau đó phải chỉ đạo quá trình coi thi và chấm thi nghiêm túc và khách quan.

Phải quán triệt tinh thần cho giáo viên coi thi và học sinh dự thi về tầm
quan trọng của việc tuyển chọn đúng đội tuyển. Nếu giáo viên không nghiêm túc
sẽ bị xử lý nghiêm. Học sinh dự thi mà vi phạm quy chế thi thì không công nhận
kết quả thi. Mặt khác trong coi thi và chấm thi phải đổi chéo lớp, đổi chéo cụm,
không để cho giáo viên chấm bài của học sinh mình dạy.
II. CHỈ ĐẠO HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI.
1. Chỉ đạo mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi.
Phải làm cho giáo viên học sinh kể cả các lực lượng khác thấy được: Việc
bồi dưỡng học sinh giỏi không chỉ nhằm mục đích trước mắt là để đạt kết quả
cao trong các kỳ thi học sinh giỏi, mà mục tiêu quan trọng hơn đó là góp phần
đào tạo nhân tài cho đất nước. Vì lẽ đó, giáo viên đừng quên việc bồi dưỡng
kiến thức văn hoá phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục toàn diện, nhất là giáo dục
tính nhân văn và sáng tạo cho học trò. Học sinh cũng đừng nghĩ rằng mình học
giỏi các môn văn hoá là ra đời sẽ nhập cuộc một cách mau lẹ và dễ dàng. Tranh
dạy cho các em trở thành "những con mọt sách" mà xa rời thực tế sống động của
xã hội, có xác định như vậy mới có động cơ và hành động đúng đắn. Giáo viên
mới có phương pháp đúng đắn trong hoạt động phát hiện và bồi dưỡng học sinh
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
18

giỏi, góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thực hiện tốt mục tiêu: Bồi dưỡng
ngày càng nhiều nhân tài cho đất nước.
2. Chỉ đạo nội dung chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Chương trình và nội dung bồi dưỡng phải thể hiện tính toàn diện, có như
vậy mới đáp ứng được nhu cầu đào tạo thế hệ trẻ thành những con người phát
triển toàn diện, năng động, sáng tạo. Cụ thể là:
+ Chương trình bồi dưỡng phải có sự kết hợp giữa dạy bồi dưỡng văn hoá
với các mặt giáo dục khác như: đạo đức, sức khoẻ…
+ Nội dung bồi dưỡng phải thể hiện mối quan hệ giữa các môn trong
nhóm môn khoa học xã hội hay khoa học tự nhiên. Đặc biệt là mối quan hệ giữa

lý thuyết với việc vận dụng lý thuyết trong từng môn học khác nhau. Điều chú ý
nhất trong soạn nội dung bài dạy bồi dưỡng là phải tăng cường ra nhiều bài tập,
nhiều dạng khác nhau cho học sinh được tự học nhiều. Có như vậy mới tạo điều
kiện kích thích được tính tò mò, tính độc lập và phát triển tư duy của học sinh.
- Nội dung chương trình bồi dưỡng cũng phải thể hiện được tính kế thừa
truyền thống và tiếp cận được kiến thức hiện đại.
- Chương trình bồi dưỡng cũng phải thể hiện được việc học tập kết hợp
với những hoạt động vui chơi giải trí, đảm bảo phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi
của các em, giúp các em học tập có kết quả hơn.
3. Chỉ đạo phương pháp dạy bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Phải biết phối hợp các phương pháp dạy học một cách linh hoạt và hợp lý.
- Tổ chức cho chuyên môn triển khai chuyên đề đổi mới phương pháp dạy
học, bằng cách mỗi nhóm, môn cần tổ chức thể hiện chuyên đề "Đổi mới phương
pháp dạy học" sau đó thảo luận và tìm ra phương pháp tốt nhất để dạy cho học
sinh.
- Cần chú ý rằng dạy bồi dưỡng cho học sinh là dạy sáng tạo cho học sinh.
Do đó cho dù là dạy theo phương pháp nào thì cũng cần đảm bảo phát huy được
tính tích cực học tập của học sinh. Đặc biệt là phải dạy làm sao cho học sinh biết
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
19

cách tự học có hiệu quả, vươn lên làm chủ trong việc chiếm lĩnh tri thức mới
trên cơ sở những tri thức đã được tiếp thu.
- Cũng cần lưu ý rằng: Mỗi bộ môn có những phương pháp đặc trưng
riêng để dạy và có những cách thức để học, để sáng tạo một cách khác nhau. Do
đó trong quá trình chỉ đạo thực hiện các phương pháp, các nhà quản lý cần nắm
vững lý luận dạy học các bộ môn một cách chắc chắn để chỉ đạo.
4. Chỉ đạo kế hoạch và tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Cần phải có kế hoạch dài hơi và kế hoạch ngắn hạn cho việc bồi dưỡng
học sinh giỏi thì mới có hiệu quả một cách thực chất, vì học sinh giỏi (nói rộng

ra là nhân tài) không phải dược tạo ra do chủ quan của người bồi dưỡng, người
hướng dẫn, mà nó là kết quả của một quá trình vận động biện chứng có quy luật
của đối tượng được bồi dưỡng. Do đó trong một cấp học, một bậc học, các nhà
quản lý và các nhà sư phạm tài năng cần phối hợp để có kế hoạch bồi dưỡng dài
hạn cho các em.
+ Đội tuyển phải được phát hiện sớm và bồi dưỡng ngay từ đầu bậc học
(lớp 6) và có kế hoạch bồi dưỡng theo một chương trình thống nhất (từ lớp 6
đến lớp 9) cho từng bộ môn.
+ Còn kế hoạch ngắn hạn là kế hoạch chọn đội tuyển theo từng lớp học và
dự thi học sinh giỏi theo từng lớp, và lúc này cần có sự tập trung bồi dưỡng nhiều
hơn.
- Phải có kế hoạch thành lập mạng lưới chuyên môn từ cấp trường đến cấp
Huyện một cách tương đối ổn định, cần có sự chọn lọc và bổ sung hàng năm.
- Có kế hoạch bồi dưỡng giáo viên dạy học sinh giỏi để nâng cao kinh
nghiệm, phương pháp trong giảng dạy.
- Phải chủ động mời các chuyên gia bồi dưỡng học sinh giỏi của từng bộ
môn về bồi dưỡng và trao đổi kinh nghiệm hàng năm để nâng cao trình độ
nghiệp vụ cho giáo viên.
- Phát động phong trào tự học, tự bồi dưỡng cho giáo viên, có động viên
khích lệ, có phê bình nhắc nhở kịp thời.
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
20

- Nhà trường cần chỉ đạo cho tổ chuyên môn có kế hoạch tốt cho việc
phân công trách nhiệm bồi dưỡng cho giáo viên thật hợp lý, theo đúng năng lực
và sở trường của mỗi người.
IV. CHỈ ĐẠO VIỆC TẠO ĐIỀU KIỆN CHO BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI.
1. Điều kiện quyết định đầu tiên để bồi dưỡng học sinh giỏi là phải có đội
ngũ giáo viên giỏi đồng bộ. Vì vậy cần phải có kế hoạch bồi dưỡng cho đội ngũ
giáo viên một cách thường xuyên.

2. Cần có kế hoạch hàng năm cho việc mua sắm sách vở, tài liệu đủ cho
công tác bồi dưỡng - đảm bảo nội dung bồi dưỡng một cách toàn diện và đồng bộ.
3. Phải tích cực chỉ đạo việc xây dựng cơ sở vật chất như: phòng học,
phòng đọc, phòng thực hành, phòng thí nghiệm… để đáp ứng được nhu cầu, đòi
hỏi của hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi, nhằm phát huy khả năng nghiên cứu,
tìm tòi, sáng tạo của giáo viên cũng như học sinh.
4. Tìm mọi cách để huy động nguồn lực: nguồn từ nhà trường, từ trên cấp,
từ huy động phụ huynh, từ các tổ chức đoàn thể khác… để tạo được nguồn tài
chính kịp thời động viên hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi.
C. KẾT LUẬN
Từ những vấn đề lý luận và thực trạng của việc phát hiện và bồi dưỡng
học sinh giỏi ở các trường THCS nói chung, trường THCS Bình Sơn nói riêng
như đã tìm hiểu và nghiên cứu ở trên, tôi rút ra một số kết luận như sau:
Việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi ở các trường THCS là một
nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết phù hợp với quy luật khách quan, nhằm bồi
dưỡng nhân tài cho quê hương đất nước, thực hiện nhiệm vụ cực kỳ quan trọng
của giáo dục.
Hiện nay, Bộ có chủ trương không tổ chức các trường chuyên, lớp chọn ở
các trường THCS, nhưng việc phát hiện bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
21

thường trực, là mối quan tâm đặc biệt ở tất cả các trường THCS. Có như vậy
mới kịp thời phát hiện được nhân tài, kịp thời bồi dưỡng để tuyển chọn nhân tài.
Việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi ở các trường phải được chỉ đạo
và tổ chức một cách khoa học, có quy trình rõ ràng và được thực hiện liên tục.
* Những kiến nghị.
- Song song với việc tổ chức các chu trình "giáo dục thường xuyên" cho
giáo viên, ngành Giáo dục nên có kế hoạch để bồi dưỡng đào tạo ngày càng
nhiều và ngày càng có chất lượng đội ngũ giáo viên có đủ khả năng đảm nhận

công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở các môn một cách đồng bộ.
- Sở giáo dục và các Phòng giáo dục nên phối hợp mở các hội thảo khoa
học, chuyên đề bàn về nội dung và phương pháp dạy bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Các trường cần tích cực hơn trong việc tạo cơ sở vật chất và các điều
kiện tối thiểu phục vụ dạy và học.
- Nhà trường cần có chính sách cụ thể hơn về tài chính để hỗ trợ cho hoạt
động bồi dưỡng học sinh giỏi ở các trường phổ thông nói chung, trường THCS
nói riêng. Chỉ đạo việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THCS. Vì
điều kiện thời gian và tài liệu, nên bài tập này không tránh khỏi những thiếu sót,
rất mong được chỉ giáo.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII
(Nhà xuất bản chính trị quốc gia)
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
(Nhà xuất bản chính trị quốc gia)
3. Bối cảnh xu hướng và động lực phát triển
(Nhà xuất bản giáo dục)
4. Một số vấn đề cơ bản của giáo dục hiện đại
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
22

(Nhà xuất bản giáo dục)
5. Chính sách đổi mới và phát triển giáo dục ở nước ta
(Của Giáo sư Vũ Văn Tảo)
6. Luật giáo dục.
MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU 1
I. Lý do chọn đề tài 1

II. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
IV. Phương pháp nghiên cứu 2
V. Cấu trúc đề tài 2
§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
23

B. PHẦN NỘI DUNG 3
Chương I: Một số vấn đề về nhận thức lý luận và thực tiễn về công
tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi
3
Chương II: Thực trạng công tác chỉ đạo phát hiện và bồi dưỡng học
sinh giỏi
10
Chương III: Một số biện pháp chỉ đạo công tác phát hiện và bồi
dưỡng học sinh giỏi
16
C. PHẦN KẾT LUẬN 21
Kiến nghị 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22

§Ò tµi tham gia cuéc thi viÕt vÒ n©ng cao chÊt lîng GD.
24

×