Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Ảnh hưởng của di cư trong nước đến phát triển kinh tế xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.3 KB, 35 trang )

1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1.

Lý do chọn đề tài

Di cư là hiện tượng xã hội liên quan đến xã hội loài người diễn ra liên tục ở tất cả
các châu lục, tất cả các nước và tất cả các dân tộc. Ngay từ những thập kỷ trước, quá trình
di cư của thế giới đã diễn ra mạnh mẽ dưới nhiều hình thức, với sự tham gia của nhiều
tầng lớp xã hội và dân cư khác nhau. Là một phương thức năng động kết nối nông thôn với
thành thị, giữa các vùng lãnh thổ trong một nước cũng như giữa các quốc gia, di cư đã trở
thành một nhân tố cấu thành quan trọng góp phần vào tiến trình phát triển ở nhiều quốc
gia. Trong khi nghiên cứu về di cư của các quốc gia trên thế giới đã đạt được nhiều thành
tựu với những đóng góp không nhỏ vào quá trình phát triển đất nước thì những nghiên cứu
về di cư của Việt Nam vẫn chưa khai thác sâu về nhiều khía cạnh của di cư đối với phát
triển kinh tế. Đặc biệt, nguyên nhân và bản chất của vấn đề di cư chưa được đặt ra xem xét
một cách nghiêm túc trong công tác hoạch định kế hoạch và chính sách kinh tế - xã hội. Di
cư được xem là vấn đề cấp bác cần giải quyết, là yếu tố đánh đổi cho sự phát triển mà
không phải là một yếu tố tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội
trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.

Trong vài thập niên trở lại đây, Việt Nam đang trải qua quá trình quá độ từ mô
hình xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại với những biến đổi sâu sắc về kinh tế văn


hóa và xã hội. Quá trình biến đổi này đang thúc đẩy tốc độ đô thị hóa và như là một kết
quả tất yếu, xu hướng di dân nông thôn thành thị đang tăng lên cả về số lượng lẫn chất
lượng với quy mô và cường độ ngày càng cao. Có thể thấy di cư trong nước đóng góp
một phần không nhỏ cho sự tăng trưởng kinh tế cả ở cấp quốc gia và hộ gia đình thông


qua việc di chuyển của người lao động nhằm đáp ứng nhu cầu lao động trong các khu
công nghiệp và trong các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời thông qua đó đã
đóng góp vào phát triển kinh tế gia đình của số lượng lớn các gia đình có người di cư.
Do đó nghiên cứu về di cư và tác động của di cư là rất cần thiết, thường xuyên và cấp


2

bách trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Vì thế nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài:
“Ảnh hưởng của di cư trong nước đến phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam”.

1.2.

Mục đích nghiên cứu

Bài tiểu luận được xây dựng nhằm mục đích phân tích, đánh giá thực trạng
những tác động di cư trong nước đến phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, từ đó đề
xuất những kiến nghị điều tiết tình hình di cư nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội theo hướng bền vững.

1.3.

Phương pháp nghiên cứu

Bài tiểu luận sử dụng một số phương pháp sau: phương pháp thu thập thông tin,
phương pháp phân tích và so sánh, phương pháp tổng hợp số liệu.

1.4.

Tổng quan các nghiên cứu trước đây và đóng góp của đề tài


1.4.1. Tổng quan nghiên cứu trước đây
 Các nghiên cứu nước ngoài

Di cư là hiện tượng xã hội gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Vì thế các công trình nghiên cứu về di cư của con người có từ rất sớm và di cư là sự


quan tâm của tất cả các quốc gia, các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức
Lao động quốc tế ILO, Tổ chức di cư quốc tế IMO, Ngân hàng Thế Giới, Ngân hàng
Phát triển Châu Á, cũng như các tổ chức liên kết khu vực như EU, ASEAN,…

Đầu tiên, đó là những công trình bàn về lý thuyết di cư với ý nghĩa tạo khung lý
thuyết cho nghiên cứu di cư nói chung và di cư quốc tế nói riêng. Người mở đầu cho xây
dựng lý thuyết xã hội học di dân là E.G Ravenstein (1985), ông xây dựng công trình
nghiên cứu “The Laws of Migration” (Quy luật của di cư), và từ đó đã rút ra 6 quy luật
của di cư. Tiếp đến là Evertt S. Lee (1966) với nghiên cứu “A Theory of Migration” (Lý
thuyết di cư), đã xây dựng nên lý thuyết lực hút, lực đẩy khi giải thích nguyên nhân di cư
cũng như phân loại các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến quá trình dịch chuyển dân cư.


3

Thứ hai là, nghiên cứu về lịch sử di cư. Thông qua các nghiên cứu địa lý – lịch
sử, các quy luật của di cư đã được phát hiện và nhiều vấn đề trong sự hình thành các
quốc gia dân tộc đã được làm sáng tỏ. Ở Liên Xô trước đây, nổi tiếng có Poksisevxki,
với những tác phẩm như chuyên khảo “Khẩn hoang Xibia” (1951), “Địa lí dân cư
Liên Xô” (1971), “Địa lí dân cư các nước ngoài” (1971), trong đó có các nghiên cứu
và các bản đồ về các luồng di cư trong lịch sử. Ở Hoa Kỳ, có thể kể đến các công trình
nghiên cứu lịch sử nhập cư vào nước Mỹ, chẳng hạn như tác phẩm “Ethnic Americans:

A History of Immigration” của Leonard Dinnerstein and David M. Reimers trình bày
khá đầy đủ các giai đoạn nhập cư ở Hoa Kì từ năm 1492 đến năm 2008.

Thứ ba là, nghiên cứu về các vấn đề di cư quốc tế. Trong xã hội hiện đại, sự di cư
giữa các nước diễn ra ở quy mô rất lớn. Những cuộc chiến tranh (như chiến thế giới lần thứ
nhất, chiến thế giới lần thứ hai, các cuộc xung đột khu vực, nhất là các điểm nóng ở châu
Phi, Trung Cận Đông,…) đã làm cho các cuộc tị nạn, rồi các cuộc hồi hương trở thành mối
quan tâm quốc tế. Quá trình toàn cầu hóa với sự di chuyển lao dộng dễ dàng hơn giữa các
nước, từ di cư của những người lao động phổ thông đến di cư của lao động có chuyên môn
cao là những dòng di cư rất đặc biệt, giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển.
Rồi những vấn đề về hậu quả của các cuộc di cư quốc tế này tại các nước nhập cư đã ảnh
hưởng lớn đến chính sách của nhiều nước, khi “nóng”, khi “lạnh”. Những vấn đề chung và
các mẫu hình di cư quốc tế và nội địa đã được nêu ra ở cuộc họp giữa nhóm các chuyên gia
về phân bố dân cư và di cư của Liên Hợp Quốc tại Santa Cruz, Bolivia, tháng Giêng 1993
và được công bố trong cuốn “Population Distribution and Migration” (1998). Nhiều bài


báo về di cư quốc tế được đăng trên tạp chí quốc tế có uy tín là “International Migration”,
bản quyền của Tổ chức quốc tế về di cư (IOM), do NXB Wiley-Blackwell xuất bản.
Những xu hướng và những vấn đề lớn trong di cư quốc tế đã được phản ánh trong “Báo
cáo di cư thế giới 2010” của IOM với phụ đề: “Tương lai của di cư - nâng cao năng lực
để thay đổi”. Tổ chức OECD, công bố nghiên cứu “International Migration Outlook
2011” (Di cư quốc tế toàn cảnh 2011) với chủ đề “Di cư trong thế giới hậu khủng hoảng”,
trong đó các phân tích về xu hướng di cư quốc tế đã đề cập đến những người di cư vĩnh
viễn, những lao động nhập cư tạm thời, các vấn


4

đề liên quan đến thế hệ sau của người nhập cư và cư dân ngoại kiều ở các nước OECD,

vai trò của người nhập cư trong vấn đề tạo việc làm, cũng như việc phát triển chính
sách di cư ở các nước này. Ngoài ra còn có thể kể đến hàng loạt công trình nghiên cứu
khác như: “Migration in a globalised world” do Cedric Audebert, Mohamed Kamel
Dorai làm chủ biên. Trong công trình này các tác giả đã chứng minh rằng các mẫu hình
di cư đã thay đổi trong bối cảnh toàn cầu hóa, các vấn đề mới nảy sinh đối với những
người nhập cư và các nước nhận người nhập cư, đặc biệt là ở các xã hội hậu công
nghiệp, những vấn đề về di cư và phát triển, di cư cưỡng bức,...

Bốn là, các nghiên cứu đề cập trực tiếp về di cư từ Việt Nam ra nước ngoài
trong lịch sử. Điển hình là công trình của M. Giovanna Merli (1997), “Estimation of
International Migration for Vietnam” (Ước lượng về di cư quốc tế) giai đoạn 19791989, “The Human Rights Solidarity for Women and Migration (2001), Migrant
Women and Inter-ethnic Marriage” (Phụ nữ di cư và hôn nhân liên tộc người) bàn về
vai trò của di cư với phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa hoặc hình thành quan hệ tộc
người mới thông qua hôn nhân.
 Các nghiên cứu trong nước

Trong khoảng 20 năm trở lại đây, vấn đề di cư ở nước ta đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu và đã có một số kết quả đã được công bố, trong đó có di cư
liên tỉnh, liên vùng, di cư nhìn từ góc độ lịch sử… Các chuyên đề được nghiên cứu tùy
theo từng thời kỳ, với những đặc điểm riêng về luồng chuyển cư, địa bàn chuyển cư.


Các công trình đã tập trung nghiên cứu các xu hướng di cư nông thôn - thành thị, di cư
nông thôn - nông thôn. Địa bàn nghiên cứu có thể là cả nước, các vùng lớn hay trong
phạm vi một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Trong những năm sau thống nhất đất nước cho đến đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX,
quá trình đô thị hóa ở nước ta còn diễn ra rất chậm chạp, thậm chí có thời kì có dòng người
hồi cư từ thành phố về nông thôn sau chiến tranh, hơn nữa việc di dân đi xây dựng các
vùng kinh tế mới là chủ yếu, nên trong thời kì này, các nghiên cứu chủ yếu là về dòng di

cư nông thôn - nông thôn. Có thể kể ra một số nghiên cứu điển hình: Đỗ Minh Cương
(1998) – “Di cư nông thôn đến nông thôn thực trạng và giải pháp”, Nguyễn Thị


5

Bích Hà (2002) – “Phân tích thực trạng di dân đến Đắc Lắc và ảnh hưởng của nó tới phát
triển kinh tế - xã hội”, Phạm Bách Hợp – “Thực trạng và giải pháp vấn đề di dân tự do ở
Bình Phước”. Trong khuôn khổ dự án VIE/93/P02 do Bộ Lao động và Thương binh chủ trì
đã công bố kết quả nghiên cứu “Di cư tự do đến Đồng Nai và Vũng Tàu”. Hầu hết các Chi
cục phát triển nông thôn các tỉnh trong vùng ĐNB đều có “Báo cáo một số chủ trương,
giải pháp giải quyết tình trạng di dân”, phục vụ cho công tác điều hành của địa phương,
những vùng kinh tế mới. Cùng với quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa, phát triển khu
vực dịch vụ, cũng như do sự chênh lệch trong phát triển vùng, giữa nông thôn và thành thị,
cũng như những thay đổi trong chính sách quản lí đô thị, nên dòng di cư nông thôn đến đô
thị ngày càng diễn ra ở qui mô lớn, có nhiều tác động KT-XH đến sự phát triển của đô thị.
Chính vì thế, di cư nông thôn - thành thị với các khía cạnh khác nhau là chủ đề cho nhiều
nghiên cứu. Có thể kể ra ở đây: Doãn Mậu Diệp, Trịnh Khắc Thẩm (1998) – “Di dân nông
thôn – đô thị ở Việt Nam: bản chất – mối quan hệ và chính sách quản lý”, Doãn Mậu Diệp
(1998) – “Di dân nông thôn vào đô thị: Loại hình và giải pháp” (trường hợp đô thị Hà
Nội), Nguyễn Văn Tài và các cộng sự (1998)

– “Di dân tự do nông thôn - thành thị ở Thành phố Hồ Chí Minh”, Đỗ Thị Minh Đức
(2004) – “Di cư vào các đô thị lớn ở nước ta trong thập kỉ 90 của thế kỉ XX” (Phân tích

trường hợp TP. HCM và Hà Nội).

Di cư liên tỉnh, liên vùng cũng được nghiên cứu trong các công trình của Nguyễn
Viết Thịnh và Đỗ Thị Minh Đức (2001) – “Di cư giữa các tỉnh và các vùng ở Việt Nam từ



giữa thập kỉ 80 đến cuối thập kỉ 90 của thế kỉ 20”. Đỗ Thị Minh Đức, Nguyễn Viết Thịnh
(2008) – “Phân tích dòng di cư và tính chọn lọc của di cư vào các thành phố lớn

ở Việt Nam trong thập kỉ 90 (thế kỉ XX) và thập kỉ đầu thế kỉ XXI”.

Những vấn đề về tác động tích cực và tiêu cực của di dân đến vùng tiếp nhận, di cư
và phát triển, cũng như các đề xuất chính sách có ở tất cả các nghiên cứu kể trên, tuy nhiên
có thể thấy rõ, nhất là đối với vùng đô thị, ở các nghiên cứu sau đây: Lê Văn Thành (1998)
– “Dân nhập cư với vấn đề phát triển một đô thị lớn như Thành phố Hồ Chí Minh”. Phạm
Thị Xuân Thọ (2002) – “Di dân Thành phố Hồ Chí Minh và tác động của nó đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội”. Trần Thị Hương (2005) – “Dân nhập cư và


6

những tác động của nó đến sự phát triển kinh tế- xã hội tỉnh Đồng Nai”. Đỗ Thị Minh
Đức, Nguyễn Viết Thịnh (2010) – “Di cư ở Hà Nội và những chính sách quản lý”.
Đặng Nguyên Anh (2005) – “Di cư trong nước: cơ hội và thách thức cho Đổi mới và
phát triển ở Việt Nam”.

Một số vấn đề chuyên biệt về người di cư đã được các chuyên gia quan tâm.
Chẳng hạn, Đặng Duy Anh với công trình nghiên cứu“Vai trò của mạng lưới xã hội
trong quá trình di cư”. Đinh Thái Hà với “Nghiên cứu thực trạng mức sống người lao
động nhập cư tại các khu công nghiệp ở TP. HCM Đồng Nai và Bình Dương”. Trịnh
Duy Luân và cộng sự (2008), “Thanh niên di cư ở Việt Nam: Xu thế và các vấn đề”.
Viện kinh tế thành phố Hồ Chí Minh trong khuôn khổ dự án VIE/93/P02 cũng đã công
bố công trình “Di dân, nguồn lực, việc làm và đô thị hóa ở thành phố Hồ Chí Minh”.
Các cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở 1999, 2009 đều có các nội dung liên quan đến
tình trạng nhập cư trong vòng 5 năm trước thời điểm điều tra.


1.4.2. Đóng góp của đề tài



Tồng quan các nghiên cứu đã có trong và ngoài nước từ đó xây dựng cơ sở lí
luận cho di cư và vận chúng vào nghiên cứu ở Việt Nam.



Phân tích thực trạng tình hình di cư trong nước.




Trình bày ảnh hưởng của di cư trong nước đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở
Việt Nam với tác động tích cực và tiêu cực.



1.5.

Đề xuất một số kiến nghị định hướng cho di cư trong nước ở Việt Nam.

Kết cấu của đề tài

Bài tiểu luận gồm 4 chương:

Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu


Chương 2: Cơ sở lý luận về di cư

Chương 3: Thực trạng tình hình di cư trong nước và ảnh hưởng của nó tới phát
triển kinh tế

Chương 4: Kết luận và kiến nghị


7

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DI CƯ

2.1.

Khái niệm di cư

Di cư là khái niệm được các nhà nghiên cứu định nghĩa không thống nhất. Có nhà
nghiên cứu coi đó là sự “thay đổi nơi cư trú cố định”; có nhà nghiên cứu lại coi “sự thoát
ly/rời tách khỏi cộng đồng sống” là nội dung chính trong nội hàm khái niệm di cư. Có nhà
nghiên cứu cho rằng “giá trị hệ thống dựa trên đó con người/cộng đồng người lựa chọn nơi
cư trú” là tiêu chí chủ yếu nhận dạng quá trình di cư. Tổng hợp lại, di cư có thể hiểu là sự
chuyển dịch của con người từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác trong
thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn. Nói cách khác,
di cư là một thuật ngữ mô tả quá trình di chuyển dân số hoặc quá trình con người rời bỏ
hoặc hội nhập, hoặc thiết lập nơi cư trú mới vào một đơn vị hành chính

- địa lý trong một thời gian nhất định. Di cư có thể liên quan đến sự di chuyển của một
hay cá nhân, một gia đình, thậm chí cả một cộng đồng.

2.2.


Nguyên nhân của di cư

Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến sự di cư của con người. Người di cư có
thể di chuyển nơi cư trú bởi những nguyên nhân như kinh tế, đoàn tụ gia đình, học tập,
môi trường... Nhìn chung, trong mỗi nguyên nhân đó thường chứa đựng những nhân tố


đẩy và thu hút con người di cư. Nhân tố thúc đẩy người di cư gắn liền với nơi mà họ đang
muốn rời bỏ, thường là những vấn đề mà hậu quả của nó khiến con người muốn di chuyển
nơi sinh sống. Nhân tố lôi kéo người di cư thường là những sự hấp dẫn, lợi ích ở những
nơi/vùng có điều kiện phát triển mà thu hút được sự chú ý của họ. Do phạm vi và nội dung
bài tiểu luận, ta đề cập đến những nguyên nhân liên quan đến kinh tế. Sự thiếu hụt và dư
thừa nguồn nhân lực sẽ dẫn đến việc người dân di cư từ vùng này sang vùng khác. Không
những vậy, sự chênh lệch về tiền lương giữa các vùng cũng sẽ dẫn đến quyết định di cư
của người lao động. Như vậy, có thể nói, nguyên nhân chủ yếu của di cư là do sự chênh
lệch về thu nhập, sức hấp dẫn cũng như nguồn nhân lực giữa các vùng kinh tế cùng điều
kiện sống. Ngoài ra, lý thuyết kinh tế học mới cho rằng, hoạt động di


8

cư còn đi kèm với sự mong muốn phát triển hơn và đa dạng hoá khả năng kinh tế. Lý
thuyết này cho rằng sự khác biệt về mức lương không phải là điều kiện cần để hiện
tượng di cư xảy ra và quyết định di cư không phải do ý chí của chính các cá nhân mà
phụ thuộc phần lớn vào quyết định của gia đình. Các hộ gia đình không chỉ muốn tối
đa hóa thu nhập dự kiến mà còn muốn tối thiểu hóa những rủi ro và giảm bớt đi những
gánh nặng do những đổ vỡ hay thất bại do thị trường địa phương mang lại bởi những
thất bại này ảnh hưởng trực tiếp tới phúc lợi và cản trở sự phát triển kinh tế của chính
các hộ gia đình. Vì vậy, không ít trường hợp một gia đình với điều kiện kinh tế tương

đối vững mạnh vẫn sẵn sàng để những người thân trong gia đình mình sang nước khác
sinh sống và hoạt động kinh tế.

2.3.

Phân loại di cư

Dựa trên những cơ sở khác nhau, có thể phân chia di cư thành các loại hình khác
nhau. Trên cơ sở thời gian, di cư bao gồm: di cư lâu dài, di cư tạm thời và di cư mùa vụ.
Phân loại theo tính chất của tổ chức di cư bao gồm: Di cư có tổ chức, di cư tự phát và di cư
bắt buộc. Về địa bàn đến, di cư có bốn loại hình: nông thôn - nông thôn; nông thôn - thành
thị; thành thị - thành thị và thành thị - nông thôn. Ở Việt Nam, di cư tự do có cả bốn loại
hình, song phổ biến hơn cả là hai loại hình nông thôn – nông thôn và nông thôn

– thành thị.


9

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH DI CƯ TRONG

NƯỚC VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ

3.1.

Tình hình di cư trong nước

Theo kết quả phân tích số liệu từ cuộc Điều tra Di cư Nội địa Quốc gia năm
2015, có khoảng 13,6% dân số (12,4 triệu người trong tổng số 91 triệu dân) là người di
cư trong vòng 5 năm (2010-2015). Để có cái nhìn tổng quát về tình hình di cư trong

nước, ta có biểu đồ cơ cấu luồng di cư của lần di chuyển gần nhất như sau:

Biểu đồ 3. 1. Cơ cấu luồng di cư của lần di chuyển gần nhất

Biểu đồ 3.1: Cơ cấu luồng di cư của lần di chuyển gần nhất

20%
32%
12%

Thành thị - Thành thị
Nông thôn - Thành thị

36%

Thành thị - Nông thôn
Nông thôn - Nông thôn


Nguồn: Tổng cục thống kê

Xét theo 4 luồng di cư (thành thị - thành thị, nông thôn - thành thị, thành thị nông thôn và nông thôn - nông thôn), luồng di cư từ nông thôn đến thành thị chiếm tỷ
trọng cao nhất (36%) và cao gấp 3 lần so với di cư từ thành thị đến nông thôn (12%).
Điều đó cho thấy người di cư có xu hướng di chuyển đến những nơi có điều kiện kinh
tế, cơ hội việc làm và cơ sở vật chất tốt hơn.

Tỷ lệ người di cư trong nhóm tuổi 15-59 là 17,3%, trong đó 19,7% ở khu vực thành
thị và 13,4% ở khu vực nông thôn. Như vậy có thể thấy đa số người di cư đang ở trong độ
tuổi lao động. Cũng theo cuộc điều tra này, trên phạm vi toàn quốc, có gần 30% trong tổng
số 4.969 người di cư được hỏi cho biết họ di chuyển vì lý do “tìm được việc



10

làm ở nơi mới”; 11,5% di cư để có “điều kiện làm việc tốt hơn”; 11,9% di cư để “thuận
tiện cho công việc” và 12,6% di cư để “cải thiện đời sống”. Từ đó có thể thấy mục đích
di cư chủ yếu là liên quan đến việc làm. Tuy nhiên cũng có sự khác biệt giữa các vùng
về lý do di cư do “tìm được việc làm ở nơi ở mới”. Đồng bằng sông Hồng, Trung du và
miền núi phía Bắc và Đông Nam Bộ là các vùng có nhiều người di cư đến vì lý do này
nhiều nhất, tương ứng là 41,8%; 40,5% và 37,6% trong khi đó tỷ lệ người di cư vì lý
do liên quan đến việc làm ở vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Miền Trung là thấp nhất
14,3%.

Do mục đích di cư chủ yếu là liên quan đến việc làm nên có thể thấy đa số người di
cư đều có việc làm. Theo số liệu thống kê mới nhất của cuộc Điều tra Di cư nội địa Quốc
gia, tỷ trọng lao động di cư có việc làm chiếm 74,2% tổng số người di cư. Tỷ trọng này ở
nam giới cao hơn ở nữ giới gần 9 điểm phần trăm (79,1% so với 70,2%). Đông Nam Bộ là
vùng có tỷ trọng người di cư có việc làm cao nhất trong cả nước (89,5%) do vùng này là
nơi tập trung các khu công nghiệp lớn của cả nước, đặc biệt ở các tỉnh như Bình Dương,
Bà Rịa - Vũng Tàu. Tỷ trọng người di cư có việc làm thấp nhất được quan sát thấy ở vùng
Đồng bằng sông Cửu Long (59,7%) do nhu cầu việc làm ở vùng này thấp và chủ yếu là
các ngành nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn nhất định.

Để thấy rõ hơn về tình hình di cư trong nước, ta có bảng số liệu về tình hình di
cư của hai thành phố lớn nhất cả nước là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh như sau:


Bảng 3. 1: Tỷ lệ người di cư và không di cư theo loại hoạt động ở Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh


Chia ra
Vùng kinh tế - xã hội và loại

Không

hoạt động

di cư

Di cư quay
Di cư

Di cư đến

về, gián đoạn

Thành phố Hà Nội
Tổng
Có việc làm

100,0

100,0

100,0

100,0

77,2


71,1

70,3

78,4


11

Sinh viên/Học sinh/Người học việc

3,2

23,7

25,4

7,8

Mất khả năng lao động

0,3

0,0

0,0

0,0

12,2


2,5

2,1

5,9

Đợi việc/Chưa có việc/Mất việc

1,9

1,3

1,1

3,9

Không có nhu cầu tìm việc

1,9

0,4

0,0

3,9

Khác

3,2


1,0

1,1

0,0

Số lượng (người)

312

523

472

51

100,0

100,0

100,0

100,0

74,0

72,0

71,6


77,4

Sinh viên/Học sinh/Người học việc

5,0

11,0

11,7

0,0

Mất khả năng lao động

0,7

0,6

0,6

0,0

15,0

12,0

11,9

12,9


Đợi việc/Chưa có việc/Mất việc

2,0

1,4

1,1

6,5

Không có nhu cầu tìm việc

0,3

0,8

0,9

0,0

Khác

3,0

2,2

2,1

3,2


Số lượng (người)

300

500

469

31

Nội trợ

Thành phố Hồ Chí Minh
Tổng
Có việc làm

Nội trợ

Nguồn: Tổng cục thống kê

Qua bảng dữ liệu, có thể thấy ở cả hai thành phố lớn người di cư chủ yếu là những
người đã có việc làm, họ di cư đến các thành phố lớn để tìm kiếm những cơ hội việc làm
tốt hơn. Điều này hoàn toàn phù hợp với số liệu thống kê người di cư ở trong nước đã tìm
hiểu ở phần trên. Tiếp đó là nhóm Sinh viên/Học sinh/Người học việc, di cư với mục đích
học tập. Nhóm người không di cư chủ yếu đến từ những người không và chưa có nhu cầu


tìm việc như nội trợ, những người mất khả năng lao động… Một điều đặc biệt là số lượng
người di là Nội trợ ở thành phố Hồ Chí Minh cao hơn hẳn ở Hà Nội, điều này có thể do

những khác biệt về văn hóa và nhu cầu việc làm của hai vùng.


12

3.2.

Ảnh hưởng của di cư trong nước tới phát triển kinh tế Việt Nam

3.2.1. Tác động tích cực

Có thể nói, di cư mang lại rất nhiều tác động tích cực cho sự phát triển kinh tế ở
Việt Nam. Trước hết, di cư góp phần bổ sung lực lượng lao động cho đô thị. Người nhập
cư đóng góp vào nguồn cung lao động cho các đô thị, là một trong những yếu tố đầu vào
của quá trình sản xuất. Thực tế cho thấy, nhu cầu về lao động thường xuyên biến động phụ
thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Trong quá trình phát triển, các thành
phố không chỉ có nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao, lao động đã qua đào tạo, có
trình độ cao mà bên cạnh đó, các thành phố còn có nhu cầu về lao động phổ thông, giản
đơn và dân nhập cư sẽ đáp ứng nhu cầu này. Về vấn đề này, V.I.Lênin đã từng nói: “Dân
cư nông thôn đi về thành phố là một hiện tượng tiến bộ”. Lao động nhập cư thường linh
hoạt và tích cực hơn trong việc tìm kiếm việc làm, họ đến thành phố vì lí do kinh tế là chủ
yếu, nên họ chấp nhận làm những việc nặng nhọc, vất vả, không ổn định như giúp việc
nhà, trông trẻ, chạy xe ôm đến làm công nhân trong các công trường xây dựng… những
công việc mà các nhà nghiên cứu thường xếp vào loại các công việc 3K (khó khăn, không
sạch sẽ và không an toàn). Hơn nữa, đối với nhiều thành phố, quá trình đô thị hóa diễn ra
nhanh, số lượng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp nhiều, tạo ra nhiều cơ hội việc làm
nhờ phát triển các hoạt động phi nông nghiệp như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, buôn
bán và dịch vụ nên nhu cầu về nguồn lao động rất lớn và phần lớn bộ phận người nhập cư
phần nào sẽ đáp ứng nhu cầu lao động đó.



Không chỉ vậy, di cư còn góp phần cho sự phát triển kinh tế ở các thành phố. Lao
động nhập cư vào các thành phố không chỉ là nguồn lực cho phát triển, họ còn đóng góp
vào tăng trưởng sản lượng của địa phương. Sự đóng góp này có thể được xem xét trên cả
hai góc độ: tổng cung và tổng cầu. Dưới góc độ tổng cung, người lao động nhập cư với tư
cách là nhân tố lao động tham gia trực tiếp vào việc tạo ra sản phẩm cho nền kinh tế. Dưới
góc độ tổng cầu, sự đóng góp của người nhập cư thông qua việc chi tiêu dùng cá nhân như:
ăn uống, thuê nhà ở, một số dịch vụ xã hội khác… Ngoài ra, người nhập cư còn đóng góp
một nguồn vốn không nhỏ cho việc đầu tư và mở rộng sản xuất ở các


13

thành phố thông qua phần thu nhập tích lũy được sau khi đã gửi về quê. Theo số liệu
điều tra di dân tự do vào Thành phố Hồ Chí Minh của Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh cho thấy từ 52% đến 54% số người nhập cư có đem theo tiền khi tới thành phố,
với số tiền tính trung bình mỗi người đem theo từ 6 đến 7 triệu đồng. Như vậy người
nhập cư đến thành phố không phải chỉ là những người nghèo khó không có của cải mà
trong số họ không ít người có vốn, có nghề nghiệp, kinh nghiệm làm ăn buôn bán, từ
đó thúc đẩy kinh tế ở đô thị phát triển. Đối với những người nhập cư có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao thì có thể tạo ra đầu tư mới, doanh nghiệp mới và việc làm
mới. Qua đó có thể làm tăng quy mô việc làm và thu nhập cho người dân ở nơi đến.
Khi người nhập cư vào đô thị sẽ làm tăng cầu về hàng hóa, dịch vụ, nhà ở, y tế, giáo
dục… dẫn đến thúc đẩy các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ phát
triển, nhiều nhà máy xí nghiệp được hình thành để đáp ứng nhu cầu đó, tình hình thu
hút đầu tư được đẩy mạnh… qua đó thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của các đô thị.

Như vậy, với thu nhập và chi tiêu của mình, người lao động nhập cư đã góp
phần vào sự tăng trưởng kinh tế ở cả nơi họ đi và đến.


3.2.2. Tác động tiêu cực

Tuy di cư mang đến nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế, nhưng bên cạnh đó
nó cũng để lại nhiều tác động tiêu cực. Trước hết,di cư tạo sức ép về dân số, lao động


và việc làm. Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ở nhiều thành phố lớn trên thực tế
đã tồn tại nay lại được bổ sung thêm do tình trạng di dân ngoại thành vào, điều đó làm
cho số người có nhu cầu giải quyết việc làm mỗi năm tăng nhanh, gây nên sức ép về
việc làm tại các thành phố ngày càng tăng. Đây cũng là nguyên nhân dẫn tới những mặt
tiêu cực khác phát sinh như nạn trộm cướp, lô đề, cờ bạc, mại dâm… tạo ra gánh nặng
về mặt kinh tế, xã hội cho các thành phố. Hơn nữa, nhiều nghiên cứu cho thấy trình độ
của người nhập cư thấp, không đáp ứng được yêu cầu công việc, trong khi lao động
phổ thông dư thừa, do đó, áp lực giải quyết việc làm ngày càng lớn.


×