Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Thống kê Kinh tế xã hội năm 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.75 KB, 14 trang )

THÔNG CÁO VỀ SỐ LIỆU THỐNG KÊ KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM 2009
Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế
giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn,
thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước
ta. Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây
ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
Trước tình hình đó, ngày 6/4/2009, Bộ Chính trị đã ra Kết luận về tình hình kinh tế-
xã hội quý I/2009 và các giải pháp chủ yếu đến cuối năm 2009. Ngày 19/6/2009, kỳ họp
thứ 5, Quốc hội Khoá XII đã ra Nghị quyết số 32/2009/QH12 điều chỉnh mục tiêu tổng
quát của kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009 là “Tập trung cao độ mọi nỗ lực
ngăn chặn suy giảm kinh tế, phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền
vững, giữ ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động phòng ngừa lạm phát cao trở lại, bảo đảm an
sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, trong
đó, mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế”.
Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo nhạy bén, kịp thời, tập trung và quyết liệt của Đảng,
Chỉnh phủ; sự nỗ lực và chủ động khắc phục khó khăn của các Bộ, ngành, địa phương,
các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và của toàn dân nên kinh tế nước ta
đã nhanh chóng thoát khỏi đà suy giảm, càng về cuối năm nâng cao được tốc độ tăng
trưởng. Trên cơ sở số liệu 11 tháng và ước tính tháng 12, Tổng cục Thống kê khái quát
kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009 của cả nước trên ba mặt:
(1) Ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững; (2)
Giữ ổn định kinh tế vĩ mô, chủ động phòng ngừa lạm phát cao trở lại; (3) Bảo đảm an
sinh xã hội, phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác.
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1.1. Kết quả ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế
hợp lý, bền vững
a. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, tốc độ tăng tổng sản phẩm
trong nước quý I/2009 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ tăng thấp nhất trong nhiều năm
gần đây; nhưng quý II, quý III và quý IV của năm 2009, tốc độ tăng tổng sản phẩm


trong nước đã nâng dần lên lần lượt là 4,46%; 6,04% và 6,9%. Tính chung cả năm 2009,
tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 1,83%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%.
Từ diễn biến và kết quả tăng tổng sản phẩm trong nước năm 2009 có thể đưa ra một
số nhận xét, đánh giá như sau:
- Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 tuy vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,18% của
năm 2008, nhưng đã vượt mục tiêu tăng 5% của kế hoạch. Trong bối cảnh kinh tế thế giới
suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm mà kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng
dương tương đối cao như trên là một thành công lớn.
- Hai là, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I và quý II năm 2009 thấp hơn
tốc độ tăng của quý I và quý II năm 2008; nhưng quý III/2009 tăng 6,04%, cao hơn tốc
độ tăng 5,98% trong quý III/2008 và quý IV/2009 tăng 6,9%, cao hơn tốc độ tăng 5,89%
trong quý IV/2008 cho thấy nền kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm tăng
trưởng, chứng tỏ các chính sách, giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế triển khai trong
năm vừa qua phù hợp với tình hình thực tế, đã và đang phát huy hiệu quả tích cực.
b. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2009 theo giá so
sánh 1994 đạt 97,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,76% so với cùng kỳ năm trước, nhưng 6 tháng
cuối năm đã đạt 122,8 nghìn tỷ đồng, tăng 3,16% so với 6 tháng cuối năm 2008. Giá trị
sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2009 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 3%
so với năm 2008, bao gồm nông nghiệp tăng 2,2%; lâm nghiệp tăng 3,8%; thuỷ sản tăng
5,4%.
Năm 2009 mặc dù Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ bị bão lũ gây thiệt hại
nặng nề, nhưng nhờ có sự nỗ lực đẩy mạnh sản xuất của các vùng, miền khác, nhất là
đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long nên sản lượng lương thực có hạt
năm 2009 ước tính đạt 43,3 triệu tấn, tăng 24,4 nghìn tấn so với năm 2008, trong đó sản
lượng lúa đạt 38,9 triệu tấn, tăng 165,7 nghìn tấn; sản lượng ngô đạt 4,4 triệu tấn, giảm
141,3 nghìn tấn.
Cây lâu năm có xu hướng phát triển khá, một mặt do giá bán sản phẩm tăng; mặt
khác, những năm trước đây nhiều địa phương đã tiến hành trồng thay thế những diện

tích cây già cỗi bằng loại cây giống mới có năng suất và chất lượng cao nên thu nhập từ
cây lâu năm cao hơn các loại cây trồng khác đã khuyến khích các doanh nghiệp và
người dân tiếp tục mở rộng diện tích gieo trồng. Đặc biệt trong năm 2009, một số mô
hình, dự án được triển khai tích cực và có hiệu quả như: Dự án trồng mới cây cao su ở
một số tỉnh thuộc miền núi phía Bắc (Yên Bái và Lai Châu mỗi tỉnh 3,5 nghìn ha; Điện
Biên 3,2 nghìn ha; Sơn La 3,9 nghìn ha); dự án trồng 320 ha chè cành năng suất cao ở
Thái Nguyên; dự án trồng cao su trên đất lâm nghiệp ở Tây Nguyên và Bình Phước hoặc
mô hình đầu tư giống, vật tư cho những vùng trọng điểm chuyên canh cây hồ tiêu ở Gia
Lai.
Nhờ vậy, diện tích chè năm 2009 đạt 128,1 nghìn ha, tăng 2,6 nghìn ha so với năm
trước; cà phê 537 nghìn ha, tăng 6,1 nghìn ha; cao su 674,2 nghìn ha, tăng 42,8 nghìn
ha; hồ tiêu 50,5 nghìn ha, tăng 0,6 nghìn ha. Sản lượng một số cây lâu năm tăng khá,
trong đó chè búp ước tính đạt 798,8 nghìn tấn, tăng 7% so với năm 2008 (diện tích cho
sản phẩm tăng 2,7%; năng suất tăng 4,2%); cao su 723,7 nghìn tấn, tăng 9,7% (diện tích
cho sản phẩm tăng 5,6%; năng suất tăng 3,8%); hồ tiêu 105,6 nghìn tấn, tăng 7,2% (diện
tích cho sản phẩm tăng 4,5%; năng suất tăng 2,6%).
Chăn nuôi tiếp tục phát triển, nhất là chăn nuôi tập trung, quy mô lớn. Theo kết quả
điều tra trang trại tại thời điểm 01/7/2009, số trang trại chăn nuôi tăng 18,5% so với
cùng thời điểm năm 2008. Do nhiều địa phương mở rộng hình thức chăn nuôi tập trung,
dịch bệnh trong năm tuy vẫn phát sinh nhưng ở phạm vi hẹp nên số lượng gia súc, gia
cầm nhìn chung tăng hơn năm 2008.
Theo kết quả điều tra chăn nuôi tại thời điểm 01/10/2009, đàn lợn cả nước có
27627,7 nghìn con, tăng 3,5% so với cùng thời điểm năm trước; đàn gia cầm có 280,2
triệu con, tăng 12,8%; đàn trâu có 2886,6 nghìn con, giảm 0,4%; đàn bò có 6103,3 nghìn
con, giảm 3,7%. Đàn trâu, bò giảm chủ yếu giảm trâu, bò cày kéo (số trâu cày kéo giảm
4,7%; bò cày kéo giảm 15,6%) nhưng sản lượng sản phẩm chăn nuôi năm 2009 vẫn đạt
khá, trong đó sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước tính đạt 75 nghìn tấn, tăng 4,8% so
với năm 2008; sản lượng thịt bò đạt 257,8 nghìn tấn, tăng 13,7%; sản lượng thịt lợn đạt
2931,4 nghìn tấn, tăng 4,5%; sản lượng thịt gia cầm đạt 502,8 nghìn tấn, tăng 12,2%;
trứng gia cầm đạt 5952,1 triệu quả, tăng 9%.

Diện tích rừng trồng tập trung năm 2009 ước tính đạt 212 nghìn ha, tăng 5,9% so
với năm 2008. Diện tích khoanh nuôi tái sinh rừng năm 2009 ước tính đạt 1032 nghìn
ha, tăng 5,2% so với năm trước; số cây trồng phân tán đạt 180,4 triệu cây, giảm 1,8%;
diện tích rừng được chăm sóc 486 nghìn ha, tăng 4,3%. Sản lượng gỗ khai thác đạt
3766,7 nghìn m
3
, tăng 5,7%. Những địa phương có sản lượng gỗ khai thác lớn là: Tuyên
Quang 218 nghìn m
3
; Yên Bái 200 nghìn m
3
; Quảng Ngãi 180 nghìn m
3
; Quảng Nam
169 nghìn m
3
; Bình Định 167 nghìn m
3
; Hoà Bình 135 nghìn m
3
.
Kết quả trồng, chăm sóc rừng và khai thác gỗ, lâm sản đạt khá chủ yếu do đầu tư
được tăng cường. Ngoài đầu tư lớn từ các chương trình dự án (riêng Dự án 5 triệu ha
rừng năm 2009 đã đầu tư 1180 tỷ đồng, tăng 43,9% so với năm 2008), nhiều địa phương
còn huy động được vốn đầu tư của các hộ gia đình do việc thực hiện chính sách giao đất,
giao rừng bảo đảm được quyền lợi ổn định lâu dài cho các hộ nhận khoán khoanh nuôi
tái sinh rừng.
Công tác bảo vệ rừng và tuyên truyền phòng chống cháy rừng được các địa phương
quan tâm triển khai rộng đến các thôn, bản nên đã hạn chế tình trạng cháy rừng, chặt phá
rừng. Tổng diện tích rừng bị cháy và bị phá năm 2009 là 3221 ha, giảm 18,8% so với

năm 2008, trong đó diện tích rừng bị cháy 1658 ha, giảm 1,2%; diện tích rừng bị chặt
phá 1563 ha, giảm 30,3%.
Sản lượng thuỷ sản năm 2009 ước tính đạt 4847,6 nghìn tấn, tăng 5,3% so với năm
2008, trong đó cá đạt 3654,1 nghìn tấn, tăng 5,3%; tôm 537,7 nghìn tấn, tăng 7,2%.
Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng năm 2009 ước tính đạt 2569,9 nghìn tấn, tăng 4,2%
so với năm trước, chủ yếu do các địa phương tiếp tục chuyển đổi và mở rộng diện tích
nuôi trồng theo hướng kết hợp đa canh, đa con. Bên cạnh đó, mô hình nuôi thuỷ sản
lồng, bè tiếp tục phát triển, đặc biệt là nuôi lồng, bè trên biển ở các tỉnh: Kiên Giang,
Quảng Nam, Ninh Thuận, Phú Yên, Hải Phòng. Tính chung số lồng bè nuôi thuỷ sản
năm 2009 của cả nước đạt 98,4 nghìn chiếc, tăng 12,6 nghìn chiếc (tăng 14,7%) so với
năm 2008.
Diện tích nuôi tôm sú năm 2009 ước tính đạt 549,1 nghìn ha, giảm 10,7% so với
năm trước, chủ yếu do sức mua của những thị trường tiêu thụ tôm sú nhiều là Mỹ và
Nhật Bản giảm mạnh; đồng thời một số diện tích nuôi tôm sú đã chuyển đổi sang nuôi
tôm thẻ chân trắng cho năng suất và thu nhập cao hơn. Đến nay diện tích nuôi tôm thẻ
chân trắng năm nay ước tính đạt 13,5 nghìn ha, tăng 75,5% so với năm 2008; sản lượng
đạt 63 nghìn tấn, gấp trên 2 lần.
Sản lượng thuỷ sản khai thác năm 2009 ước tính đạt 2277,7 nghìn tấn, tăng 6,6% so
với năm trước (tốc độ tăng cao nhất trong 8 năm trở lại đây), trong đó khai thác biển đạt
2086,7 nghìn tấn, tăng 7,2%. Khai thác thuỷ sản tăng cao là do các loại cá cơm, các trác,
cá hố, các nục, cá ngừ xuất hiện trên ngư trường với mật độ cao và thời gian kéo dài.
Đồng thời chính sách hỗ trợ ngư dân mua mới, đóng mới tàu có công suất lớn đã tăng
năng lực khai thác hải sản xa bờ. Ngoài ra, dịch vụ nghề cá được cải tiến hợp lý và hiệu
quả hơn đã tạo điều kiện cho các tàu thuyền tăng thêm số ngày đánh bắt trên biển.
c. Sản xuất công nghiệp
Công nghiệp là ngành bị ảnh hưởng mạnh từ khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng
các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế trong năm qua có nhiều cố
gắng; Chính phủ và các cấp, các ngành đã đề ra những giải pháp kịp thời, hỗ trợ lãi suất
vay vốn và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước thông qua các gói kích cầu đầu tư và
kích cầu tiêu dùng; vận động nhân dân hưởng ứng chủ trương người Việt nam dùng

hàng Việt Nam nên kết quả sản xuất, kinh doanh từng bước được khôi phục và tiếp tục
tăng trưởng.
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 1/2009 theo giá so sánh 1994 giảm 0,2% so với
cùng kỳ năm 2008; các tháng tiếp theo tuy đạt mức tăng trưởng dương nhưng với tốc độ
thấp (Bình quân 6 tháng đầu năm chỉ tăng 4,8%); nhưng những tháng cuối năm đã tăng
trên dưới 10% (Tháng 8 tăng 9,9%; tháng 9 tăng 12,4%; tháng 10 tăng 9,2%; tháng 11
tăng 10,8% và tháng 12 tăng 13,4%). Tính chung cả năm 2009, giá trị sản xuất công
nghiệp ước tính đạt 696,6 nghìn tỷ đồng, tăng 7,6% so với năm 2008, bao gồm khu vực
kinh tế Nhà nước tăng 3,7%; khu vực ngoài Nhà nước tăng 9,9%; khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài tăng 8,1% (dầu mỏ và khí đốt tăng 9,2%, các ngành khác tăng 8%).
Một số sản phẩm công nghiệp quan trọng đạt tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung
là: Điều hòa nhiệt độ tăng 41,8%; khí hóa lỏng tăng 39,3%; tủ lạnh, tủ đá tăng 29,5%; xà
phòng tăng 20,2%; xi măng tăng 19,2%; thép tròn tăng 19,1%; điện sản xuất tăng
11,9%; thuốc lá điếu tăng 10,5%; than sạch tăng 9,9%; dầu thô khai thác tăng 9,8%;
nước máy thương phẩm tăng 9,7%; bia tăng 8,5%.
Một số tỉnh, thành phố có quy mô sản xuất công nghiệp lớn có tốc độ tăng cao hơn
mức tăng chung cả nước là: Quảng Ninh tăng 15,8%; Thanh Hóa tăng 13,9%; Đồng Nai
tăng 10,6%; Bình Dương tăng 10,3%; Khánh Hòa tăng 10%; Hà Nội tăng 9,4%; Cần Thơ
tăng 9,1%; Đà Nẵng tăng 8,3%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,9%; Hải Phòng tăng 7,7%.
Bên cạnh đó, một số tỉnh có tốc độ tăng thấp như: Hải Dương tăng 6,2%; Phú Thọ tăng
5,3%; Vĩnh Phúc tăng 5%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 3,1%.
d. Hoạt động dịch vụ
Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động thương mại và dịch vụ sôi động hơn trong những tháng cuối năm do sản
xuất trong nước phục hồi, nhu cầu tiêu dùng tăng lên và giá cả hàng hoá, dịch vụ tương
đối ổn định. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế
cả năm ước tính đạt 1197,5 nghìn tỷ đồng, tăng 18,6%; nếu loại trừ yếu tố giá thì mức
tăng đạt 11% so với năm 2008.
Trong mức tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm
2009, khu vực kinh tế cá thể tăng 20,3%; kinh tế tư nhân tăng 22,9%; kinh tế Nhà nước

tăng 1,4%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,5%; kinh tế tập thể tăng 18,8%. Xét
theo ngành kinh doanh thì kinh doanh thương nghiệp tăng 18,6%; khách sạn, nhà hàng
tăng 18,4%; dịch vụ tăng 20,3%; du lịch tăng 1,9%.
Vận tải hành khách và hàng hoá
Vận tải hành khách năm 2009 ước tính tăng 8,2% về số khách vận chuyển và tăng
6,2% về số khách luân chuyển so với năm 2008, trong đó vận tải hành khách đường bộ
tăng 8,6% và tăng 9,3%; đường sông tăng 4,5% và tăng 4,6%; đường sắt giảm 2,6% và
giảm 7,9%; đường không tăng 4,2% và giảm 1,6%.
Khối lượng hàng hoá vận chuyển năm 2009 ước tính tăng 4,1% về khối lượng hàng
hoá vận chuyển và tăng 8,6% về khối lượng hàng hoá luân chuyển so với năm trước, bao
gồm: Vận tải trong nước tăng 5,6% và tăng 5,3%; vận tải ngoài nước giảm 2,5% và tăng
9,6%. Vận tải hàng hoá đường bộ năm 2009 ước tính tăng 5,2% về khối lượng hàng hoá
vận chuyển và tăng 8,2% về khối lượng hàng hoá luân chuyển so với năm 2008; đường
sông tăng 2,3% và tăng 2%; đường biển giảm 1% và tăng 10%; đường sắt giảm 4,9% và
giảm 8,8%.

×