Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

NHO GIÁO (phần 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.58 KB, 2 trang )

ĐẠO NHO
(Phần 1)
Kho cử kén người ra làm quan hỏi về thuật trị nước, an dân của đạo
Nho. Nho giáo manh nha từ từ thời thượng cổ (Nghiêu, Thuấn). Nho sĩ là
hạng người cần thiết, chờ đợi người ta cần đến mình thì đem tài trí, sở học ra
làm những việc hữu ích cho nhân quần xã hội (chữ Nho gồm hai chữ: Nhân =
người, và Nhu = cần dùng, lại có nghĩa là chờ đợi). Nho sĩ là hạng người tích
cực nhập thế, ra làm quan là mong có cơ hội thực hành cái đạo học của
mình.
Người đời thường lẫn lộn đạo Nho với đạo Khổng là một, coi Khổng
Tử là thủy thổ của đạo Nho. Sự thật, Khổng giáo thoát thai từ Nho giáo,
Khổng Tử chỉ khôi phục lại cái học Tu Tề Trị bình, Nhân Nghĩa Lễ Nhạc…
sắp xếp lại thành một học thuyết có hệ thống, tôn chỉ rõ rệt, nhấn mạnh vào
chữ Đức.
Nho giáo, nguồn gốc từ Trung Quốc, được truyền sang Việt Nam
cùng một lúc với Hán học.
I/ NHO GIÁO Ở TRUNG QUỐC
1. Thòi Thượng cổ đã áp dụng chính sách coi dân là trọng và thuận
theo Trời mà hành động.
- Phục Hi (4486 – 4365 tr.TL) vạch ra 8 quẻ (Bát quái, tức là: Càn =
trời, Khôn = đất, Tốn = gió, Khảm = nước, Ly = lửa, Chân = sấm, Cấn =
núi, Đoài = đầm) tượng trưng cho thiên hạ thái bình. Lại đặt ra các nghi thức
hôn lễ: bạp thái, vấn danh…
- Hoàng đế (2698 – 2597 tr.TL) là người khởi xướng nghia trật tự trên
dưới trog xã hội: giữa vua tôi có nghĩa, giữa cha con có thân ái, giữa vợ
chồng có phân biệt, anh em có thứ tự, bằng hữa có lòng tin (Ngũ luân).
- Vua Nghiêu (2357 – 2257 tr.TL), tức nhà Đào Đường, trongj “đức
trị”, coi vua chỉ là công bộc, có nghĩa vụ chăm sóc cho dân. Vua Nghiêu
theo chính sách “truyền hiền” chứ không “truyền tử”, nhường ngôi cho
Thuấn vì thấy Thuấn là người hiền, chứ không nhường cho con.
- Vua Thuấn (2256 – 2208 tr.TL): họ Ngu, lấy đức hạnh làm gương


mẫu cho dân noi theo nên “không làm gì” mà nước cũng được trị, thiên hạ
thái bình. Lại định âm nhạc, đặt ra quan chế, dùng người tài giỏi. Vua Thuấn
truyền ngôi cho vua Vũ cũng là người hiền, lập ra nhà Hạ.
2. Thời Tam Đại gồm:
a. Nhà Hạ (Hạ Vũ / Đại Vũ) (2205 – 1786 tr.TL) đặt ra Cửu trù,
định rxo các mối luân thường; chính trị thì lấy trọng dân, khoan hồng
vời dân, yên dân làm gốc; lại thuận theo lẽ trời mà thi hành mệnh lệnh:
tháng nào nên làm gì, hay không nên làm gì đều qiu định sẵn, cưỡng lại
là Trời ra tai. Nhà Minh là chỗ Thiên tử ở, ban chính lệnh và tế tự tổ tông.
b. Nhà Thương (1766 – 1401 tr.TL), sau vì nước lụt phải thiên đô
sang Ân mới đổi quốc hiệu thành nhà Ân 91401 – 1123 tr.TL). Vua Kiệt
nhà Hạ bạo ngược nên thượng đế không tựa, cho vua Thành Thang (1783 –
1754 tr.TL) trừng phạt, diệt nhà Hạ, lập ra nhà Thương. Thành Thang chủ
trương dùng đức trị dân, ngôi vua chẳng dành riêng cho ai: Kính đạo Trời thì
giữu được mãi mệnh Trời. Thuyết “tri và hành” bắt đầu từ đời nay.
Y Dõa dậy vua Thái Giáp, con Thành Thang, đạo Tu Tề: Yêu người
thân, kính người trưởng phải bắt đầu từ nhà rồi đến nước, cuối cùng mới tới
thiên hạ. Phải coi là trọng, vua không có dân thì làm chúa với ai? Trời chỉ
giúp kẻ có đức, dân chỉ về với kẻ có đức, có đức thì trị, không có đức thì
loạn. Kén quan thì phải kén người hiền tài.
Nhà Thương truyền đến vua Trụ thì mất.
c. Nhà Chu (1122 – 221 tr.TL): Vua Trị nàh Ân tàn bạo, bị Vũ Xương
truất ngôi, lập ra nhà Chu. Vũ Xương (1134 – 1116) dậy phép trị nước phải
trọng nhân tâm thì ngôi vị mới vững bền, dân muốn là Trời muốn, thất nhất
tâm là sẽ mất nước. “Đừng soi ở nước, nên soi ở nhân tâm”
Chu Công Đán, em Vũ Xương, châm chước chế độ các đời Nghêu,
Thuấn, Thương / Ân, đặt ra lễ định, định rõ phép tắc, nghi thức quan hôn
tang tế … để giữa trật tự trong xã hội. Đời sau lấy đó lam chuẩn tắc cho việc
trị nước, giáo hóa dân, tức la mối đầu của Nho giáo.
( Còn nữa … )

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×