Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

thị trường phân phối bán lẻ ở việt nam trong thời đại mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.12 KB, 81 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1) Tính cấp thiết của đề tài
Một quá trình đang xảy ra, nhanh chóng, và không thể kiểm soát được. Đó là
toàn cầu hóa. Khái niệm toàn cầu hoá đã đi vào tư duy và ngôn ngữ của nhân loại
như một xu thế tất yếu, không còn xa lạ, xu thế chủ đạo trong đời sống của các quốc
gia, dân tộc. Gia nhập thị trường toàn cầu, nếu chúng ta không theo kịp rất có thể bị
tụt hậu; nhưng chắc chắn nếu không mở cửa thị trường thì tụt hậu là điều không
tránh khỏi. Đó là một phần lý do Việt Nam gia nhập WTO.
Gia nhập tổ chức thương mại thế giới chúng ta sẽ có được những thời cơ và cả
thách thức đan xen. Một trong những cơ hội đó là mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Với nền kinh tế mở cửa, khuyến khích đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã từng
bước mở rộng quan hệ thương mại với các nước khu vực ASEAN và trên thế giới.
Trong mối quan hệ thương mại này, nước ta với lợi thế là nguồn nhân lực dồi dào,
có trình độ tay nghề cao, chiếm ưu thế trong gia công sản phẩm xuất khẩu. Khi
tham gia WTO, Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế rộng lớn với khoảng
150 thành viên, và vị thế thị trường ngang nhau với tất cả các quốc gia đó. Hàng hóa
có thể thâm nhập thị trường khổng lồ này mà không gặp bất cứ trở ngại nào, miễn là
không vi phạm những quy chế và cam kết đã ký, đủ sức cạnh tranh với hàng hóa
cùng loại và hàng hóa thay thế. Tuy nhiên, cơ hội được mở rộng thị trường cũng
đồng nghĩa với việc các nhà phân phối nước ngoài có thể vào thị trường nước ta dễ
dàng hơn. Là một nước có dân số trên 85 triệu người, Việt Nam được đánh giá là thị
trường đầy tiềm năng đối với ngành bán lẻ. Đặc biệt kể từ 1/1/2009, nước ta đã
hoàn toàn mở cửa các nhà phân phối bán lẻ nước ngoài tham gia hoàn toàn tự do.
Thị trường bán lẻ đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế mỗi quốc gia, có sự
tham gia của mọi thành phần kinh tế. Vì vậy, mở cửa thị trường bán lẻ cho các nhà
đầu tư 100% vốn nước ngoài sẽ thay đổi diện mạo của thị trường nội địa như thế
nào là một vấn đề đáng quan tâm. Chính sách mở cửa sẽ có ảnh hưởng gì tới các
doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước? Ai được? Ai mất? Các doanh nghiệp
của nước ta có đủ sức chống chọi với cơn sóng này?

1




Nhận thấy đây là một đề tài cấp thiết mang tính thời sự hiện nay, người viết
mạnh dạn chọn đề tài “Những đặc điểm chính của thị trường phân phối bán lẻ
Việt Nam kể từ 1/1/2009” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2) Mục tiêu nghiên cứu
Để giúp người đọc có cái nhìn tổng thể và sâu sắc về những biến đổi của thị
trường bán lẻ Việt Nam kể từ sau khi hoàn toàn mở cửa đối với các doanh nghiệp
bán lẻ nước ngoài, khóa luận tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
- Đánh giá thực trạng phát triển lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam .
- Nghiên cứu thực trạng mở cửa thị trường bán lẻ tại Việt Nam, đặc biệt kể từ
1/1/2009; Từ đó đưa ra các đặc điểm chính gồm những điều đã làm được và những
tồn tại.
- Đưa ra những giải pháp nhằm phát triển thị trường bán lẻ tại Việt Nam trong
bối cảnh mới, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ nội địa
trước sự tấn công của các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia.
3) Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu thực tiễn mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ
Việt Nam với những thời cơ và thách thức đối với kênh bán lẻ hiện đại và kênh bán
lẻ truyền thống khi các doanh nghiệp bán lẻ 100% vốn nước ngoài gia nhập, trong
đó, chủ yếu đi sâu về các kênh bán lẻ hiện đại.
4) Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu thị trường bán lẻ Việt Nam với những tác động đối với người tiêu
dùng và doanh nghiệp trong nước trong bối cảnh mở cửa hoàn toàn cho các nhà
phân phối bán lẻ nước ngoài xâm nhập từ ngày 1/1/2009.
5) Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện chủ yếu dựa trên các phân tích, đánh giá định
lượng và định tính thông qua một số phương pháp tổng hợp – phân tích, biểu đồ để
làm sáng tỏ, phong phú thêm lý luận nhằm giải quyết các nhiệm vụ đã đề ra.
6) Kết cấu khóa luận

Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm 3 chương:

2


Chương I: Những vấn đề chung về bán lẻ và giới thiệu thị trường bán lẻ Việt
Nam .
Chương II: Những đặc điểm chính của thị trường

bán lẻ Việt Nam kể từ sau

1/1/2009.
Chương III: Các kiến nghị để mở cửa thị trường
cảnh mở cửa và hội nhập.

3

bán lẻ Việt Nam trong bối


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÁN LẺ VÀ GIỚI
THIỆU THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM
I)Khái niệm, đặc điểm và chức năng
1)Khái niệm bán lẻ, thị trường bán lẻ
1.1) Khái niệm bán lẻ
Hiện nay trên thế giới tồn tại khá nhiều định nghĩa khác nhau về bán lẻ, trong đó
có thể kể đến một vài định nghĩa được thừa nhận và sử dụng khá rộng rãi như sau:

Trong cuốn “ Quản trị Marketing”, Philip Kotler đã định nghĩa: “Bán lẻ là
mọi hoạt động nhằm bán hàng hóa hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối

cùng để họ sử dụng vào mục đích cá nhân, không mang tính thương mại”1
Từ điển bách khoa toàn thư Wikipedia đưa ra định nghĩa: Bán lẻ bao gồm việc
bán hàng hóa cho cá nhân hoặc hộ gia đình để tiêu dùng, tại một địa điểm cố định,
hoặc không tại một địa điểm cố định qua các dịch vụ liên quan.
Theo khoản 8, Điều 13 Nghị định 23/2007/NĐ- Chính phủ ngày 12/2/2007
quy định chị tiết Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động
liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam: Bán lẻ là hoạt động bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng
cuối cùng.
Còn trong giáo trình Marketing lý thuyết của Đại học Ngoại Thương lại đưa ra
khái niệm: Hoạt động bán lẻ bao gồm tất cả các hoạt động phân phối hàng hóa hoặc
dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng, nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng cá
nhân, phi thương mại.
Như vậy, ta có thể hiểu nói chung bán lẻ là hoạt động kinh doanh trong đó nhà
bán lẻ mua với số lượng lớn từ nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, hoặc nhà bán sỉ rồi

1

Philip Kotler (2003), “Quản trị Marketing” NXB Thống Kê, tr.314

4


chia nhỏ và bán cho người tiêu dùng (bằng cách trực tiếp hay gián tiếp ở tại cửa
hàng, ngoài phố hay tại nhà riêng…) nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hay gia đình.
1.2) Khái niệm thị trường bán lẻ
Từ cách hiểu về bán lẻ như trên, ta có thể rút ra định nghĩa thị trường bán lẻ
như sau:
Thị trường bán lẻ là nơi diễn ra sự trao đổi giữa người mua và người bán để
trao đổi hàng hóa. Trong đó, người bán có thể là nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, nhà

bán sỉ hoặc nhà bán lẻ; người mua là người tiêu dùng cuối cùng; hàng hóa được
mua với mục đích tiêu dùng, chứ không phải nhằm mục tiêu thương mại.
2)Vị trí của bán lẻ
Vị trí của bán lẻ trong ngành phân phối dịch vụ:
Theo phân ngành dịch vụ của WTO, dịch vụ phân phối được chia thành 5 tiểu
ngành, bán lẻ là một trong 5 tiểu ngành đó. 5 phân ngành gồm: dịch vụ đại lý hoa
hồng, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ cấp phép và các dịch vụ khác.
Tuy nhiên, theo danh mục phân loại ngành dịch vụ của tài liệu số
MTN.GNS/W/120 được xây dựng trong vòng đàm phán Urugoay được hầu hết các
thành viên WTO sử dụng làm cơ sở cho việc xây dựng lộ trình cam kết, thì bán lẻ là
một trong 4 nhóm dịch vụ chính của dịch vụ phân phối.
Bảng 1: Vị trí của dịch vụ bán lẻ trong ngành dịch vụ phân phối

(Nguồn : Bảng phân ngành dịch vụ của WTO) Khi hàng hóa được sản xuất ra sẽ
được đưa đến tay người tiêu dùng thông qua các kênh phân phối, và bán lẻ luôn
nằm ở vị trí cuối cùng của kênh phân phối đó. Nói cách khác nhà bán lẻ là cầu nối
giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Như vậy,

5


nhà bán lẻ sẽ tiếp nhận hàng từ nhà sản xuất, nhà nhập khẩu và nhà bán sỉ rồi
chuyển tới người tiêu dùng. Nhà bán lẻ là mắt xích cung cấp trong chuỗi giá trị. Vai
trò của nbán lẻ là cực kỳ quan trọng bởi chính ngay tại điểm bán lẻ, người tiêu dùng
có cơ hội chọn mua sản phẩm và thương hiệu mà mình ưa chuộng. người bán lẻ là
người am hiểu nhất nhu cầu của người tiêu dùng, thị hiếu của người tiêu dùng, có
thể thực hiện một số hoạt động có tác động lên quyết định mua hàng của người tiêu
dùng; đồng thời người bán lẻ cũng chính là người nắm bắt được sát thực những thay
đổi trong xu hướng tiêu dùng của khách hàng.
3) Đặc điểm của bán lẻ

Hoạt động bán lẻ mang 1 số đặc điểm cơ bản sau:
Một là hàng hóa được mua để tiêu dùng chứ không phải để kinh doanh hay
cho bất kỳ mục đích thương mại nào. Người mua hàng đồng thời là người tiêu dùng
cung cấp. Hàng hóa sau khi được trao đổi mua bán sẽ không còn cơ hội quay trở lại
thị trường. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của bán lẻ, nói lên bản chất của bán lẻ.
Hai là người bán thường cung cấp hàng hóa đa dạng chủng loại, mẫu mã:
Phần lớn các nơi bán lẻ cung cấp nhiều loại hàng hóa khác nhau có thể với những
mức giá từ thấp tới cao, vừa đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, vừa tăng
cường hiệu quả kinh doanh trong từng kỳ. Thậm chí trong các cửa hàng chuyên
doanh, tùy theo chủng loại sản phẩm nhà sản xuất còn đa dạng hóa thành nhiều mặt
hàng có kích cỡ chất lượng màu sắc, kiểu dáng… khác nhau để khách hàng được
đáp ứng nhu cầu tốt nhất, hài lòng nhất. Vì vậy, khách hàng có thể đi một địa điểm
mà mua được đầy đủ hàng hóa mình cần.
Ba là khách hàng chủ động và độc lập trong quyết định mua hàng: Dù người
bán lẻ có ít nhiều tác động tới hành vi mua hàng của khách hàng thì họ vẫn có khả
năng tài chính, có động cơ mua hàng cụ thể và có quyết định mua tương đối độc lập.
Vì vậy, để duy trì sự tăng trưởng bền vững, trong quá trình tiếp xúc, người bán hàng
phải nhạy cảm với nhu cầu và xây dựng mối quan hệ lâu dài với họ.
Bốn là nhiều hình thức và cạnh tranh rất mạnh mẽ: thị trường bán lẻ là nơi
cung cấp những hàng hóa tiêu dùng cần thiết thậm chí là thiết yếu cho toàn bộ
người tiêu dùng ở mọi nơi của cả quốc gia nên nhu cầu rất cao và vững, ổn định. Vì

6


thế, thật không ngạc nhiên khi những nhà cung cấp đua nhau mọc lên, tiến hành
kinh doanh theo nhiều quy mô lớn nhỏ khác nhau, đa dạng và linh hoạt. Bán lẻ còn
tập trung theo các khu vực chuyên doanh về một số loại hàng hóa giống nhau hoặc
tương tự, các gian hàng lớn nhỏ nằm cạnh nhau. Vì vậy cạnh tranh trong thị trường
bán lẻ diễn ra rất gay gắt giữa các công ty thương mại, giữa các cửa hàng với nhau.

Hiệu quả kinh doanh cao hay thấp và có được lâu dài hay không phụ thuộc lớn vào
chiến lược kinh doanh, khả năng nhanh nhạy của người bán hàng.
4) Chức năng của bán lẻ
Nếu như sản xuất cung cấp hàng hóa vật phẩm cho nền kinh tế thì hệ thống
phân phối chính là dòng chảy lưu thông, duy trì sự sống cho nền kinh tế ấy. Trong
hệ thống phân phối, bán lẻ là kênh cuối cùng đưa hàng hóa tới tay người tiêu dùng,
giải quyết vấn đề đầu ra cho sản phẩm, thúc đẩy hoạt động sản xuất nên nó có vai
trò rất quan trọng. Nhìn chung, bán lẻ có các chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, bán lẻ là cầu nối quan trọng giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng:
Người sản xuất chuyên sâu vào hoạt động sản xuất làm tăng năng suất và khó có thể
công ty nào cũng bao quát được toàn bộ mạng lưới người tiêu dùng. Trong khi đó,
không chỉ đóng vai trò là người trung gian chuyển hàng hóa từ nhà sản xuất tới
người tiêu dùng mà các nhà bán lẻ còn có cơ hội tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên
nhất với người tiêu dùng nên họ có thể thu thập dễ dàng các thông tin về nhu cầu,
thị hiếu thói quen mua sắm của khách hàng. Đây là những thông tin hết sức quan
trọng và cần thiết cho nhà sản xuất để có thể nắm bắt những phản hồi của khách
hàng kịp thời cải tiến sản phẩm, dịch vụ cho phù hợp với nhu cầu thị trường phát
triển các sản phẩm có lợi thế, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường .
Thứ hai, ngược lại trong quá trình bán, nhà bán lẻ có trách nhiệm cung cấp
thông tin, giải đáp các thắc mắc về hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng. Đồng thời họ
còn đóng vai trò là người truyền tải thông điệp quảng cáo hay các thông tin khuyến
nghị của nhà sản xuất đến với người tiêu dùng. Do vậy có thể nói người bán lẻ
chính là người trực tiếp thực hiện công việc tạo dựng và duy trì mối quan hệ giữa
nhà sản xuất với người tiêu dùng.

7


Thứ ba, hoàn thiện hàng hóa, kích thích tiêu dùng: nhà bán lẻ có thể làm cho
hàng hóa đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người mua, sắp xếp hàng hóa hợp thẩm mỹ

thu hút, định hướng tương đối thị hiếu của người tiêu dùng. Tại các cửa hàng bán lẻ
như siêu thị, số lượng mặt hàng có thể lên tới hàng chục nghìn loại từ hàng trăm các
nhà sản xuất khác nhau. giúp người tiêu dùng được lựa chọn một danh mục sản
phẩm đa dạng về kiểu dáng, chất lượng, giá cả. Bên cạnh đó, dù các nhà bán lẻ có
thể nhận hàng hóa đã hoàn thiện từ nhà sản xuất hay nhà bán buôn nhưng do đặc thù
ngành bán lẻ, họ vẫn tiến hành sơ chế, đóng gói, bảo quản để đưa sản phẩm tới tay
người tiêu dùng trong điều kiện tốt nhất và hình thức phù hợp nhất.
Thứ tư, lưu trữ sẵn hàng hóa: Nhà bán lẻ có thể lưu trữ hàng hóa, làm cho hàng
hóa lúc nào cũng sẵn có mỗi khi người tiêu dùng đến. Người bán lẻ thông thường
không chỉ dự trữ một vài mặt hàng với số lượng lớn, ngược lại có xu hướng trữ
nhiều mặt hàng với khối lượng nhỏ trong một thời gian. Nhờ vậy, khách hàng luôn
được đáp ứng kịp thời hễ có nhu cầu. Ngoài ra, một số hoạt động sản xuất có tính
tiêu thụ, còn tiêu dùng lại diễn ra quay năm. Hưởng lợi từ chức năng của nhà bán lẻ,
khách hàng không phải cất giữ nhiều sản phẩm trong nhà mà chỉ cần mua đủ hàng
sử dụng lúc đó.
Thứ năm, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ: Với đời sống ngày càng đi lên, công
nghệ thông tin phát triển tạo điều kiện cho nhà bán lẻ cung cấp các dịch vụ cho
người tiêu dùng dễ dàng hơn khi mua và sử dụng sản phẩm bằng các biện pháp như
cho người mua trả chậm, trả góp, mời sử dụng thử, tư vấn và sẵn sàng cung cấp
thêm thông tin về sản phẩm. Không chỉ chấp nhận thanh toán bằng các loại thẻ tín
dụng thông thường, nhiều nhà bán lẻ còn sẵn sàng phát hành thẻ tín dụng của riêng
mình, cung cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng nhất định để có thể mua hàng
trước và trả tiền sau.
II) KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ CỦA VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
1) Doanh thu và tốc độ tăng trưởng
Mức độ hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam nhìn chung tăng nhanh trong
vòng một số năm trở lại đây đặc biệt kể từ khi Việt Nam ra nhập WTO. Nếu năm

8



2007, như hãng tư vấn Mỹ A.T.Kearney công bố báo cáo thường niên về chỉ số phát
triển bán lẻ toàn cầu (GRDI – Global Retail Development Index), Việt Nam chỉ xếp
thứ 4 trong số những thị trường bán lẻ tiềm năng nhất Thế giới thì năm 2008 Việt
Nam đã chiếm ngôi vị trí số 1 của Ấn Độ trở thành điểm đến hấp dẫn nhất đối với
các nhà đầu tư nước ngoài
Bảng 2: Mười thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất Thế giới 2008
Mức độ rủi Độ hấp dẫn
ro quốc gia thị trường

Độ bão hòa
thị trường

Áp lực
thời gian Điểm GRDI Thay đổi so
với năm 2007

Xếp hạng

Quốc gia

1

Việt Nam

57

34


67

99

88

3

2

Ấn Độ

29

39

78

93

80

-1

3

Nga

31


52

50

90

72

-1

4

Trung Quốc

36

50

45

82

67

-1

5

Ai Cập


22

34

90

64

66

9

6

Ma-rốc

26

36

80

68

66

9

7


Ả Rập Xê Út

49

40

63

50

62

3

8

Chilê

44

52

45

58

60

-2


9

Brazil

23

60

60

54

60

11

10

Thổ Nhĩ Kỳ

20

53

59

64

58


3

(Nguồn: A.T. Kearney Global Retail Development Index, 2008)
Việc chiếm ngôi của Ấn Độ trong bảng danh sách mới này được một số hãng
tin quốc tế bình luận là rất ấn tượng , bởi Ấn Độ từng là quốc gia ba năm liên tiếp
đứng đầu danh sách Chỉsố Phát triển bán lẻ toàn cầu . Ấn Độ cũng là chủ sở hữu của
một thị trường bán lẻ có quy mô tới 510 tỷ $.
Các chuyên gia của A.T.Kearney ước tính quy mô thị trường bán lẻ Việt Nam
2008 vào khoảng 20 tỷ $. Song theo số liệu công bố trong nước, doanh số bán lẻ

9


2008 tăng 20,5% so với 2007, đạt mức 975.000 tỷ đồng tương đương 54,3 tỷ $.
Mức lưu chuyển hàng hóa trong giai đoạn 2006 -2008 ước tính đạt 25%/năm.
A.T.Kearney cũng đưa ra một số thống kê cho thấy thị trường bán lẻ Việt Nam
đang có nhiều lợi thế, khi người tiêu dùng tại đây thuộc hàng trẻ nhất ở châu Á với
79 triệu người, ở tuổi dưới 65 và mức tiêu thụ đã tăng 75% trong giai đoạn từ năm
2000 - 2007. Trong năm 2007, người Việt Nam đã chi gần 45 tỷ $ cho mua sắm và
tiêu dùng . Trong khi đó 5 nhà bán lẻ hàng đầu ở Việt Nam hiện chỉ có dưới 3% thị
phần [24]
Cùng với một số dân đông thứ 13 thế giới, có thể nói Việt Nam có tiềm năng khá
lớn đối với ngành bán lẻ. Đồng thời, hiện hệ thống bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam đã phát
triển tương đối mạnh về số lượng và quy mô, với sự hiện diện của hàng nghìn doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hàng chục nghìn doanh
nghiệp tư nhân, công ty TNHH , hàng chục nghìn hợp tác xã cùng hàng triệu hộ kinh
doanh lớn nhỏ, đã phần nào thỏa mãn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng, tác động
tích cực tới quá trình chuyển đổi nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

2) Chủ thể tham gia vào lĩnh vực phân phối bán lẻ

Trong thời gian qua đã có sự tham gia đáng kể của các chủ thể sản xuất và
kinh doanh vào hệ thống phân phối bán lẻ. Với mục tiêu tăng trưởng bình quân
GDP thời kỳ 2001-2010 là 7-7.5%/năm thì quy mô về tổng mức lưu chuyển hàng
hóa bán lẻ và dịch vụ của thị trường trong nước vào năm 2010 dự kiến sẽ vượt mức
10000 tỷ đồng. Chắc chắn với một thị trường bán lẻ tiềm năng như nước ta, trong
thời gian tới sẽ có sự gia tăng lớn các chủ thể kinh tế vào hệ thống phân phối hàng
hóa của Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Nếu như trước đây nền thương mại chủ yếu là do nhà nước độc quyền thì giờ
đây đã chuyển sang một nền kinh tế tư nhân, sự xuất hiện các nhà đầu tư có vốn
nước ngoài và quá trình CP hóa các doanh nghiệp nhà nước đã làm cho ngành
thương mại biến đổi sâu sắc. Xét trong cơ cấu tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh
thu dịch vụ tiêu dùng theo nền kinh tế: tỷ trọng kinh tế nước ngoài liên tục giảm
xuống và hiện còn chiếm tỷ lệ thấp (năm 2007 là 10,2%). Kinh tế ngoài nhà nước
chiếm tỷ trọng cao (năm 2007 là 85,9%). Trong đó, kinh tế tập thể chiếm tỷ trọng

10


không đáng kể (0,7%). Kinh tế cá thể chủ yếu là chợ và các cửa hàng nhỏ lẻ vẫn còn
chiếm tỷ trọng khá lớn (56,1%) [6] , đây chính là thị phần sẽ có nhiều thay đổi trong
thời gian tới bởi cả nền kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều
muốn “thu phục”. kinh tế tư nhân mới hình thành từ 15 năm nay, đặc biệt phát triển
trong 7, 8 năm trở lại đây, nhưng hiện đã chiếm tới 29,1%, phần lớn các siêu thị ,
các trung tâm thương mại, các cửa hàng tiện ích đều do khu vực này quản lý hoặc
liên kết với hợp tác xã hay cá thể để hình thành.
Riêng khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hiện còn chiếm tỷ trọng thấp
(2,6% năm 2009[6]) nhưng chắc chắn sẽ tăng mạnh trong vài ba năm tới tới. Thị
phần vào năm 2010 của khu vực này cũng chỉ chưa tới 5%, do đây là giai đoạn các
nhà đầu tư vẫn đang tiến hành nghiên cứu, thăm dò thị hiếu, lựa chọn địa điểm đầu
tư. Sau đó thị phần của khu vực này sẽ bắt đầu tăng nhanh từ 2010: 4 tháng đầu năm

2010 khu vực kinh tế trong nước (bao gồm khu vực kinh tế trong nước và khu vực
kinh tế ngoài nhà nước) chiếm khoảng 97% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
chiếm khoảng 3%[5]. Tỷ trọng này đến năm 2020 tương ứng là 80% và 20%.
Dưới đây ta sẽ tìm hiểu cụ thể hơn về các nhóm đối tượng chính tham gia vào
thị trường bán lẻ Việt Nam .
2.1) Các nhà phân phối bán lẻ trong nước
Các nhà phân phối bán lẻ trong nước gồm có các chợ đã được hình thành một
cách tự nhiên trong đời sống dân cư và các doanh nghiệp phân phối bán lẻ cần đăng
ký giấy phép kinh doanh.
*) Chợ truyền thống:
Hệ thống chợ Việt Nam có thể được hình thành từ lâu đời hoặc quy mô rất to
hoặc chỉ đơn giản cung cấp lương thực thiết yếu hàng ngày. Ta có thể kể tới tên của
một số chợ nổi tiếng như sau:
Chợ Bến Thành: rất đỗi quen thuộc với người dân Việt và du khách quốc tế
khi đến tham quan du lịch TP.HCM, là một trung tâm buôn bán lớn không chỉ của
TP.HCM mà còn của các tỉnh phía Nam. Hiện nay, chợ Bến Thành gồm có những
quầy sạp được thiết kế như sau: Quầy ăn, quầy bán vải sợi dành cho tư nhân, bách
hóa, mỹ phẩm, quầy bán hàng vải hợp doanh, hàng bánh kẹo quốc doanh, quầy

11


hàng bán trái cây cao cấp, các quấy trái cây và hàng khô, quầy guốc dép và dụng cụ
gia đình, quầy hoa tươi, quầy cá, thịt gà, quầy thịt heo, gà, bò, giò, chả, quầy gà vịt
sống...
Chợ Đồng Xuân: Nằm cạnh ga đầu cầu Long Biên, lại ở ngay sát sông Hồng,
chợ Ðồng Xuân là điểm thuận lợi để hàng hoá bốn phương dồn về đây cũng như từ
đây toả đi các nơi. Ở chợ Đồng Xuân hầu như có đủ tất cả các mặt hàng phục vụ đời
sống và sản xuất đồng thời nó là chợ bán buôn lớn nhất miền Bắc. Ngày nay chợ
Ðồng Xuân được xây dựng lại với qui mô lớn hơn gồm 3 tầng khang trang, rộng rãi

nhưng vẫn giữ lại một phần kiến trúc mặt tiền của chợ cũ.
*)Các doanh nghiệp phân phối bán lẻ trong nước, bao gồm cả các doanh
nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp ngoài nhà nước:
Đây đa phần là các công ty, tổng công ty hoạt động trong lĩnh vực phân phối,
có trình độ chuyên nghiệp và mạng lưới phân phối bán lẻ rộng khắp trên nhiều tỉnh,
thành phố trên cả nước. Có thể kể ra một vài doanh nghiệp tiêu biểu:
Liên hiệp HTX Thương mại và Dịch vụ TP.HCM (Sài Gòn Co.op): được thành
lập từ năm 1988, đến nay Saigon Co.op đã có khoảng 40 siêu thị tại TP. HCM và
các tỉnh lân cận với thị thương hiệu quen thuộc Co.op Mart. Mạng lưới Co.op dự
kiến sẽ được đưa lên con số 50 siêu thị trong năm nay và 100 siêu thị vào năm
2015[19] nhằm cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài khi Việt Nam mở cửa
hoàn toàn thị trường bán lẻ. Năm 2008, Saigon Co.op đạt tổng doanh thu là 6.350 tỉ
đồng, trong đó doanh thu từ chuỗi siêu thị Co.op Mart là 6,167 tỉ đồng, chiếm
97,1% tổng doanh số của Saigon Co.op. Trong năm 2009, tổng doanh số của Saigon
Co.op là hơn 8.571 tỉ đồng, tăng 34,9%, trong đó hoạt động thương mại bán lẻ
thuộc hệ thống siêu thị Co.opMart đạt 8.307 tỉ đồng (chiếm 96,9%). Trong năm nay
2010, Saigon Co.op đặt mục tiêu đạt tổng doanh thu là 11.500 tỉ đồng, tăng trên
34% so với năm trước, trong đó tổng doanh số chuỗi Co.opMart là 11.200 tỉ đồng,
tăng gần 35%[8].
Tổng công ty thương mại Sài Gòn (Satra): với một hệ thống chợ trung tâm và
hơn 284.000 m2 cửa hàng, siêu thị, trung tâm mua bán, trung tâm thương mại ở
TP.HCM và mối quan hệ mua bán rộng khắp cả nước, với tinh thần ủng hộ, khuyến

12


khích “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, có thể nói Satra là một trong
những tập đoàn mạnh nhất ở khu vực phía Nam Việt Nam về lĩnh vực thương mại
và phân phối bán lẻ. Với mục tiêu mở rộng hệ thống phân phối sỉ và lẻ khắp cả
nước, Satra đã đầu tư xây dựng nhiều công trình trọng điểm như Khu thương mại

Bình Điền, chợ cửa khẩu Mộc Bài, chợ trái cây Quốc Gia Tiền Giang. Ngày
27/9/2008, Satra khai trương siêu thị Satra Bầu Cát ở quận Tân Bình, TP.HCM, mở
đầu cho kế hoạch phát triển thương hiệu Satramart.
Công ty Siêu thị Hà Nội ( tiền thân là công ty Bách Hóa Số 5 Nam Bộ) trực
thuộc tổng công ty thương mại Hà Nội với chuỗi hơn 50 siêu thị và nhiều cửa hàng
tiện ích, cửa hàng chuyên doanh mang tiếng Hapromart tại Hà Nội và các tỉnh thành
phía Bắc, dưới hình thức sở hữu 100% vốn của tổng công ty, liên doanh hoặc CP,
nhượng quyền thương hiệu. Hiện tại, Công ty Siêu thị Hà Nội kinh doanh đa dạng
với nhiều lĩnh vực như: kinh doanh bán lẻ, bán buôn, cho thuê mặt bằng, gian hàng,
văn phòng, kinh doanh các dịch vụ thương mại, ăn uống, thẩm mỹ.... Trong lĩnh vực
bán lẻ, Hapromart có diện tích kinh doanh lên tới 9.424 m 2. Với đội ngũ hơn 1.500
cán bộ, công nhân viên Hapromart sẵn sàng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng
vào tất cả các ngày trong tuần. Vốn đầu tư trung bình của mỗi siêu thị vào khoảng
10 tỷ đồng, doanh thu mỗi năm tăng từ 20-30%, lợi nhuận tăng xấp xỉ 15%. Mục
tiêu của Hapro là năm 2010 sẽ có 5 đại siêu thị, 70 siêu thị, 800 cửa hiệu tiện ích
mang thương hiệu Hapromart trên toàn quốc.
Công ty CP Tập đoàn Phú Thái (Phú Thái Group): được thành lập năm 1993,
đến nay công ty đã trở thành một mô hình kinh doanh và phân phối hàng tiêu dùng
hàng đầu tại Việt Nam . Với 2000 nhân viên, Phú Thái đã xây dựng được mạng lưới
phân phối với hơn 50.000 đại lý gồm các nhà phân phối phụ, đại lý bán buôn, bán
lẻ, siêu thị và hơn 5000 khách hàng trực tiếp gồm các nhà hàng, khách sạn, cơ quan,
người tiêu dùng. Công ty có gần 30 đơn vị trực thuộc gồm các công ty thành viên,
trung tâm phân phối và kho vận trên toàn quốc. Với định hướng chiến lược đúng
đắn, Phú Thái đã đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 40%.
Tập đoàn dệt may Việt Nam với hệ thống siêu thị Vinatex mart: là hệ thống
siêu thị trải rộng trên cả nước. Hệ thống siêu thị Vinatex Mart có nhiệm vụ chính là

13



cung cấp và quảng bá các sản phẩm thời trang hàng đầu của các đơn vị dệt may Việt
Nam . Bên cạnh đó, nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng, hệ thống siêu
thị Vinatex Mart cũng đã mở rộng các mặt hàng kinh doanh, với việc phát triển hệ
thống siêu thị tổng hợp bao gồm: hàng dệt may, hoá phẩm, thực phẩm, đồ dùng gia
đình… Tính tới thời điểm cuối năm 2008, Vinatex đã phát triển được 54 điểm bán
hàng có mặt trên 23 tỉnh thành trong nước, kinh doanh 50.000 mặt hàng do 800 nhà
cung ứng gồm 5 ngành hàng chính là dệt may, thực phẩm, hóa phẩm, hàng gia dụng,
đồ lưu niệm và đồ chơi trẻ em. Với tốc độ tăng trưởng bình quân 60%/năm, năm
2010, hệ thống siêu thị Vinatex mart dự tính sẽ phát triển mạng lưới bán lẻ với 80
cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương mại và sẽ có mặt tại hầu hết các tỉnh thành
trong cả nước, phấn đấu đưa Vinatex nằm trong Top 3 của hệ thống bán lẻ Việt Nam
.
Công ty CP xuất nhập khẩu INTIMEX (Intimex Hochiminh) tiền thân là Chi
nhánh Công ty Xuất Nhập Khẩu Intimex tại TP.HCM, được thành lập vào tháng 9
năm 1995. Từ chỗ chỉ là một chi nhánh nhỏ nhưng sau hơn một thập niên xây dựng
và phát triển, Intimex Hochiminh đã có sự trưởng thành vượt bậc với chuỗi 8 siêu
thị mang tên INTIMEX. Intimex Hochiminh đang phát triển nhanh hệ thống phân
phối, bán buôn, bán lẻ, các trung tâm thương mại, cửa hàng bán lẻ và tiện ích tại các
tỉnh thành phía Nam cũng như trên cả nước với số vốn đầu tư hàng trăm tỉ đồng.
Ngoài ra, còn phải kể tới Công ty TNHH Thương mại – Dịch vụ An Phong với
chuỗi 5 siêu thị mang tên MAXIMARK, công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ
Đông Hưng với chuỗi 10 siêu thị CITIMARK, công ty CP Nhất Nam với chuỗi 12
siêu thị FIVIMART…
Có thể nói đây là khu vực có những chuyển biến tích cực nhất trong xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, các doanh nghiệp nhà nước nhìn chung có tiềm lực
về tài chính và lợi thế về các cơ sở sản xuất hơn nên đóng vai trò vừa là nhà phân
phối vừa là nhà sản xuất và thu mua hàng hóa để kinh doanh trong hệ thống phân
phối của mình. Trong khi đó, các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước chủ yếu tập
trung vào hoạt động phân phối để tạo nên những hệ thống chuyên doanh phân phối
mà thường không tham gia vào hoạt động sản xuất như nhiều doanh nghiệp nhà


14


nước. Đây cũng là một trong những đặc điểm khá đặc thù của Việt Nam trong quá
trình hình thành và phát triển hệ thống phân phối nói riêng và hoạt động kinh doanh
trên thị trường nội địa nói chung. Tuy nhiên, nhìn chung các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ phân phối trong nước còn nhiều hạn chế về năng lực tài chính, công
nghệ, kỹ năng tổ chức quản lý kinh doanh, trình độ đội ngũ cán bộ… so với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng hoạt động trong lĩnh vực này.
2.2) Các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài hoạt động tại Việt Nam
Việt Nam là một thị trường bán lẻ giàu tiềm năng, có tốc đọ tăng trưởng cao,
sức mua lớn với hơn 86 triệu dân. Chính vì vậy, trong thời gian qua nhiều doanh
nghiệp bán lẻ nước ngoài đã tăng cường đầu tư xây dựng các siêu thị, trung tâm
thương mại nhằm khai thác thị trường Việt Nam, trong đó phải kể đến: Pakson
(Malaysia), Big C (tập đoàn Casino, Pháp), hệ thống Metro của tập đoàn Metro
Cash&Carry (Đức); Dairy Farm (Hồng Kông), Lotte Mart (tập đoàn Lotte, Hàn
Quốc)… Các tập đoàn này đều đang kinh doanh khá thành công tại Việt Nam, góp
phần không nhỏ hình thành nên một thị trường bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong
nước đa dạng, phong phú và có tính cạnh tranh cao.
Big C Việt Nam khai trương đại siêu thị đầu tiên tại Đồng Nai năm 1998. Hiện
nay, các cửa hàng Big C hiện diện ở hầu hết các thành phố lớn như Hà Nội, Hải
Phòng, Huế, Đà Nẵng, Biên Hòa, TP.HCM. Big C là thương hiệu của tập đoàn
Casino, một trong những tập đoàn bán lẻ hàng đầu châu Âu với hơn 9.000 cửa hàng
tại Việt Nam, Thái Lan, Ac-hen-ti-na, U-ru-guay, Vê-nê-zuê-la, Bra-xin, Cô-lôm-bia, Ấn Độ Dương, Hà Lan, Pháp…, sử dụng trên 190.000 nhân viên.
Bên cạnh Big C, Metro Cash & Carry cũng là một trong những tập đoàn phân
phối bán buôn và bán lẻ lớn nhất tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư lên đến 120 triệu
$. Tính tới năm 2008, hiện đã có 8 trung tâm bán buôn tại Việt Nam, Metro Cash &
Carry đang ấp ủ mở thêm 4 trung tâm nữa tại Hà Nội TP.HCM, Nha Trang và Đồng
Nai. Ước tính chỉ trong một vài năm tới, tất cả các trung tâm của Metro ở Việt Nam

đều sẽ mang lại lợi nhuận. Ở các siêu thị Metro Cash & Carry cung cấp phong phú
hơn 7000 mặt hàng thực phẩm và hơn 800 mặt hàng phi thực phẩm, trong đó có

15


khoảng 90% hàng hóa được sản xuất trong nước. Đồng thời đây cũng là một hệ
thống phân phối hàng hóa triển vọng của Việt Nam ra thị trường thế giới.
Ngoài ra, ngày 18/12/2008, siêu thị đầu tiên của tập đoàn Lotte tại Việt Nam
mang thương hiệu LotteMart đã được khai trương tại quận 7, khu Nam Sài Gòn,
TP.HCM. Đây cũng là trung tâm thương mại đầu tiên ở nước ngoài đầu tiên Lotteở
Trung Quốc (8 cơ sở) hay Indonesia (19 cơ sở) đều được sang nhượng lại từ tập
đoàn Macro. Tổng giám đốc Lotte Việt Nam Lee Sang Woo cho rằng, LotteMart
Nam Sài Gòn với tổng đầu tư 75 triệu $ là trung tâm thương mại lớn nhất Việt Nam.
Siêu thị được xây dựng trên khuôn viên diện tích 3,1 ha gồm 3 tầng với tổng diện
tích sàn xây dựng là 33.389 m2 . Trong đó, một nửa diện tích là dùng để kinh doanh
gồm 6.099 m2 mặt bằng cho thuê và 9.772 m2 là khu vực siêu thị bán lẻ của
LotteMart. Gần 10% hàng hóa tại đây được nhập khẩu từ Hàn Quốc, còn lại chủ yếu
là hàng nội địa. Lottecũng đang hướng đến việc tự sản xuất hàng nội địa. Lotte cũng
đang hướng đến việc tư sản xuất hàng tại Việt Nam để xuất khẩu. Điểm khác biệt
của LotteMart là trung tâm thương mại phức hợp này có cả dịch vụ mua sắm và giải
trí, bao gồm rạp chiếu phim hiện đại khu bowling, khu vui chơi trẻ em, thẩm mỹ
viện, dịch vụ du lịch, ngân hàng cùng với khu vực shophân phốiing của 36 công ty.
Nhìn chung, các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài có nhiều lợi thế nổi trội so
với các doanh nghiệp trong nước về năng lực tài chính, công nghệ, áp dụng các
phương thức kinh doanh mới và đặc biệt là kinh nghiệm và trình độ tổ chức quản trị
kinh doanh. Hầu hết đây đều là những tập đoàn lớn của Thế giới có bề dày kinh
nghiệm hoạt động trong lĩnh vực này và đã thiết lập được một mạng lưới kinh
doanh có tính chất toàn cầu. Vì vậy, sự có mặt của các tập đoàn này một mặt tạo nên
áp lực lớn về cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước nhưng cũng là cơ hội

tốt để hình thành một thị trường nội địa hoạt động lành mạnh, phát triển đa dạng và
tiếp cận được trình độ hiện đại của Thế giới.
2.3) Các hộ kinh doanh cá thể, buôn bán nhỏ trong nước
Đây vẫn đang là một trong những thành phần quan trọng tham gia vào thị
trường bán lẻ của Việt Nam, hàng năm đóng góp khoảng 13% vào tổng GDP cả
nước. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện Việt Nam có gần 3 triệu hộ

16


kinh doanh cá thể, tạo công ăn việc làm cho hơn 5 triệu lao động phổ thông. Không
những thế, các hộ kinh doanh cá thể này còn là mạng lưới rộng lớn nhất, phát triển
tận về các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn mà các doanh nghiệp bán lẻ không thể
đáp ứng được. Do đó, đây là một kênh quan trọng trong hệ thống phân phối và lưu
thông hàng hóa, giúp cân đối thương mại và phát triển kinh tế địa phương.
Tuy nhiên, đặc điểm chung của các đối tác này là hoạt động kinh doanh mang
nặng tính tự phát, thiếu kiến thức và kỹ năng để chống đỡ những rủi ro, biến động
có thể xảy ra trên thị trường và hầu hết đây là những lao động phổ thông, gần như
không qua bất kỳ trường lớp, khóa đào tạo nào về kỹ năng kinh doanh. Hơn nữa,
thông thường ở Việt Nam những hộ kinh doanh cá thể kiểu này lại thường là đối
tượng tạo ra thu nhập chính cho gia đình.Chính vì vậy, những tác động dù nhỏ tới
khu vực này cũng có thể dẫn tới ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của nhiều người khác
là thành viên trong gia đình họ.
3) Hàng hóa lưu thông trên thị trường
Các loại hàng hóa tham gia lưu thông trên thị trường bán lẻ trong nước cũng
ngày càng đa dạng, phong phú cả về chủng loại và cấp độ sản phẩm. Bên cạnh
những hàng hóa sản xuất trong nước, cùng với quá trình mở cửa thị trường trong
những năm gần đây, rất dễ để nhận ra rằng ngày càng có nhiều loại hàng hóa được
nhập khẩu từ nước ngoài về phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, đã
và đang tạo nên một thị trường bán lẻ nội địa đa dạng và nhiều màu sắc. Hơn ai hết,

người tiêu dùng là đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất từ điều này, bởi lẽ các hàng
hóa được nhập khẩu từ nước ngoài hầu hết là của các thương hiệu uy tín, chất lượng
cao, mẫu mã đẹp.
Một hiện tượng dễ thấy ở thị trường Việt Nam hiện nay là hàng hóa được sản
xuất tại Trung Quốc từ đồ dùng đơn giản hàng ngày như đôi dép cho tới hàng sang
trọng đắt tiền như laptop. Đối với nhiều người, đây không phải là hiện tượng lạ vì
chúng ta giáp với Trung Quốc – công xưởng của Thế giới, nơi có thể sản xuất ra
những mặt hàng giá rẻ bất ngờ và phần lớn dân ta rất ưa chuộng hàng giá rẻ.
Và một điều khó có thể tránh được là hàng trên thị trường có một tỷ lệ không
nhỏ là hàng giả. Hàng giả, hàng nhái khá phổ biến ở nhiều mặt hàng, từ những mặt

17


hàng thông thường, như mỹ phẩm, quần áo, hàng hiệu túi xách, xi măng…, những
mặt hàng liên quan đến sức khỏe và tính mạng con người, như thuốc tân dược, rượu,
một số thực phẩm…, đến những mặt hàng có tính kỹ thuật, những mặt hàng cao
cấp, có giá trị lớn, như phụ tùng xe máy, đầu VCD, DịCH VụD…, rồi cổ phiếu,
tiền… Và đến cả "tem chống hàng giả" cũng bị làm nhái, làm giả! Thời gian xuất
hiện hàng giả, hàng nhái bây giờ cũng nhanh hơn nhiều; nếu trước đây, sau khi
doanh nghiệp cho ra đời sản phẩm mới phải trên nửa năm sau mới có hàng giả, hàng
nhái, thì nay có khi chỉ khoảng nửa tháng hàng giả, hàng nhái đã xuất hiện ngoài thị
trường . Theo đánh giá sơ bộ, tỷ lệ hàng giả tại thị trường hiện chiếm khoảng 8%
đối với dược phẩm, 25% đối với rượu mạnh…
4) Các hệ thống phân phối bán lẻ
Theo số liệu của Grocery Report - The Nielsen 2008, cả nước hiện có khoảng
500.000 điểm bán lẻ ở tất cả các loại hình.Có thể chia thị trường bán lẻ Việt Nam ra
làm 2 kênh khác nhau dựa vào phương thức hoạt động và kinh doanh: kênh phân
phối bán lẻ truyền thống và kênh phân phối bán lẻ hiện đại.
Hiệp hội bán lẻ Việt Nam cho rằng, dù sự chênh lệch giữa kênh bán lẻ hiện đại

và truyền thống vẫn còn rất lớn, khó cân bằng nhanh trong thời gian tới. Nhưng hiện
nay người tiêu dùng đã quan tâm hơn đến hệ thống siêu thị và các cửa hàng tiện ích.
Bởi nếu như trong năm 2007 có 66% người tiêu dùng thỉnh thoảng mua sắm tại siêu
thị, thì cuối 2008 con số này đã lên tới 96%. Tần suất mua sắm tại cửa hàng tiện ích,
siêu thị cũng ngày càng tăng, từ 2 lần/tháng trong giai đoạn 2005 – 2007, lên 3
lần/tháng trong năm 2008, và nâng lên 4 – 5/tháng trong năm 2009 [9].
Cuộc cạnh tranh liên tục giữa các kênh bán lẻ hiện đại - truyền thống, nhất là
sự tham gia của các nhà bán lẻ nước ngoài đã mang lại luồng gió mới làm thay đổi
về chất và diện mạo của ngành bán lẻ nước ta. Với nhiều kênh bán lẻ mới, người
tiêu dùng có thêm các lựa chọn mua sắm hơn nên đã tạo áp lực buộc kênh bán lẻ
truyền thống đang dần thay đổi về chất lượng phục vụ.
Xu hướng phát triển chủ đạo của hệ thống bán lẻ Việt Nam trong thời gian tới
là hệ thống truyền thống được duy trì, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, hệ thống
phân phối hiện đại ngày càng lớn mạnh và phát triển.

18


4.1) Kênh phân phối bán lẻ truyền thống
Các phương thức bán lẻ truyền thống đã tồn tại từ hàng nghìn năm trước trong
đời sống người Việt và hiện vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hệ thống phân phối
của Việt Nam, góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của thị trường bán lẻ.
Theo số liệu của Bộ Thương mại tại Hội nghị phát triển thương mại trong nước và
thực thi cam kết với WTO khu vực miền Nam được tổ chức tại TP. HCM vào ngày
02/05/20007, thì hàng hóa đến tay người tiêu dùng vẫn chủ yếu qua hệ thống chợ
(khoảng 40%) và các cửa hàng bán lẻ độc lập ( khoảng 44%). Hàng bán qua hệ
thống phân phối hiện đại như siêu thị, cửa hàng tiện ích… mới chỉ chiếm khoảng
10%, còn lại 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng.
Theo một cuộc khảo sát gần đây của công ty nghiên cứu thị trường AC
Nielsen, thành viên của tập đoàn Nielsen tại Mỹ (công bố ngày 27/10/2008), thì

kênh phân phối truyền thống vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng
ngày của người Việt khi kênh này chiếm tới 68% tổng doanh số mặt hàng thực
phẩm trên thị trường ; dự kiến năm 2009 và 2010, thị phần bán lẻ của kênh thương
mại này vẫn chiếm ưu thế với 80% và 76% . Trong khi đó lương thực, thức ăn tươi
sống hiện chiếm tới 70% tổng ngân sách chi tiêu của người Việt hàng tháng. Đây là
lý do vì sao người tiêu dùng vẫn đi chợ hàng ngày và chỉ tới siêu thị khoảng 2
lần/tuần.
Nhược điểm của kênh phân phối truyền thống là các quan hệ buôn bán diễn ra
không liên tục, thiếu tính ổn định, khó có thể kiểm soát được. Trước đây, bất kể ở
đâu có dân cư sinh sống thì ở đó sẽ hình thành nên các chợ cóc, chợ tạm để phục vụ
nhu cầu của người dân. Hiện nay mạng lưới các chợ được phân bố rộng khắp trên cả
nước với tổng số gần 10.000 chợ, trong đó có khoảng 6790 chợ ở nông thôn và
3210 chợ ở khu vực thành thị, đã và đang xây dựng hơn 150 [7] chợ đầu mối buôn
bán nông sản cấp địa phương (đa số các tỉnh và thành phố đều đã có ít nhất 1 chợ
đầu mối). Tuy nhiên đa số các chợ có quy mô nhỏ với diện tích bình quân mỗi điểm
bán hàng ở chợ thành thị là 11,7m 2; ở nông thôn là 12,5m2. Các chợ này hầu hết
hình thành tự phát, không ít chợ lấn chiếm lòng đường, vỉa hè gây mất trật tự xã hội.
Chợ chủ yếu phục vị nhu cầu thực phẩm, nhu yếu phẩm hàng ngày của người

19


dân trong khu vực, đa phần dưới dạng lều lán tạm bợ, ước tính chỉ có khoảng 11,6%
số chợ trên toàn quốc được xây dựng kiên cố. Ngoài ra, hàng hóa ở chợ phần lớn
không rõ nguồn gốc xuất xứ, không đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn sản phẩm,
số lượng bán hàng lại hạn chế, mang tính bình dân… Do đó khách hàng của các chợ
truyền thống kiểu này chủ yếu tập trung vào người có thu nhập bậc trung đến thấp.
Chính bởi những mặt còn tồn tại kể trên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế
và sự thay đổi của tập quán tiêu dùng xã hội, trong thời gian tới chắc chắn sẽ diễn ra
một sự chuyển dịch tỷ trọng giữa các kênh phân phối. Theo đó, kênh phân phối hiện

đại sẽ dần dần chiếm ưu thế hơn so với kênh phân phối truyền thống. Tuy nhiên,
điều đó không có nghĩa là các kênh phân phối truyền thống sẽ bị mất hoàn toàn ưu
thế. Thời gian gần đây, tại nhiều tỉnh, thành phố, các chợ đã bắt đầu tự đổi mới mình
bằng cách sắp xếp, bố trí lại các gian hàng cho khoa học, thông thoáng hơn. Có thể
khẳng định rằng, dù ở thời đại nào thì kênh phân phối truyền thống vẫn luôn đóng
vai trò không thể thiếu của nó, tồn tại trong lòng người dân, tồn tại trong tất cả ngõ
xóm, các khu tập thể, các dãy phố, như một nét văn hóa không thể thiếu của người
Việt.
4.2) Kênh phân phối bán lẻ hiện đại
Bên cạnh kênh bán lẻ truyền thống, trong những năm gần đây, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, kênh bán lẻ hiện đại cũng ngày càng được mở
rộng và trở nên phổ biến. Người tiêu dùng Việt Nam đã bắt đầu trở nên quen thuộc
với các loại máy hình mua sắm hiện đại như các cửa hàng tiện ích, các siêu thị hay
trung tâm thương mại. Thay vì đi chợ, họ vào siêu thị để thư giãn, để thỏa cái thú
vui mua sắm, ngắm nhìn hàng hóa được sắp đặt vuông hàng thẳng lối, giá cả được
niêm yết rõ ràng, không mặc cả, không to tiếng, văn minh và sạch sẽ. Khuyến mại
được trưng bày công khai, chất lượng hàng hóa được kiểm nghiệm chặt chẽ… Có
thể nói kênh phân phối hiện đại đã thuyết phục được ngay cả những người tiêu dùng
khó tính nhất và ngày càng chiếm ưu thế so với kênh bán hàng truyền thống.
Nếu như trước đây, phương thức bán lẻ hiện đại rất ít, chỉ đạt khoảng 3% (năm
2001) trong hệ thống phân phối thì đên năm 2007 đã lên tới 14% và chiếm khoảng
20% (số liệu từ Grocery Report). Theo nhận định của Công ty nghiêm cứu thị

20


trường AC Nielsen, đến năm 2010 phương thức này sẽ chiếm lĩnh 24% trong thị
trường phân phối, riêng tại TP. HCM và Hà Nội việc người dân tới các trung tâm,
siêu thị, chuỗi cửa hàng,… đê mua sắm sẽ chiếm tới 37% trong vài ba năm nữa.
Cũng theo Nielson, doanh thu của kênh phân phối hiện đại đã tăng trưởng 47%

trong năm 2007 so với mức 10% trong năm 2006. Sự tăng trưởng nhanh chóng này
là do sự bùng nổ của các siêu thị, trugn tâm thương mại và chuỗi cửa hàng trên toàn
quốc.
Cách đây hơn 13 năm, siêu thị quốc doanh đầu tiên của Việt Nam ra đời (tháng
11/1995). Đến cuối năm 2007, cả nước có khoảng 70 trung tâm thương mại, gần
400 siêu thị các loại, 2000 cửa hàng tiện ích… chiếm hơn 10% tổng mức bán lẻ và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội. Dự kiến đến năm 2010, số siêu thị sẽ tăng lên
700 – 750, trung tâm thương mại tăng lên 150 và số cửa hàng tiện ích sẽ lên đến
hàng chục ngàn. Trên thị trường, bên cạnh các thương hiệu nổi tiếng như Phú Thái,
Hapro, Satra, Saigon Co.op còn có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như
Metro, BigC, Parkson…
Riêng ở TP. HCM từ 14 siêu thị năm 2005, đến cuối năm 2008 đã có 60 siêu
thị, hiện nay đã trên 150 siêu thị và trung tâm thương mại. Doanh thu của các siêu
thị cũng liên tục tăng. Co.op mart có doanh thu tăng từ 35% đến gần 50% mỗi năm.
Hầu hết các siêu thị đang kinh doanh trên địa bàn thành phố như Vinatexmart,
Citimart, Maximart, Big C… cũng đều đạt tốc độ tăng trưởng bình quân từ 30% trở
lên.
Cùng với việc nhiều siêu thị ra đời, lượng khách đến mua hàng tại các siêu thị
cũng tăng lên nhanh chóng trong thời gian qua, góp phần tăng trưởng đáng kể cho
kênh phân phối hiện đại này. Nghiên cứu thị trường bán lẻ Việt Nam, tiến sĩ Nguyễn
Ngọc Hà – chủ tịch hội đồng quản trị Saigon Co.op cho biết: có đến hơn 50% số hộ
gia đình ở thành thị đã đi mua sắm ở các kênh phân phối hiện đại hàng tháng, trong
đó 30% đi mua ở siêu thị, 12% ở siêu thị bán sỉ, 8% ở trung tâm thương mại, 2% ở
siêu thị nhỏ[14]. Chi tiêu trong kênh bán lẻ hiện đại cũng gia tăng nhanh chóng
(trung bình đạt 17%/năm). Còn theo kết quả điều tra của ng tiêu cho các mặt hàng
tiêu dùng nhanh tại các kênh phân phối hiện đại ở Việt Nam cũng tăng

21



gấp

đôi.

Cụ

thể

trong

năm

2003



777.000đ/người/năm,

tăng

lên

1.796.000/người/năm trong năm 2008.
Các nghiên cứu về hành vi, tâm lý tiêu dùng cũng đã chỉ ra nhu cầu mua sắm ở
các kênh bán lẻ hiện đại vẫn đang tiếp tục gia tăng mạnh mẽ, nhất là ở các vùng đô thị
như TP. HCM, Hà Nội, Đà Nẵng… Dân số các thành phố gia tăng một cách nhanh
chóng, càng thể hiện nhu cầu trao đổi, mua bán, đặc biệt là mặt hàng tiêu dùng thiết
yếu. Vì vậy, cơ hội cho các cửa hàng tiện ích, siêu thị kinh doanh là rất lớn.

5) Sự cần thiết phát triển thị trường bán lẻ ở Việt Nam

Như trên chúng ta đã thấy thị trường phân phối bán lẻ có một vai trò không thể
thiếu trong đời sống người dân của bất kỳ quốc gia nào. Thị trường phân phối bán lẻ
nuôi sống cả một nền kinh tế, và góp phần làm cho khâu sản xuất được trơn tru. Vì
vậy, phát triển thị trường bán lẻ là cần thiết, và càng bức thiết hơn ở Việt Nam hiện
nay.
Được đánh giá là một thị trường hấp dẫn, được nhiều đại gia bán lẻ nước ngoài
hướng tới, sau khi hoàn thành các cam kết gia nhập WTO, sẽ có khả năng làn sóng
đầu tư nước ngoài ồ ạt vào thị trường bán lẻ Việt Nam. Điều đó làm cho thị trường
bán lẻ càng thêm sôi động với một hệ thống siêu thị hiện đại tồn tại bên kênh phân
phối truyền thống, chất lượng phục vụ nâng cao, phong phú các chủng loại hàng hóa
và người tiêu dùng sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn. Tuy nhiên, các nhà bán lẻ nội địa
lại đứng trước khả năng bị áp đảo, thậm chí “mất đất làm ăn” ngay chính trên sân
nhà nếu không đủ khả năng chống đỡ. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm sao phát triển thị
trường bán lẻ bằng cách thu hút đầu tư nước ngoài đồng thời cân bằng với việc hỗ
trợ các doanh nghiệp nội địa phát triển.
Thực tế diễn biến ra sao, nhà đầu tư nước ngoài đã thâm nhập thị trường bán
lẻ Việt Nam như thế nào, doanh nghiệp nội địa đã chuẩn bị ra sao, chính phủ nên có
các chính sách gì thúc đẩy và bảo hộ thị trường trong nước, sẽ được khóa luận trình
bày trong các phần tiếp theo.

22


CHƯƠNG II: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA THỊ TRƯỜNG
BÁN LẺ Ở VIỆT NAM KỂ TỪ SAU 1/1/2009
I) Các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực phân phối và bán lẻ

Trải qua hơn 10 năm với hàng chục các phiên đàm phán song phương và đa
phương, đến ngày 11/01/2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên đầy đủ
của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO). Việc gia nhập WTO đem lại rất nhiều cơ

hội cho Việt Nam mà một trong những cơ hội và cũng là thách thức lớn nhất là việc
Việt Nam phải thực hiện các cam kết WTO về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối
bán lẻ.
Thị trường phân phồi bán lẻ đầy tiềm năng của Việt Nam có sức thu hút rất lớn
đối với các doanh nghiệp và các tập đoàn bán lẻ nước ngoài. Vì vậy, trong quá trình
đàm phán gia nhập, nhiều thành viên WTO đã đưa ra yêu cầu rất cao, đề nghị ta
phải mở cửa thị trường dịch vụ phân phối và coi đây là điều kiện tiên quyết để chấp
nhận cho Việt Nam gia nhập WTO. Do trước đó Việt Nam đã cam kết mở cửa thị
trường dịch vụ phân phối trong Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa
Kỳ (BTA) nên ta đã đồng ý đàm phán với các thành viên WTO để dành cho các
thành viên này đối xử như ta đã dành cho Hoa Kỳ. Cam kết của Việt Nam trong
WTO đối với dịch vụ phân phối được thiết kế trên cơ sở của BTA. Ví dụ, tương tự
như BTA, ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo,
tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản
phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi măng, phân bón… ta chỉ mở cửa thị trường sau 3
năm.
Tuy nhiên, các thành viên WTO chỉ coi BTA là khởi điểm để đàm phán nên
cam kết của Việt Nam trong WTO có nhiều thay đổi so với BTA. Cụ thể như sau:
Theo phân loại của WTO, dịch vụ phân phối được chia làm 4 phân ngành
gồm: dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ, và dịch vụ nhượng
quyền thương mại. Cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ WTO đối với các phân
ngành này là:

23


Theo phân loại của WTO, Việt Nam cam kết mở cửa các dịch vụ phân phối
sau khi gia nhập, bao gồm: (i) dịch vụ đại lý hoa hồng; (ii) dịch vụ bán buôn; (iii)
dịch vụ bán lẻ; (iv) dịch vụ nhượng quyền thương mại.
Các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp phép trước

khi Việt Nam gia nhập WTO (kể cả các doanh nghiệp, siêu thị 100% vốn nước
ngoài) sẽ tiếp tục được hoạt động với các điều kiện như đã quy định trong giấy
phép. Còn các doanh nghiệp thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ phải tuân
thủ các cam kết của Việt Nam trong WTO đối với dịch vụ phân phối.
Về hình thức hoạt động: ngay sau khi gia nhập WTO, ta cam kết cho phép
các nhà phân phối nước ngoài được thành lập liên doanh với đối tác Việt Nam để
cung cấp dịch vụ phân phối, nhưng tỷ lệ góp vốn phía nước ngoài không được vượt
quá 49% vốn góp sẽ được bãi bỏ, nhưng các nhà đầu tư nước ngoài vẫn chỉ được
thành lập công ty dưới hình thức góp vốn liên doanh. Kể từ ngày 01/01/2009, Việt
Nam cho phép thành lập doanh nghiệp phân phối 100% vốn nước ngoài tại Việt
Nam.
Về diện mặt hàng: Việt Nam cam kết mở cửa các dịch vụ phân phối cho tất cả
các sản phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, trừ các mặt hàng sau:
Danh mục hàng hóa loại trừ vĩnh viễn: là những mặt hàng mà nhà đầu tư nước
ngoài sẽ không bao giờ được quyền tham gia phân phối trên lãnh thổ Việt Nam như:
lúa, gạo, đường, thuốc lá, xì gà, dầu thô và dầu qua chế biến, dược phẩm, thuốc nổ,
sách – báo – tạp chí, kim loại quý và đá quý, vật phẩm đã ghi hình trên mọi chất
liệu.
Danh mục hàng hóa loại trừ có thời hạn: nhà đầu tư nước ngoài được quyền
phân phối theo lộ trình mà Việt Nam đã cam kết. Từ 01/01/2009 là máy kéo,
phương tiện cơ giớ, ô tô con và xe máy. Từ 01/01/2010 là rượu, xi măng, clinke,
phân bón, sắt thép, giấy, lốp xe (trừ lốp máy bay), thiết bị nghe nhìn.
Về cơ sở bán lẻ: theo quy định tại Phụ lục số 01 Quyết định số 10/2007/QĐBTM: “Quyền phân phối của nhà đầu tư nước ngoài với quyền được lập cơ sở bán
lẻ thứ nhất.”

24


Tuy nhiên, cũng theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam vẫn có thể hạn chế
khả năng mở thêm điểm bán lẻ của các doanh nghiệp nước ngoài thông qua việc

kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT). Kiểm tra nhu cầu kinh tế có thể hiểu là việc cơ
quan có thẩm quyền căn cứ vào tình hình thực tế để xem xét có cấp phép cho các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục mở cơ sở thứ nhất hay không. Việc
kiểm tra nhu cầu kinh tế, cấp phép sẽ dựa trên các tiêu chí khách quan, bao gồm số
lượng các nhà cung cấp dịch vụ (các cơ sở bán lẻ) đang hiện diện trong một số khu
vực địa lý, sự ổn định của thị trường và quy mô địa lý.
Chính sách mở cửa thị trường bán lẻ như vậy là cần thiết và hợp lý. Từ đó,
Nhà nước và toàn bộ các doanh nghiệp cần phải thực hiện nghiêm túc, triển khai
đúng quy định, minh bạch thì mới phát huy hết tác dụng của chính sách.
II) Thị trường bán lẻ ở Việt Nam kể từ sau 1/1/2009
1) Mức độ hấp dẫn và mức độ tăng trưởng
1.1)Mức độ hấp dẫn của thị trường bán lẻ Việt Nam
Hòa chung vào tình hình kinh tế thế giới u ám, mức độ hấp dẫn của thị trường
bán lẻ Việt Nam giảm sút trong năm 2009. Năm 2008, thị trường bán lẻ nước ta
“qua mặt” cả ba “người khổng lồ” Ấn Độ, Nga và Trung Quốc để chiếm “ngôi hậu”
trong “làng bán lẻ” thế giới. Tuy nhiên, năm 2009 đã có nhiều thay đổi, chúng ta
không thể giữ vững duy trì ổn định được vị thế đó.Theo kết quả nghiên cứu lựa
chọn xếp hạng 30 nền kinh tế có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới được tập
đoàn tư vấn A.T. Kearney công bố, với “chỉ số phát triển bán lẻ chung năm 2009”
(The 2009 A.T. Kearney Global Retail Development Index, viết tắt là GRDI) chỉ đạt
55 điểm, thị trường bán lẻ Việt Nam rơi năm bậc xuống vị trí thứ sáu.

25


×