Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Luận văn sư phạm Đối thoại trong truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.4 KB, 56 trang )

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình
và chu đáo của cô Nguyễn Thị Tính - Giảng viên tổ Văn học Việt Nam, các
thầy, cô trong tổ Văn học Việt Nam, cùng toàn thể các thầy, cô trong Khoa Ngữ
văn - Trường ĐHSP Hà Nội 2. Khoá luận đó được hoàn thành vào ngày 30
tháng 04 năm 2010.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Tính cùng toàn thể các
thầy cô trong khoa đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.

Hà Nội, ngày 30 tháng 04 năm 2010
Sinh viên

Đào Thuỳ Dung

Đào Thuỳ Dung – K32A

1

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khoá luận tốt nghiệp với đề tài: “Đối thoại trong


“Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ” là một công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, căn cứ, kết quả nêu trong đề tài là trung thực. Đề tài chưa từng
được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 30 tháng 04 năm 2010
Sinh viên

Đào Thuỳ Dung

Đào Thuỳ Dung – K32A

2

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài. ...................................................................................... 5
2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 8
4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 8
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 9
6. Đóng góp của khoá luận ........................................................................... 9
7. Bố cục của khoá luận................................................................................ 9

Nội dung
Chương1. Những vấn đề chung .................................................................... 10
1.1.Thể loại truyền kì ................................................................................. 10
1.1.1. Khái niệm ................................................................................... 10
1.1.2. Đặc trưng của thể loại truyền kì .................................................. 10
1.2. Nguyễn Dữ và tác phẩm “Truyền kì mạn lục” .................................... 11
1.2.1. Thân thế và cuộc đời Nguyễn Dữ ............................................... 11
1.2.2. Tác phẩm “Truyền kì mạn lục” .................................................. 12
1.3. Quan niệm về đối thoại ....................................................................... 15
Chương 2. Đối thoại trong “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ

18

2.1. Đối thoại trên phương diện quan niệm về tư tưởng .............................. 18
2.1.1. Đối thoại với các tư tưởng, quan niệm tôn giáo triết học............. 18
2.1.2. Đối thoại với quan niệm, tư tưởng dân gian ................................ 33
2.2. Đối thoại trên phương diện kết cấu truyện ........................................... 42
2.2.1. Khái niệm kết cấu ....................................................................... 42
2.2.2. Vai trò của kết cấu ...................................................................... 43
2.2.3. Kết cấu đối thoại ......................................................................... 44

Đào Thuỳ Dung – K32A

3

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2


Khoá luận tốt nghiệp đại học

2.2.4. Kết cấu đối thoại trong “Truyền kì mạn lục”.............................. 44
Kết luận......................................................................................................... 54
Tài liệu tham khảo........................................................................................ 56

Đào Thuỳ Dung – K32A

4

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Truyền kì là một thể loại văn học ra đời và phát triển mạnh trong thời kì
trung đại Việt Nam. Bản chất của thể loại này là ghi chép những truyện kỳ lạ
được lưu truyền. Trong văn học Việt Nam, “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn
Dữ đã đánh một dấu mốc rất quan trọng. Nguyễn Dữ trở thành “cha đẻ” của
thể loại truyền kì và chủ nghĩa nhân văn trong văn học Việt Nam trung đại. Viết
“Truyền kì mạn lục”, ngoài việc tiếp thu, kế thừa, sử dụng những “chất liệu”
có sẵn từ dân gian và văn học viết đời trước, ông còn phát huy khả năng sáng
tạo, tưởng tượng, hư cấu và tư tưởng “mạn lục” để tạo nên áng “thiên cổ kì
bút” đặc sắc này. Vì thế, khi lựa chọn “Truyền kì mạn lục” để nghiên cứu,
chúng tôi nhằm tìm hiểu sâu giá trị, ý nghĩa của tác phẩm.
Hơn thế, cuộc sống chỉ thực sự “sống” nếu có sự trao đổi, qua lại, sự đối

thoại giữa người với người. Nhưng không phải cuộc đối thoại nào cũng trao
đổi, cũng diễn ra một cách trực tiếp. Bởi đôi khi cuộc đối thoại lại được diễn ra
một cách gián tiếp, âm thầm. Đó chính là cuộc “đối thoại ngầm” giữa nhà văn
và bạn đọc để nhà văn có thể bộc lộ tư tưởng, tình cảm của mình nhằm giải
thích, chứng minh một sự kiện, một vấn đề xã hội nào đó thông qua tác phẩm.
Nguyễn Dữ, bằng “Truyền kì mạn lục”, đã gửi gắm nhiều tâm sự, nỗi niềm
chất chứa nhằm “đối thoại” với những tư tưởng Nho, Phật, Đạo giáo cũng như
với quan niệm dân gian. Cuộc đối thoại này không diễn ra trực diện, không thể
hiện ngay trên bề mặt tác phẩm mà ẩn sâu trong từng lớp chữ, từng lời văn nên
không dễ dàng nhận diện ra được.
Bởi vậy, khi tìm đọc tác phẩm để nghiên cứu, chúng tôi xét thấy việc tìm
hiểu “Đối thoại trong “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ” là một đề tài
hay, mang lại nhiều ích lợi. Không chỉ cho chúng tôi khi thực hiện nghiên cứu

Đào Thuỳ Dung – K32A

5

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

về tác phẩm, mà còn cho nhiều bạn đọc khác khi muốn tiếp cận tìm hiểu thể
loại truyền kì nói chung và tác phẩm “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ nói
riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Là một “thiên cổ kì bút”, “Truyền kì mạn lục” thu hút được sự chú ý của

nhiều nhà nghiên cứu khác nhau ở trong và ngoài nước.
Tác giả Bùi Văn Nguyên, trong bài viết “Bàn về yếu tố dân gian trong
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ” trên Tạp chí Văn học, số 11/1968, khẳng
định về sự tiếp thu cốt truyện và các môtip từ dân gian để viết “Truyền kì mạn
lục” của Nguyễn Dữ. Sự tiếp thu này là “không thể tránh khỏi” nhưng cũng
“hoàn toàn hợp lí” và đầy sáng tạo.
Riêng tác giả Trần Ích Nguyên với “Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân
thoại và Truyền kì mạn lục” thì ngoài việc khẳng định “Truyền kì mạn lục”
“cải biên từ thần thoại, chí quái Việt Nam” và “ghi chép lại truyền thuyết dân
gian địa phương” còn cho rằng “ảnh hưởng” của “Tiễn đăng tân thoại” mới
thật sự sâu đậm và rõ rệt đối với “Truyền kì mạn lục”.
Song ta thấy rằng hai phẩm trên, các tác giả mới chỉ đề cập đến một vấn
đề: mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết mà chưa đề cập đến ý
nghĩa, đến sự “đối thoại” trong mỗi tác phẩm ấy là gì.
Khi nghiên cứu về cái kì ảo trong “truyền kì” có bài viết “Cái “kì” trong
tiểu thuyết truyền kì”, (Tạp chí Văn học, số 10/ 2005), tác giả cho rằng cái
“kì” là hạt nhân cơ bản của truyền kì. Bởi yếu tố “kì” không xuất hiện một
cách ngẫu nhiên mà tham gia vào cốt truyện, thúc đẩy diễn biến cốt truyện. Hơn
thế, cái “kì” còn ở sâu hơn chi phối vào tư duy nghệ thuật của tác giả. Và cái
“kì” khiến cho câu chuyện không dừng lại ở việc ghi chép mà trở thành sản
phẩm của hư cấu tưởng tượng. Qua đó, người viết nhận thấy tác giả Đinh Phan
Cẩm Vân đã phát hiện và nhấn mạnh đến nhiệm vụ nghệ thuật của yếu tố kì ảo

Đào Thuỳ Dung – K32A

6

Khoa: Ngữ văn



Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

mà chưa chỉ ra qua việc sử dụng hình thức kì ảo tác giả “Truyền kì mạn lục”
muốn đối thoại điều gì với độc giả.
Công trình nghiên cứu tiếp theo là cuốn “Con đường giải mã văn học
trung đại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đăng Na. Trong bài viết “Người con
gái Nam Xương - một bi kịch của con người”, tác giả đã đi đến khẳng định:
“Nguyễn Dữ đã vượt khỏi những công thức thông lệ về hình tượng người phụ
nữ trong thể truyền kì. Nhà văn đã phản ánh số phận Vũ Thị Thiết, tức là đã đi
tìm hiểu bi kịch muôn thuở của con người”. Đây cũng là vấn đề mà các tác giả
giai đoạn văn học thế kỉ X - XIV chưa đề cập đến.
Về so sánh “Truyền kì mạn lục” có thể kể tới các bài viết như: “So sánh
văn học và văn hoá - Nguyễn Dữ và Tiên thoại của Trung Quốc qua truyện
“Từ thức lấy vợ tiên” (GS. Trần Đình Sử, Tạp chí Văn học, số 5/ 2000);
“Nghiên cứu so sánh một số tiểu thuyết truyền kì trong Kim ngao tân thoại
(Hàn Quốc), Truyền kì mạn lục (Việt Nam) và Tiễn đăng tân thoại (Trung
Quốc)” (Toàn Tuệ Khanh, Nghiên cứu so sánh văn học, số 2/ 2005); ““Truyền
kì mạn lục” dưới góc độ so sánh” (GS. Nguyễn Đăng Na, Tạp chí Hán Nôm,
số 6 (73)/ 2005),... nhưng hầu hết các tác giả nghiên cứu mới chỉ so sánh
“Truyền kì mạn lục” trên qui mô tác phẩm chứ chưa so sánh vấn đề “đối
thoại” của tác phẩm với các tác phẩm kia.
Từ việc điểm lại lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng ta có thể đi đến kết luận
sau: Chỉ riêng về tác phẩm “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ đã có nhiều
bài viết đề cập về nội dung, khuynh hướng sáng tác, đặc biệt là vấn đề số phận
và hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội cũ, về quyền được sống và tự do
yêu đương của con người. Tuy nhiên, các bài viết trên còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ
cho nhiều hướng nghiên cứu tiếp theo.
Trên cơ sở nguồn tư liệu và tham khảo trên, chúng tôi không kiến giải gì

thêm về hình thức kì ảo và nội dung cốt truyện của tác phẩm. Song khi chọn đề

Đào Thuỳ Dung – K32A

7

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

tài này, tôi hi vọng sẽ tìm ra một cái nhìn, một cách tiếp cận mới đối với tác
phẩm “Truyền kì mạn lục”, đó là hiểu qua sự “đối thoại” của nhà văn với
những tư tưởng, quan niệm truyền thống của dân gian và các giáo lí chính
thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu đề tài “Đối thoại trong “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn
Dữ”, chúng tôi nhằm khám phá ra một khía cạnh mới về ý nghĩa của tác phẩm.
Từ đó khẳng định tài năng và tư tưởng, quan niệm của Nguyễn Dữ khi viết
“Truyền kì mạn lục” và các tác phẩm khác của ông.
Trong phạm vi khoá luận này, trên cơ sở những giáo lí, quan niệm truyền
thống của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và dân gian để tìm thấy sự “đối
thoại”, lạm bàn của tác giả. Đồng thời thấy được sự sáng tạo của nhà văn khi
xây dựng những hình tượng nhân vật so với các tác giả trước đó. Qua đây, giúp
cho việc tiếp cận, tìm hiểu “Truyền kì mạn lục” trong nhà trường và cuộc
sống phong phú hơn, hấp dẫn hơn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nắm được các quan niệm, tư tưởng truyền thống của Nho giáo, Phật giáo,
Đạo giáo và dân gian để thấy sự “đối thoại” của Nguyễn Dữ với những quan
niệm, tư tưởng ấy.
Bên cạnh đó, tìm hiểu những cơ sở lí luận, thực tế về xây dựng hình tượng
nhân vật trong văn học viết từ thế kỉ X - XIV để thấy được sự sáng tạo và tài
năng viết truyện của Nguyễn Dữ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát thống kê
Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp so sánh

Đào Thuỳ Dung – K32A

8

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tác phẩm “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ
Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề “đối thoại” trong “Truyền kì mạn lục”
6. Đóng góp của đề tài
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách khoa học về “đối thoại”
trong tác phẩm “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Qua đó, thấy được sự
đóng góp của Nguyễn Dữ với nền văn học Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là
bài tập nghiên cứu khoa học rất hữu ích cho việc học tập và giảng dạy của bản

thân tác giả khoá luận sau này.
7. Bố cục của khoá luận
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Đối thoại trong “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ

Đào Thuỳ Dung – K32A

9

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Thể loại truyền kì
1.1.1. Khái niệm
Truyền kì là một hình thức văn xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc, xuất hiện ở
đời Đường, thường sử dụng các mô típ kì quái, hoang đường trong một cốt
truyện có ý nghĩa trần thế (phần lớn là truyện tình) gợi hứng thú cho người đọc
[11, 307].
1.1.2. Đặc trưng của thể loại truyền kì
Các truyện truyền kì là những truyện ngắn, có cốt truyện, có nhân vật, mỗi
truyện có độ dài không quá một trăm trang; có không gian, có thời gian hẹp; có
số lượng nhân vật ít và có kết cấu không phức tạp, chỉ phản ánh một phương
diện, một lát cắt của cuộc sống.
Trong “truyền kì”, “truyền” là truyền đi, là lưu truyền; “kì” là kì lạ. “Kì”

được coi như đặc trưng tiêu biểu của thể loại truyền kì. Bất kì tác phẩm nào
cũng dùng yếu tố kì ảo làm phương tiện phản ánh. “Kì” là lạ, là hoang đường,
kì ảo. “Truyền” là lưu truyền, người viết sử dụng những cốt truyện có sẵn.
Yếu tố kì ảo trong truyền kì chủ yếu ảnh hưởng cái kì ảo của văn học dân
gian. Tuy nhiên nó có một số điểm khác biệt:
Yếu tố kì ảo trong văn học dân gian gắn liền với niềm tin ngây thơ
mang tính chất tuyệt đối. Thêm nữa, nó mang tính đơn nhất, một chiều: Thần,
Tiên luôn tốt, có phép vạn năng; ma quỷ là kẻ xấu xa, ác độc.
Yếu tố kì ảo trong văn học dân gian thường đáp ứng khát vọng của
con người: “Ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”. Kết thúc tác phẩm cái thiện
phải được ban thưởng, cái ác bị trừng trị xứng đáng.

Đào Thuỳ Dung – K32A

10

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

Yếu tố kì ảo sử dụng trong truyền kì làm giảm đi không ít niềm tin
ngây thơ. Nhân vật kì ảo được “nhào nặn” mang tính chất đa chiều, lưỡng hoá.
Mặt khác, yếu tố kì ảo trong tác phẩm truyền kì gắn bó mật thiết với
yếu tố thực. Tác giả dùng “kì” để nói thực. Vả lại, bản thân cái kì ảo trong tác
phẩm truyền kì nhiều khi đồng nhất với yếu tố thực. Người xưa quan niệm hai
thế giới âm dương của người sống và người chết chỉ là một, linh hồn của người
đã khuất đi về cả hai nẻo đường và ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ cuộc sống

của con người trần thế (thời trung đại có việc sắc phong cho các vị thần).
Tỉ lệ yếu tố kì và thực trong tác phẩm truyền kì thường đạt đến độ cân đối.
Nếu quá nhiều yếu tố kì thì tác phẩm sẽ trở thành truyện chí quái, dị, u linh.
Nếu quá nhiều yếu tố thực tác phẩm sẽ trở thành truyện ngụ ngôn, truyện hiện
đại.
1.2. Nguyễn Dữ và tác phẩm “Truyền kì mạn lục”
1.2.1. Thân thế và cuộc đời Nguyễn Dữ
Hiện nay, vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng tác giả của “Truyền kì mạn lục”
là Nguyễn Tự chứ không phải là Nguyễn Dữ. “Do đặc điểm văn tự, hầu hết họ
và tên các tác gia văn học trung đại Việt Nam được ghi bằng chữ Hán - Tên
của Nguyễn Dữ cũng vậy” [11, 209]. Tuy có nhiều ý kiến về Nguyễn Dữ hay
Nguyễn Tự nhưng đều có một nguồn thông tin về thân thế của tác giả như sau:
Nguyễn Dữ, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân (Hải Dương), nay là
làng Đỗ Lâm, xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện (Hải Dương). Cha của Nguyễn
Dữ là Nguyễn Tường Phiêu, tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27
(1496) đời Lê Thánh Tông. Theo Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân, người biên soạn
“Bạch Vân am cư sĩ phả kí” và Ân Quang hầu, người biên soạn tập thơ chữ
Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ không ra làm quan, ẩn cư ở núi rừng
Thanh Hoá và làm sách “Truyền kì mạn lục”. Sách ấy được Nguyễn Bỉnh
Khiêm phủ chính, trở thành “thiên cổ kì bút” [3, 506].

Đào Thuỳ Dung – K32A

11

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Nhưng theo bài tựa đề ở đầu cuốn truyện in mộc bản năm Cảnh Hưng thứ
24 (1763), Lê Quý Đôn trong “Kiến văn tiểu lục”, Bùi Huy Bích trong
“Hoàng Việt thi tuyển” và một số bài tựa ở cuốn “Truyền kì mạn lục” về sau
thì Nguyễn Dữ có đi thi Hương và đỗ Hương tiến (tức cử nhân). Sau đi thi Hội
và đỗ tam trường, ra làm quan tri huyện Thanh Toàn (nay là huyện Bình Xuyên
- Vĩnh Phúc) được một năm thì cáo quan về ở ẩn, lấy lí do là phải phụng dưỡng
mẹ già cho trọn đạo hiếu, từ đó “trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị
thành”.
Năm sinh và năm mất của Nguyễn Dữ hiện nay chưa rõ ràng. Trong
“Hoàng Việt thi tuyển”, Bùi Huy Bích xếp Nguyễn Dữ vào hàng ngũ các tác
giả thời Mạc, sau Nguyễn Bỉnh Khiêm, trước Giáp Hải và Lê Quang Bí. Lê
Quý Đôn trong “Kiến Văn tiểu lục” cũng viết: “Sau vì nguỵ Mạc cướp ngôi
vua, ông thề không ra làm quan, ở thôn quê dạy học trò không bao giờ để chân
đến thị thành”. Theo “Công dư tiệp kí” của Vũ Phương Đề, Nguyễn Dữ là học
trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), bạn học với Phùng Khắc Khoan
(1528 - 1613). Như vậy có thể biết Nguyễn Dữ sống vào đầu và giữa thế kỉ
XVI, một thời kì lịch sử đầy biến động.
Tóm lại, căn cứ vào những tài liệu hiện còn thì Nguyễn Dữ thuộc dòng
khoa hoạn, từng dùi mài kinh sử, ôm ấp lí tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã
xuất sĩ. Về sau, vì “đại thế bất an”, vì bất mãn với kẻ đương quyền, hơn là vì
phải “nuôi mẹ già cho trọn đạo hiếu”, Nguyễn Dữ lui về ẩn dật, viết “Truyền
kì mạn lục” để kí thác tâm sự và thể hiện hoài bão của mình.
1.2.2. Tác phẩm “Truyền kì mạn lục”
“Truyền kì mạn lục” gồm 20 truyện (theo Phan Huy Chú trong “Lịch
triều hiến chương loại chí” thì “Truyền kì mạn lục” gồm 22 truyện), chia
thành 4 tập, mỗi tập 5 truyện. Các truyện đều viết bằng văn xuôi, xen lẫn một ít
văn biền ngẫu và thơ ca. Trừ truyện số 19 (Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa),


Đào Thuỳ Dung – K32A

12

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

các truyện còn lại đều có lời bình của tác giả (hoặc những người có cùng chí
hướng với tác giả) ở cuối truyện. Khác với lời bàn của Sơn Nam Thúc trong
“Thánh Tông di thảo”, lời bình của các truyện ở “Truyền kì mạn lục” không
bàn về nghệ thuật văn chương, chủ yếu bàn về nội dung ý nghĩa.
Với Nguyễn Dữ khi đặt tên tác phẩm là “Truyền kì mạn lục”, ông muốn
biểu lộ một thái độ nghiêm túc, khiêm tốn của người cầm bút. Song cũng chính
bởi cái tên “Truyền kì mạn lục” mà đó gây ra nhiều tranh cãi với tên tác phẩm
này.
Trước hết nói về hai chữ “mạn lục” theo Hán ngữ đại từ điển (T6, tr 89)
giải thích rằng chữ “mạn lục” là “tuỳ bút kí lục” - viết theo cảm hứng của ngòi
bút. Và hai chữ kí lục có nghĩa là viết văn, làm văn, sáng tác,... Đồng thời, thể
mạn lục là một thể loại sáng tác văn thơ xuất hiện ở Trung Hoa khá sớm [12,
210]. Nhưng khi vào Việt Nam, hai chữ “mạn lục” đó bị các nhà viết sách Việt
Nam hiểu lạc đi so với ý nghĩa gốc của nó. Bởi thế mà “Truyền kì mạn lục”
được giải thích là “sao chép tản mạn các truyện lạ” [2, 57]; sau này được giải
thích lại là “ghi chép tản mạn các truyện truyền kì” [16, 1124]. Trong sách Ngữ
văn 9, tập 1 (sách in năm 2005, tr 49) cũng giải thích: “Truyền kì mạn lục” là
“ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền”. “Các cách giải thích
chữ “mạn lục” là “ghi chép tản mạn” có hai điều bất ổn. Thứ nhất, “Truyền kì

mạn lục” là tác phẩm văn học thuộc loại hình truyện ngắn trung đại. Do đó
không thể coi đó là tác phẩm “ghi chép”. Thứ hai, tác phẩm của Nguyễn Dữ
không hề tản mạn, dù hai chữ “tản mạn” được dùng theo kiểu tu từ nói khiêm.
Thực ra, “mạn” là tuỳ ý, không câu thúc. Bởi vậy, trong Hán ngữ có hàng loạt
từ chỉ thể loại tác phẩm có thành tố “mạn” như mạn hoạ, mạn thư, mạn bút,
mạn tả...và tất cả chúng đều dùng để chỉ thể loại tác phẩm” [7, 212].
Còn chữ “truyền kì” nếu đứng riêng thì là một thể tài của truyện ngắn
trung đại. Tức là trong truyện ngắn đó có các yếu tố về nhân vật, tình tiết, kết

Đào Thuỳ Dung – K32A

13

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

cấu... có những yếu tố lạ kì đặc biệt và người ta gọi là truyền kì. “Nhưng trong
cụm từ “truyền kì mạn lục” thì “truyền kì” lại làm định ngữ, chỉ tính chất của
thể “mạn lục”, đó là một thể tự sự viết tự do, tuỳ hứng theo ý đồ sáng tác của
tác giả, không bị câu thúc bởi bất cứ lí do gì cả” [7, 212].
Tuy cách đặt tên tác phẩm của tác giả đã để lại nhiều sự lí giải khác nhau.
Nhưng mục đích của ông là phân bua với độc giả rằng trước tác của mình
không phải là cuốn sách có tính chất trang nghiêm như thực lục, liệt truyện, và
cho đây là thứ “ngoại thư” bao gồm những truyện lạ (truyền kì) vẫn được lưu
truyền. Công việc của ông là ghi chép lại một cách rộng rãi (mạn lục) những sự
việc ấy.

Để phục vụ cho mục đích sáng tác của mình, Nguyễn Dữ đã không câu nệ,
ông sử dụng yếu tố “lạ - kì ảo” một cách có ý thức. Ông đã mượn truyện quái
để nói việc thực. Ông dựa vào những tích cũ, phần nhiều là những truyện đã
được lưu truyền từ lâu trong xã hội và được viết nên thành những thiên truyện
mới. Những truyện này thường lấy bối cảnh là thời Lí - Trần, Hồ, thuộc Minh,
Lê Sơ trên địa bàn từ Nghệ An ra Bắc. “Truyền kì mạn lục” tuy có vẻ là
“truyện kì lạ” xảy ra hàng trăm năm về trước, nhưng thực chất lại phản ánh
được những phần sâu sắc của hiện thực đương thời. Và đằng sau thái độ dè dặt,
khiêm tốn đó, Nguyễn Dữ muốn bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão của mình. Qua
tác phẩm, ông có thể phát biểu cảm nhận, bày tỏ quan điểm về những vấn đề
lớn của xã hội, của con người trong xã hội mà mọi thứ đang trên đà “suy thoái".
Nội dung của “Truyền kì mạn lục” phê phán hiện thực xã hội thối nát. Ông lên
án tầng lớp vua quan nhũng nhiễu nhân dân, làm cho cuộc sống nhân dân cơ
cực, khổ sở. “Truyền kì mạn lục” cũng phản ánh số phận con người ở thế giới
trần gian, thế giới tiên cảnh, thế giới âm phủ. Bên cạnh đó, “Truyền kì mạn
lục” còn thể hiện khát vọng hạnh phúc lứa đôi của những kiếp người bé nhỏ,
hèn mọn trong cuộc đời.

Đào Thuỳ Dung – K32A

14

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trong tác phẩm, Nguyễn Dữ đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố

thực và kì. Nhà văn đã sử dụng yếu tố “kì” như một chất liệu nghệ thuật, khiến
nó xác định vị trí, vai trò của nó trong sự sáng tạo của mình. Yếu tố kì ảo đã
giúp nhà văn phản ánh hiện thực sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, nghệ thuật xây dựng
nhân vật với những hình tượng nhân vật có tính cách, có khí phách và tính luận
thuyết làm cho các câu chuyện in đậm tính chất triết lí và quan điểm của nhà
văn được sáng tỏ. Sự kết hợp khéo léo, sáng tạo giữa ba lối văn: tản văn, biền
văn, vận văn cũng giúp cho nhà văn triển khai dòng sáng tạo một cách linh
hoạt, hấp dẫn.
1.3. Quan niệm về đối thoại
Theo Từ điển Tiếng Việt, “đối thoại” được hiểu một cách đơn giản, nó bao
gồm hai nghĩa.
Thứ nhất: Đó là cuộc nói chuyện qua lại giữa hai hay nhiều người với
nhau. Ví dụ như: Người đối thoại, cuộc đối thoại, đoạn đối thoại trong kịch…
Thứ hai: Đó là cuộc bàn bạc, thương lượng trực tiếp với nhau giữa hai
hay nhiều bên để giải quyết những vấn đề tranh chấp. Chẳng hạn như chủ
trương đối thoại không đối đầu của thế giới hiện đại.
Đây là cách hiểu về “đối thoại” trực tiếp trong cuộc sống. Trong “văn
chương” đối thoại được hiểu rộng hơn, bao gồm cả đối thoại trực tiếp và đối
thoại gián tiếp. Vậy đối thoại trực tiếp và đối thoại gián tiếp có gì giống và khác
nhau?
Đối thoại trực tiếp là cuộc đối thoại, đoạn đối thoại có sự góp mặt của
hai hay nhiều bên trực tiếp để thực hiện giải quyết một số công việc, một vấn đề
tranh chấp nào đó. Trong cuộc đối thoại trực tiếp, thường có sự tham gia phát
ngôn của tất cả các bên tham gia giao tiếp để nói lên ý nghĩ, tư tưởng, tình cảm
và lập trường của mình trước công việc cần giải quyết.

Đào Thuỳ Dung – K32A

15


Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trong bài viết “Đối thoại trong thơ Hồ Xuân Hương” của Tiến sĩ Nguyễn
Thị Nhàn (Thông báo khoa học, số 3/ 2005, tr 166) có viết: “đối thoại là một
cách thức thể hiện của nhân vật trong tác phẩm tự sự và kịch. Để có đối thoại,
cần có từ hai nhân vật trở lên. Hiểu như thế, lời đối thoại gắn với việc những
người nói hướng vào nhau và tác động vào nhau. Cùng với độc thoại nội tâm,
dòng ý thức, đối thoại giúp cho nhân vật bộc lộ tính cách, những tâm tư tình
cảm, suy nghĩ. Vì thế, đối thoại cũng trở thành một phạm trù nghệ thuật trong
sáng tác văn chương”.
Đối thoại gián tiếp cũng được hiểu là cuộc đối thoại, đoạn đối thoại
nhưng những bên tham gia giao tiếp không bắt buộc phải có mặt. Trong cuộc
đối thoại đó có thể chỉ một bên phát ngôn nhằm gửi gắm suy nghĩ, tư tưởng, lập
trường,… của mình với nhiều người khác thông qua những hình ảnh, những chi
tiết xây dựng (như cuộc đối thoại giữa nhà văn với độc giả, hoạ sĩ với người
xem thông qua tác phẩm của mình).
Từ đó ta thấy cũng là đối thoại, cũng nói về những suy nghĩ, những tư
tưởng để nhằm trao đổi với nhau nhưng chúng khác nhau ở việc trực tiếp hay
gián tiếp đối thoại với nhau.
Cách hiểu này cũng xuất hiện trong Từ điển Hán Việt: ““đối thoại thể”
tức là lời văn làm theo cách nói chuyện bằng vấn đáp”.
Đối thoại khác với trần thuật. Trần thuật thường được hiểu là tường thuật,
mô tả hoặc suy ngẫm, giải thích một sự việc nào đó “chức năng trần thuật triển
khai trong khi dao động, và điều đó diễn ra theo một cách thuộc về riêng nó”
[12, 245]. Điều đó có nghĩa là việc trần thuật phụ thuộc vào bản thân sự việc

được nói đến và phụ thuộc vào cảm quan nhìn nhận, đánh giá, kinh nghiệm
người tiến hành trần thuật. Còn đối thoại “không chỉ có chức năng trình bày
các nhân vật như chúng là thế, ở nơi mà chúng xuất hiện, nó cũng phải đảm
nhận một cách rộng rãi chức năng mô tả chặt chẽ của việc trần thuật. Cũng

Đào Thuỳ Dung – K32A

16

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

ngang như truyện kể, các đối thoại cho phép chúng ta tự định hướng qua các
vấn đề, các hoàn cảnh, các sự kiện, các nhân vật mới” [12, 246].
Nói tóm lại, đối thoại là một phương thức được sử dụng rộng rãi trong giao
tiếp sinh hoạt hằng ngày, trong ngoại giao, công vụ,… Hơn thế, nó cũng được
các nghệ sĩ sử dụng như một phương tiện hữu dụng trong sáng tạo nghệ thuật.
Người nghệ sĩ có thể qua đối thoại xây dựng những điển hình nhân vật, những
hình tượng có cá tính, có số phận, có chiều hướng phát triển con đường đời,…
để phát biểu tư tưởng, lập trường của mình trước nghệ thuật và đời sống. Từ đó
hình thành nên những phong cách riêng của mỗi người nghệ sĩ.

Đào Thuỳ Dung – K32A

17


Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

CHƯƠNG 2. ĐỐI THOẠI
TRONG “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC” CỦA NGUYỄN DỮ
2.1. Đối thoại trên phương diện quan niệm về tư tưởng
2.1.1. Đối thoại với các tư tưởng, quan niệm tôn giáo triết học
Tư tưởng tôn giáo triết học là một vấn đề phức tạp. Nó có ảnh hưởng đến
nhiều khía cạnh của cuộc sống, đặc biệt là ảnh hưởng đến quan niệm về thế giới
quan và cái nhìn về các mẫu hình của con người nói chung.
“Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội nảy sinh trên cơ sở kinh tế xã hội
và chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Do đó, tìm nguồn gốc hình thành của nó
không phải trong “ý thức” mà phải trong lịch sử xã hội, lịch sử hoạt động thực
tiễn của con người” [14, 26]. Bởi vậy, Việt Nam, đặc biệt là trong thời trung
đại, do lịch sử xã hội trải qua nhiều thăng trầm, đã từng chịu ảnh hưởng nặng
nề của nền văn hoá phương Bắc do hàng ngàn năm Bắc thuộc nên tư tưởng tôn
giáo mang tính “hỗn dung”. Tuy nhiên tính chất tôn giáo ở Việt Nam đã có sự
cải biến đôi chỗ những tôn giáo tiếp thu từ bên ngoài vào cho phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử xã hội, với đặc điểm tâm sinh lí của người Việt Nam. Phát triển ở
Việt Nam dưới thời trung đại, cụ thể là dưới thời Nguyễn Dữ viết “Truyền kì
mạn lục” là Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo, cùng một số tín ngưỡng dân gian
khác như tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng sùng
bái con người,…
Nhìn chung, mỗi một tư tưởng, một quan niệm tôn giáo lại có sự ảnh hưởng
đậm nhạt, mạnh yếu khác nhau. Chủ nghĩa Mac - Lênin cho rằng, tôn giáo chỉ
là “hạnh phúc hư ảo” của nhân dân, là “vầng hào quang thần thánh” trong cái

biển khổ của nhân dân, là “những bông hoa tưởng tượng” trên xiềng xích của
con người, là “mặt trời ảo vọng” xoay quanh con người. Điều đó có nghĩa là dù

Đào Thuỳ Dung – K32A

18

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

ảnh hưởng ở mức độ nào thì nó cũng khiến cho con người luôn cần đến nó, và
ngụp lặn trong hệ thống những quan niệm, những giáo lí chung đã hình thành.
Trước hết ta bàn về Nho giáo với những quan niệm của nó và đặt đối xứng
với quan niệm ấy là tư tưởng của Nguyễn Dữ trong “Truyền kì mạn lục”.
Người ta cho rằng đã tìm thấy những điều “phi Nho giáo” trong “Truyền kì
mạn lục” [6, 509]. Tư tưởng Nho giáo được bộc lộ rõ nhất trong đời sống đó
chính là quan niệm về con người, xây dựng nên những hình mẫu lí tưởng về
con người. Đó là hình mẫu về người quân tử với những chuẩn mực “tam cương,
ngũ thường”, “tu thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ; thông hiểu thi - thư - lễ
- nhạc”. Hình mẫu về người phụ nữ bị đối xử không công bằng, còn thiên lệch
với tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Nho giáo đã “đẻ ra” nhiều luật lệ, nguyên
tắc với người phụ nữ như không được đi học, đi thi, không được tham gia luận
bàn việc gia đình, xã hội. Đồng thời phải tuân thủ ngặt nghèo những qui tắc như
“tam tòng, tứ đức” (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử; công dung - ngôn - hạnh). Đối với các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội thì được
phân ra thành người quân tử và kẻ tiểu nhân. Quân tử là người có học, thống trị,
lao tâm; còn tiểu nhân là hạng người vô học, bị trị, lao lực,…

Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Dữ đã chịu ảnh hưởng của ánh sáng
Nho giáo một cách rõ nét. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng đó đã được Nguyễn Dữ tiếp
thu và thể hiện dưới một góc độ khác. Ngay mở đầu tác phẩm của mình, trong
truyện ngắn “Câu chuyện ở đền Hạng Vương”, Nguyễn Dữ đó cho người đọc
thấy được một cách nhìn mới, cách đánh giá mới về các nhân vật lịch sử, những
người từng được coi là “người quân tử” một thời. Truyện là cuộc đối thoại giữa
“hồn” của Hồ Tôn Thốc và hồn của Hạng Vương. Hồ Tôn Thốc là một sứ thần
Đại Việt sang đi sứ phương Bắc, ông có đề một bài thơ đậm tính chất mỉa mai
đối với Hạng Vương. Rồi đối diện tranh luận với họ Hạng, mạt sát bạo lực, bày
tỏ nhân nghĩa, chỉ trích chính sách bạo lực của Hạng Vũ, nhưng cũng vạch trần

Đào Thuỳ Dung – K32A

19

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

thủ đoạn xảo trá của Lưu Bang. Ông viết: “Sở dĩ đã đành trái với nhân nghĩa,
nhưng Hán cũng chỉ là giống với nhân nghĩa. Họ Hạng nước Sở không được là
hạng bá giả mà vua Cao Tổ nhà Hán cũng chỉ là tạp nhạp” và “so Sở với Hán
thì Hán hơn nhưng sánh Hán với bậc vương giả thì Hán còn xa lắm”. Đánh giá
Lưu Bang và Hạng Vũ như vậy đã thể hiện sự táo bạo của Nguyễn Dữ khi viết
về nhân vật lịch sử, trái hẳn với lời tán tụng của Tư Mã Thiên về hai nhân vật
này. Trong quan niệm của Nho giáo truyền thống, người làm vua phải lấy “đức
trị” để yên lòng dân, cai trị đất nước khiến cho quốc thái dân an, ấm no hạnh

phúc. Song Lưu Bang và Hạng Vũ cùng là những ông vua quyền cao chức
trọng, cùng được “tôn vinh” trong lịch sử nhưng lại đi ngược lại với quan niệm
của Nho giáo. Hạng Vũ “chỉ lấy thét làm oai, lấy cương cường làm đức. Chém
Tống Nghĩa là một tướng mạnh, vô quân đến đâu! Giết Tử Anh là người đã
hàng, bất võ quá lắm! Hàn Sinh vô tội mà bị luộc, hình pháp trái thường; A
Phòng vô cố mà bị thiêu, hung uy quá tệ. Cứ những việc của nhà vua làm thì
được lòng người chăng?”.
Như vậy, một người như Hạng Vương đã vi phạm chữ “nhân” một cách
nghiêm trọng trong qui tắc “đức trị” để cai trị đất nước. Lòng dân oán hận như
vậy thì làm sao có thể yên dân mà bình thiên hạ được. Và hậu quả là đất nước
Sở đã tan vỡ không phương cứu chữa. Còn với Lưu Bang - một ông vua được
lịch sử tán tụng, Nguyễn Dữ đã mượn lời Hạng Vũ để vạch trần sự gian dối, sự
vi phạm chữ “tín” trong qui tắc “đức trị” của bậc đế vương. Như thế, thì Lưu
Bang phỏng còn đáng phục nữa không?
Khi bàn về Hạng Vũ và Lưu Bang như vậy thì Nguyễn Dữ đã ngầm đưa ra
quan điểm của mình đối thoại với quan niệm truyền thống của Nho giáo: Đó là
thực hiện “đức trị” hay “không đức trị” của các vị quân vương được lưu danh
sử sách. Ông cho rằng: “Phàm xoay cái thế thiên hạ là ở trí chứ không phải là
ở sức; thu tấm lòng thiên hạ ở nhân chứ không phải ở bạo”. Rằng kẻ trị dân

Đào Thuỳ Dung – K32A

20

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học


nếu “chỉ lấy quát thét làm oai, lấy cương cường làm đức”, “đắp nền cao bằng
máu mỡ của dân” thì sẽ bỏ mệnh, mất nước, mất lòng người. Ông yêu cầu kẻ
làm vua phải “giương cái cung thánh nhân, tuốt lưỡi gươm thiên tử, lấy nhân
làm yên khấu, lấy nghĩa làm chèo lái, lấy hào kiệt làm nanh vuốt, lấy trung tín
làm giáp trụ”, “mở lưới vơ hiền, giăng chài vét sĩ…”, “khiến trong triều nhiều
bậc lương tá…”. Ông còn cho rằng kẻ làm quan thì phải “tiết cứng như tùng,
lòng bền tựa đá”, “đem cái tài nanh vuốt giữ cái trách phên giậu”, “sa cơ
không chịu sống mà nhục, liều mình để được thác là vinh”. Lí tưởng chính trị
xã hội của Nguyễn Dữ là một xã hội có “vua sáng tôi hiền” để “ban ân trạch
cho dân sinh, đưa tất cả cuộc đời vào cõi nhân thọ”.
Không chỉ có “Câu chuyện ở đền Hạng Vương” mà Nguyễn Dữ còn viết
nhiều truyện ngắn khác cũng ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo như: “Chuyện
người nghĩa phụ ở Khoái Châu”, “Chuyện tướng Dạ Xoa”, “Truyện đối
đáp của người tiều phu núi Na”, “Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên
Tào”, “Chuyện Lý tướng quân”, “Chuyện nàng Thuý Tiêu”… cũng là
những truyện ngắn được tác giả gửi gắm tư tưởng, qua đó muốn “đối thoại” với
những kẻ sĩ trong xã hội phong kiến. Quan niệm truyền thống của Nho giáo thì
kẻ sĩ phải chuyên tâm học hành rồi hành đạo cứu đời, ra làm quan, đem tài chí
của mình để làm cho dân có cuộc sống no ấm, thờ phụng vua làm một bề tôi
trung thành. Song ở trong “Truyền kì mạn lục”, Nguyễn Dữ đã chỉ ra những
“tấm gương” kẻ sĩ sai lệch hẳn với những giá trị truyền thống của một kẻ sĩ
trong thời loạn.
Trong hệ thống tư tưởng chung, “Truyền kì mạn lục” phản ánh và phê
phán những tệ lậu của xã hội phong kiến. “Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái
Châu” thấy hiện lên cảnh chiến tranh khiến cho nhân dân lầm than “bấy giờ
binh lửa rối ren, đường sá hiểm trở, phải lận đận hàng tuần mới vào được
Nghệ An…”. Dưới hình thức thần quái, “Chuyện tướng Dạ Xoa” cho thấy

Đào Thuỳ Dung – K32A


21

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

cảnh tượng thê thảm của nhân dân: “sống chẳng gặp thời, chết không phải số.
Đói không có gì cấp dưỡng, lui không có chỗ tựa nương. Trong gò xương trắng
rầu rĩ cỏ rêu, trên đống cát vàng lạnh lùng sương gió”. Cho nên có tình trạng
“chết chóc nhiều, những oan hồn không chỗ tựa nương thường hợp thành đàn
lũ”. Trong cảnh hỗn loạn ấy mà đám vua quan lại nhởn nhơ ăn chơi trác táng,
mặc kệ nhân dân. Ngòi bút sắc sảo của tác giả đã tập hợp nhiều nét phác hoạ
tiêu biểu để dựng lên bức tranh của “bề trên” với sự phê phán gay gắt. Trong
“Truyện đối đáp của người tiều phu núi Na”, Nguyễn Dữ mượn lời người
tiều phu tố cáo nhà vua “thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân
để dựng Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố Hoa Nhai, phao phí gấm là, vung
vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình phạt có của
đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ dùng lời ngay thì phải giết, kẻ
nói điều nịnh thì được thưởng, lòng dân lay động…”.
Khi Nguyễn Dữ đưa ra hàng loạt những hoàn cảnh éo le của nhân dân như
vậy đâu phải chỉ là để kể, để cảm thông với nhân dân. Hoàn cảnh của nhân dân
vô cùng tội nghiệp, họ càng tội nghiệp bao nhiêu thì câu hỏi mà Nguyễn Dữ đặt
ra càng lớn bấy nhiêu: Kẻ sĩ giúp đời, giúp dân, giúp nước đang ở đâu? Đọc
“Truyền kì mạn lục”, chúng ta đâu thấy các đấng trượng phu sẵn sàng ra tay
hành đạo cứu đời mà lại bắt gặp họ, kẻ thì chìm đắm trong truỵ lạc, tàn ác
hoang dâm; kẻ thì lao vào bể ái tình; người lại gửi thân vào mây núi như một

cách lẩn trốn bụi trần. Vậy họ là ai? Nguyễn Dữ muốn gửi gắm tâm sự gì khi
đưa ra những chân dung tiêu biểu này để đối thoại?
“Chuyện nàng Thuý Tiêu” hiện lên hình ảnh của những hôn quân, những
tướng binh độc ác, nham hiểm. Lý Hữu Chi trong “Chuyện Lý tướng quân” là
một nhân vật gian ác, hiểm độc, là một tên tướng có “sức khoẻ, giỏi chiến trận
nhưng tính vốn dữ tợn”. Khi “quyền vị đã cao, Lý bèn làm những việc trái
pháp, dựa lũ trộm cướp như lòng ruột, coi người nho sĩ như cừu thù, thích sắc

Đào Thuỳ Dung – K32A

22

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

đẹp, ham tiền tài, tham lam không chán, lại tậu ruộng vườn, dựng nhiều nhà
cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn đuổi xóm giềng cho rộng đất, đi kiếm
những hoa kì đá lạ từ huyện khác đem về”. Khác với Lý tướng quân, Trần Phế
Đế trong “Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang” chỉ luẩn quẩn với việc săn bắn,
“quanh đầm mà vây, bọc núi mà đốt”, “đương mùa hạ mà giở những công việc
khổ dân không phải thời, dầy trên lúa mà để thoả cái ham thích săn bắn không
phải chỗ”; và Trụ quốc họ Thân trong “Chuyện nàng Thuý Tiêu”. Ở truyện,
Trụ quốc họ Thân nham hiểm và thâm độc trong mọi âm mưu của hắn. Dư
Nhuận Chi là một thư sinh nổi tiếng thơ hay, văn giỏi. Chàng có vợ tên là Thuý
Tiêu có vẻ đẹp sắc nước hương trời. Nàng theo chồng vào kinh khảo thí, vô tình
bị quan Trụ quốc dâm ô bắt đem về dinh phủ. Nàng đã định tự tử để giữ trọn

khí tiết với chồng, viên quan này đó hứa sẽ cho nàng trở về bên người chồng
cũ. Nhưng khi gọi người chồng cũ của nàng đến thì hắn đó giở trò lừa bịp. Y
giữ Nhuận Chi ở trong nhà mà chẳng bao giờ cho đôi lứa gặp nhau. Cả hai cùng
vô cùng đau khổ. Nhuận Chi đã sợ hại đến thân nên đã bỏ đi, và nhờ lão bộc
giúp sức, nàng Thuý Tiêu đã cùng với Nhuận Chi bí mật trốn đi sống nơi khác.
Nhưng vợ chồng Thuý Tiêu đâu thoát khỏi bàn tay nham hiểm, tàn ác của tên
Trụ quốc này. Vì “hắn làm quan đến ngôi thượng công , quyền cao lộc hậu,
việc khoản đãi khách khứa mỗi ngày tốn phí đến hàng chuông thóc”. Nhưng
bản chất của hắn khi ở trong phủ Thuý Tiêu đã biết rõ. “Hắn chỉ là đồ hèn yếu
thế mà làm đến bậc Vệ Hoắc, kêu xin chạy chọt, lúc nào ở cửa cũng rộn rập
những người vào ra, vàng bạc châu báu trong nhà chồng chất đầy rẫy. Trừ ra
gặp phải hoả hoạn, của cải nhà ấy không có cách nào tiêu mòn được”.
Nguyễn Dữ đó soi thẳng vào thực tế để nhìn cho rõ bản chất của bọn vua
quan trong thời ông đang sống. Nhiều kẻ không hề có tư tưởng “chí quân trạch
dân” mà dùng thủ đoạn xấu xa trèo lên bậc thang danh vọng để “vinh thân phì
gia”.

Đào Thuỳ Dung – K32A

23

Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trong “Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào” thì ta lại thấy qua
cuộc trao đổi giữa Tử Hư và thầy dạy mà tóm tắt quá trình thối nát, ruỗng mục

của chế độ quan lại, những kẻ chịu ảnh hưởng trực tiếp của tư tưởng Nho giáo:
“ông mỗ ở ngôi trọng thần mà tham lam không chán, ông mỗ làm chức sư tư
mà mô phạm không đủ, ông mỗ coi lễ mà lễ nhiều thiếu thốn, ông mỗ chăn dân
mà dân nhiều tai hại, ông mỗ chấm văn mà lấy đỗ thiên vị, ông mỗ trị ngục mà
buộc tội oan uổng; lại còn những lúc bàn nói thì mồm mép bẻo lẻo, đến lúc trù
tính, quyết định kế lớn của quốc gia thì mờ mịt như ngồi trong đám mây mù,
thậm chí không noi theo danh, không xét theo thực, không trung với đấng quân
thượng, lớn thì làm việc bán nước,… nhỏ thì làm việc dối vua…”. Vua quan thì
như thế và sĩ phu cũng không ít kẻ hư hỏng, bước chân theo con đường ăn chơi
truỵ lạc. Dương Trạm nói với học trò: “Ngày nay những người mặc áo nhà
Nho, đeo giải nhà Nho… thường đổi họ để đi học, thay tên để đi thi…” [6, 513].
Qua đó, ta thấy đã phản ánh được sự suy vi, suy đồi của Nho học, việc học hành
thi cử trở thành một thứ bậc công danh bám đầy nhơ bẩn. Kẻ sĩ không nghĩ đến
đi học để lập công danh, để giúp vua trạch dân mà chạy theo văn chương thấp
hèn, chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Đồng thời lại ham thích hưởng lạc
những thứ đồi bại, mất đi chí khí của kẻ sĩ, một nam tử.
Hình ảnh của những kẻ sĩ mà Nguyễn Dữ muốn “đối thoại” không chỉ là
những nam tử làm quan, tướng nhưng quên đi sứ mệnh yên dân của mình để
đàn áp, bóc lột, hạch sách với dân. Mà còn những văn nhân quên đi việc học
hành chìm đắm trong sắc dục, trong bể ái tình. Đó là anh chàng thư sinh Hà
Nhân, bảnh bao được ăn học nhưng lại chìm đắm trong tình yêu nhục dục với
hai nàng Đào Nương và Nhu Nương. Chàng không đoái hoài đến nhiệm vụ học
hành thi cử để hoàn thành nhiệm vụ của một kẻ sĩ. Chàng cũng không hoàn
thành trách nhiệm của một người con với cha mẹ mình. Hà Nhân đã dối cha lừa
mẹ để được thảnh thơi qua lại với hai hoa yêu là Nhu Nương, Đào Nương. Như

Đào Thuỳ Dung – K32A

24


Khoa: Ngữ văn


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khoá luận tốt nghiệp đại học

thế, Hà Nhân đã vi phạm đạo đức của một nam tử trong thiên hạ. Đó là vì sắc
quên hiếu, vì sắc mà quên nghiệp, vì sắc mà bỏ tu thân. Qua miêu tả về chàng
Hà Nhân như vậy, Nguyễn Dữ muốn nói với độc giả điều gì? Điều khiến cho
Nguyễn Dữ trăn trở trong truyện ngắn này là: Nghiệp Thánh Hiền trong xã hội
phong kiến thực sự không còn thiêng liêng, không còn là mục tiêu cuộc sống
của biết bao nam tử như câu:
“Đi không há lẽ lại về không
Cái nợ cầm thư phải trả xong”
(Phạm Ngũ Lão)
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
(Nguyễn Công Trứ)
Nguyễn Dữ trong “Truyền kì mạn lục” không chỉ đưa ra những “tấm
gương” có danh mà tàn ác, vô danh để trốn trong bể tình; mà còn phác hoạ bức
chân dung của bậc nam tử hiểu việc đời, đau việc nước lại lẩn tránh mình trong
mây núi nước nguồn, làm một cư sĩ không tên. Người đó là người tiều phu ở
núi Na trong “Truyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na”. Ông có thể thấu
hiểu vua thời đó là người gian ác thế nào, hoang phí ra sao, những kẻ quan lại là
bọn nịnh hót, đàn áp kẻ dưới quá quắt đến mức nào. Song ông lại không đem
tài, trí, dũng của mình ra giúp dân dựng nghiệp, chống lại bọn ô trọc độc ác hại
dân, mà cam tâm tình nguyện làm một cư sĩ mai danh ẩn tích nơi núi sâu, rừng
thẳm không ai biết đến. Ông đáng khen hay đáng trách? Đáng khen cho cái chí
khí muốn giữ gìn sự trong sạch lương tâm của mình trước sự thoái hoá, suy

mòn đạo đức của con người. Nhưng ông cũng đáng trách khi nhận thức được
nỗi khổ của dân mà không giúp dân bớt khổ, thương dân mà chẳng làm gì cho
dân… Cũng trốn đời, cũng “ngạo mạn” coi thường trước vinh danh, chàng Từ
Thức trong “Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên”, chàng làm khác cách người ta vẫn

Đào Thuỳ Dung – K32A

25

Khoa: Ngữ văn


×