Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận nâng cao chất lượng giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.77 KB, 33 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
……***……
HÀ THỊ HƯƠNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI : NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC THCS Ở HUYỆN
YÊN HƯNG - TỈNH QUẢNG NINH TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ.
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
………………………………..
Khoa tư tưởng Hồ Chí Minh
QUẢNG NINH, THÁNG 6 NĂM 2006
1
MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài:
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học từ lâu đời. Trải qua hàng
nghìn năm lịch sử, truyền thống đó đã góp phần tạo nên nét đẹp của nền văn hiến
Việt Nam và được phát huy hơn bao giờ hết trong thời đại mới,
Hơn thế kỷ qua, kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Trong sự
nghiệp đấu tranh, bảo vệ và xây dựng đất nước, nền giáo dục nước nhà thực sự giữ
một vai trò quan trọng, gánh vác những sứ mệnh quang vinh của sứ mạng dân tộc.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xuống và lãnh đạo đã
thu được nhiều thành tựu rực rỡ. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trưường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã đ-
ược hình thành và từng bước phát triển. Trình độ dân chí được nâng lên một bước
làm cơ sở cho kinh tế- xã hội phát triển, tạo động lực cho sự nghiệp công nghiệp -
hiện đại hoá đất nước.
Với xu thế quốc tế hoá ngày càng tăng lên, cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới đang diễn ra mạnh
mẽ và phát triển với tốc độ cao. " khoa học đã trở thành một lực lượng sản xuất trực
tiếp như Mác dự đoán, còn công nghệ đổi mới hết sức nhanh chóng. Trình độ dân trí


và tiềm lực khoa học, công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh và thế
của mỗi Quốc gia trên thế giới" (Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp Hành Trung
ương khoá VIII - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà nội;1997, tr 5).
Việc quan hệ ngày càng được mở rộng đã làm cho mỗi quốc gia hiểu sâu sắc
thêm những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của
mọi nguồn sáng tạo, mọi của cải vật chất văn hoá và văn minh của mỗi quốc gia
dân tộc và toàn nhân loại. Để có cơ hội hội nhập được với nền kinh tế mang tính
chất khu vực hoá, toàn cầu hoá, nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực đã
nhận thức và có chủ trương trong phát triển giáo dục.
Trong chiến lược phát triển KT - XH của đất nước, chúng ta đã đặt con
người vào vị trí trung tâm, phát huy nhân tố con người. Mục tiêu và động lực chính
của sự phát triển do con người và vì con người. Phát huy nhân tố con người, động
lực trực tiếp của sự phát triển, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh. Đây là một trong những quan điểm cơ bản của cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH của chiến lược ổn định và phát
triển KT - XH đến năm 2010 và 2020. Nguồn lực đó là đào tạo con người phát triển
trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, phẩm chất tốt đẹp, cưường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên
tiến là mục tiêu hướng tới của toàn Đảng, toàn dân ta.
Thực hiện quan điểm ấy là trách nhiệm của các cấp các ngành, nhưng trước
hết phải là ngành giáo dục. Giáo dục là cách thức, là con đường cơ bản và ngắn
nhất, bền vững nhất để hình thành và hoàn thiện con người mới XHCN - con người
phát triển về trí tuệ, thể lực, đạo đức, lẽ sống, tình cảm.
Hai mươi năm đổi mới, nền giáo dục đào tạo của nước ta đã có nhiều chuyển
biến và đạt được những thành tựu quan trọng. Hệ thống giáo dục quốc dân mới đ-
ược xác lập, luật giáo dục ra đời, mạng lưới trường lớp phát triển rộng, đáp ứng đ-
ược nhu cầu học tập của mọi người, qui mô có bước tăng trưởng khá, mặt bằng dân
2
trí được nâng lên, nội dung, phươngpháp giảng dạy được cải cách theo hớng hiện
đại, được coi trọng triển khai.

Tuy nhiên, trước những thách thức của sự phát triển kinh tế, KH - CN trong
khu vực và trên thế giới, trước những đòi hỏi của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước
nền giáo dục cần được phát triển theo tốc độ nhanh, chất lượng tốt hơn. "chúng ta
chỉ có thể phát triển KT - XH một cách làm mạnh và bền vững bằng việc chăm lo
phát triển giáo dục với tốc độ nhanh hơn, chất lượng tốt hơn, hiệu quả lớn hơn và
đảm bảo công bằng trong giáo dục". (VK HN lần thứ 2 BCH TW Khoá 8, NXB
CTQG, HN, 1997, tr 9). Song những thay đổi trong giáo dục - đào tạo vẫn còn
chậm, còn nhiều bất cập so với yêu cầu của phát triển kinh tế và khoảng cách khá
xa so với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó cơ chế thị trưường cũng ảnh hưởng
đến giáo dục cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ c-
ương trong giáo dục, xuống cấp về đạo đức và văn hoá, những yếu kém trong quản
lí dạy thêm, học thêm tràn lan, chất lượng và hiệu quả GD - ĐT còn thấp chưa đáp
ứng kịp thời những đòi hỏi của xã hội ngày càng lớn về nguồn nhân lực có tri thức.
Mặt khá, đời sống của đội ngũ cán bộ giáo viên, lực lượng trực tiếp quyết định chất
lượng GD - ĐT còn nhiều khó khăn.
Bước vào kỷ nguyên mới, chúng ta đang có nhiều thời cơ mới để phát triển
đồng thời cũng phải đương đầu với nhiều thử thách mới. Một trong bốn nguy cơ đ-
ược Đảng ta xác định, đáng lo ngại nhất là tụt hậu về kinh tế. Với tư cách là động
lực phát triển KT - XH, GD - ĐT phải tiếp tục đổi mới và phát triển, trong đó có
bậc THCS (Trung học cơ sở). giáo dục THCS giúp học sinh củng cố và phát triển
kết quả của giáo dục tiểu học và phổ cập GDTH đúng độ tuổi, tiếp tục học lên các
bậc học trên hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển GD - ĐT của cả nước, GD -
ĐT ở tỉnh Quảng Ninh nói chung và huyện Yên Hưng nói riêng đã từng bước phát
triển cả về số lượng và chất lượng. Mạng lưới trưường lớp được hình thành và phát
triển ở các địa bàn đáp ứng nhu cầu học của mọi người, có đủ các loại hình trường
lớp, các hình thức học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học được cải thiện, chất l-
ượng giáo dục mũi nhọn ổn định và có tiến bộ nhất là ở bậc THCS, THPT số lượng
học sinh TH trog những năm qua đều tăng đáng kể. Tuy nhiên điều kiện phục vụ
cho giảng dạy và họctập còn nhiều khó khăn, cơ cấu đội ngũ giáo viên chưa đồng

bộ, vừa thừa vừa thiếu, chất lượng đại trà còn yếu, một bộ phận giáo viên trẻ thiếu
kinh nghiệm nhất là ở những xã ĐBKK và ATK. Đó là thực tế khách quan cần phải
giải quyết nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và yêu cầu đổi mới của sự nghiệp phát
triển GD - ĐT, góp phần phát triển KT - XH ở địa phương.
Với kiến thức được học tập tại chương trình cao cấp lý luận chính trị của học
viện Chính trị - Khu vực I, cùng thực tế công tác ở cơ quan quản lí giáo dục địa ph-
ương tôi mạnh dạn chọn vấn đề: "Nâng cao chất lượng giáo dục trung học cơ sở ở
huyện Yên Hưng - Tỉnh Quảng Ninh trong thời kỳ định hướng công nghiệp hoá -
hiện đại hoá". Làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài:
2.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Đánh giá một cách toàn diện, khách quan, khoa học, từ đó làm sáng tỏ
những quan điểm, đường lối, chủ trương cũng như quá trình tổ chức thực hiện
3
các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục THCS ở huyện Yên Hưng -
Tỉnh Quảng Ninh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xuất phát từ cơ sở KH, những nguyên lí của chủ nghĩa Mác- lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta cúng lí luận về giáo dục dạy học để phân
tích thực trạng công tác giáo dục bậc THCS ở huyện miền núi Yên Hưng. Với
những thành tích đã đạt được cùng những khuyết điểm, tồn tại và nguyên nhân của
nó. Từ đó tìm ra giải pháp để nâng cao một bước về chất lượng giáo dục trong thời
gian tới.
2.2.Nhiện vụ nghiên cứu:
Trên cơ sở trình bày đặc điểm, tình hình KT-XH của huyện Yên Hưng - Tỉnh
Quảng Ninh; Luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích làm sáng tỏ thực trạng giáo dục - đào tạo ở huyện Yên Hưng -
Tỉnh Quảng Ninh từ năm 2000- 2005.
- Bước đầu đánh giá những kết quả, hạn chế và rút ra một số nguyên nảan cơ
bản, từ đó đưa ra giải pháp để nâng cao một bước về chất lượng giáo dục trong thời
gian tới.

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu thực trạng chất lượng GD THCS của
huyện Yên Hưng - Tỉnh Quảng Ninh, đặc biệt ở một số trường điển hình.
Thời gian nghiên cứu đề tài trong 5 năm trở lại đây, từ năm 2000 khi ngành
GD thực hiện NQ TW2 khoá 8 và NQ ĐH Đảng lần thứ IX, tiếp tục khẳng định
giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài sử dụng phương luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta.
- Đề tài chú trọng phương pháp lịch sử và logíc, kết hợp lịch sử với lôgic,
những pháp phân tích, tổng hợp, điều tra, thống kê,…
- Sử dụng phương pháp văn bản, dựa vào các văn kiện Đảng, các Nghị quyết
Hội nghị Trung ương Đảng , các báo cáo của nghành, của tỉnh và của huyện của
các trường Trung học cơ sở trên địa bàn.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm 3 chương chính:
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NỀN
GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO VIỆT NAM
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ
CỦA ĐẢNG TA VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin:
Trong lịch sử nhân loại, bất cứ quốc gia nào, thời đại nào cũng phải xây dựng
một hệ thống giáo dục với mục tiêu đào tạo ra những con người phù hợp với chế độ
xã hội ấy. Môi trưường chủ yếu, tốt nhất để truyền thu kiến thức, giáo dục nhân
cách chính là nhà trường.
Một trong những tư tưởng của Mác Ăng ghen đã nêu trong tuyên ngôn của
Đảng cộng sản là phát triển con người toàn diện. Đồng thời còn nhấn mạnh làm sao
4

con người được phát triển tự do, mỗi cá nhân, người lao động có tính độc lập và cá
tính, làm cho mỗi người thành một đơn vị chủ thể của đội ngũ nhân lực, là nguồn
vốn tạo ra sản phẩm, chất lượng, hiệu quả, làm cho lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất đạt trình độ phát triển mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: ý thức là một phạm trù triết học, một hiện t-
ượng tâm lý phức tạp bao gồm tri thức, tình cảm, cảm giác, tri giác, nghị lực, lòng
tin... trong đó quan trọng nhất là trí thức, đó là toàn bộ hiểu biết của con người về
thế giới càng cao hơn, đầy đủ hơn. Nếu ý thức không dựa trên trí thức, tức là không
xây dựng trên cơ sở hiểu biết thì cái ý thức ấy chỉ là đồng nghĩa với lòng tin tôn
giáo mà thôi.
Theo Mác: "Con người là tổng hoá các mối quan hệ xã hội". Con người là
sản phẩm của tất cả các mối quan hệ xã hội nói chung trong đó có nhà trường là ph-
ương tiện, là môi trưường chủ yếu hình thành nhân cách và trang bị cho thế hệ trẻ
những tri thức, phát triển trí tuệ để con người thành năng lực của bản thân và có
năng lực phát triển sáng tạo ra những tri thức mới về tự nhiên - xã hội. giáo dục
với tư cách là một bộ phận của xã hội có nhiệm vụ đào tạo ra thế hệ tương lai.
Nhng làm sao để có tri thức? Lênin nói: "không có sách thì không có tri thức,
không có tri thức thì không có CNXH cà CNCS". Điều đó có nghĩa là: Muốn có tri
thức thì phải được học, được giáo dục, tri thức của nhân loại là vô hạn. Vì vậy,
Lênin đã dạy "Học, học nữa , học mãi".
Phê phán nền giáo dục của các chế độ xã hội từ phong kiến đến TBCN, nhận thức vị
trí vai trò quan trọng của giáo dục, các nhà kinh điển Mác xít đã chỉ ra phương hướng,
nhiệm vụ của nền giáo dục mới là phải đào tạo ra những con người mới phát triển toàn diện
có trí tuệ, hoàn thiện nhân cách phục vụ chế độ xã hội mới.
Quá trình hình thành nhân cách ở mỗi người là quá trình lâu dài; khi trẻ em
mới sinh ra chỉ là một cơ thể sinh học có hàng loạt các thuộc tính tiềm năng, quá
trình giáo dục sẽ phát triển các thuộc tính tiềm năng ấy, biến đứa trẻ thành người
với thức thể trí tuệ có khả năng sáng tạo. Nếu không được giáo dục (từ cha mẹ, gia
đình, xã hội) thì đứa trẻ không thể nào thích ứng được với cuộc sống hiện tại. Giáo
dục với t cách là quá trình văn hoá góp phần quan trọng hình thành nhân cách ở

mỗi con người nhằm thích ứng với cuộc sống lao động. Nghĩa là quá trình giáo dục
đó dạy cho họ cách ứng xử làm thế nào để đạt được mục đích chủ yếu, cơ bản của
cuộc sống, học để tồn tại và phát triển. Như vậy, sự hình thành nhân cách chỉ có thể
thông qua giáo dục.
2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh vị lãnh tụ thiên tài của nhân dân Việt Nam, Danh nhân văn hoá
thế giới trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, người đặc biệt coi
trọng vấn đề giáo dục - đào tạo. Ngay từ lúc Cách mạng Vịêt Nam còn trong thời
kỳ trứng nước, người đã tổ chức đưa con em nước ta ra nước ngoài để mở lớp đào
tạo, học tập lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin, bồi dưỡng về đường lối Cách mạng vô
sản. Người đã trực tiếp giảng dạy và huấn luyện lớp học đầu tiên tại, (Quảng Châu).
Sau khi lớp học kết thúc hầu hết các học viên đều đã trở thành chiến sĩ cách mạng.
Trong đó, nhiều người trở thành lãnh tụ cùng người lãnh đạo cách mạng nước ta
giành thắng lợi, khai sinh ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á vào năm
1945.Sau ngày nước nhà độc lập trong khi khó khăn chồng chất, người nhận định
rằng: nhân dân ta đang phải đối mặt với nhiều trở ngại lớn đó là; giặc đói, giặc dốt
5
và giặc ngoại xâm. Người viết: "Chúng ta đã giành được độc lập, một trong những
công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí, để mọi người
Việt Nam có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà". Người kêu gọi toàn
dân chung lòng góp sức tiêu diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Đông thời,
người xác định, "dốt nát chính là kẻ địch"và "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu".
Do đó, ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ, nhiệm vụ đặt ra là toàn dân học chữ quốc
ngữ, sau hơn một năm thực hiện chính sách diệt giặc dốt, nhân dân nước ta từ trên
90% dân số bị mù chữ đã biết đọc, biết viết. Đây là một kỳ tích mà nhân dân ta đã
đạt được trong cuộc cách mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Trong ngày khai trưường đầu tiên (3 / 9/ 1945) chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi
th cho các cháu học sinh cả nước. Trong th gửi các cháu học sinh, người bày tỏ tình
cảm và gửi gắm niềm tin vào thế hệ trẻ tương lai: "Non sông Việt nam có trở nên vẻ

vang hay không? Dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cưường quốc năm
châu hay không? Chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu? (Hồ Chí
Minh về Giáo Dục, Nhà Xuất Bản, Hà Nội 1962)".
Theo Hồ Chí Minh thì sự nghiệp trồng người là công việc lâu dài và khác
hẳn so với công việc khác. Nó đòi hỏi phải chuẩn bị chu đáo và tỉ mỉ, không được
nóng vội. Chính vì thế, người đa ra khẩu hiệu: Vì sự nghiệp mời năm trồng cây, vì
sự nghiệp trăm năm trồng người. Và để xây dựng xã hội chủ nghĩa người đã nói
rằng: "Muốn có chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa".
Người đặt ra động cơ và mục tiêu GD - ĐT là: "Học để làm việc, làm người,
làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, tổ quốc và nhân loại".
(HCM về GD, NXB GD, tái bản năm 1990) và theo người "Học là để sửa chữa t t-
ưởng". "Học để tu dỡng đạo đức cách mạng", "Học để tin tưởng" và "Học để hành".
(HCM toàn tập, T4, NXB sự thật, H - 1995).
Những quan điểm , tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục là di sản
quí báu đóng góp vào kho tàng lí luận quản lí, chỉ đạo công tác giáo dục ở nước ta.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, những giá trị lí luận, giá trị thực tiễn
của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã trở thành, định hướng giá trị cho mỗi con
người và cho cả dân tộc Việt Nam.
3. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam:
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta đã nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng của GD - ĐT trong sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, đặc biệt là thời kỳ CNH, HĐH.
Sáu mươi năm qua, dới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta, ngành giáo dục,
đào tạo cùng nhân dân cả nước vượt qua khó khăn thực hiện thắng lợi đường lối
giáo dục và đổi mới về giáo dục, đa sự nghiệp giáo dục và đào tạo tiến lên đạt
nhiều thành tựu mới, góp phần quan trọng trong việc đào tạo lớp lớp các thế hệ cán
bộ phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng Tổ quốc.
Trong văn kiện hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 2 khoá VIII đã
nêu rõ những quan điểm cơ bản của Đảng ta về giáo dục, đào tạo là giữ vững mục
tiêu định hướng XHCN: "Nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của giáo dụclà nhằm xây

dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lí tưởng độc lập dân tộc và
CNXH, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quố;
CNH, HĐH đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc và con người
6
Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri
thức khoa học và công nghệ hiện đại, có t duy sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi,
có tác phong công nghiệp, có tỉnh tổ chức và kỉ luật, có sức khoẻ, là những người
thừa kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "Hồng" vừa "Chuyên" như lời căn dặn
của Bác Hồ".(Văn kiện hội nghị BCH TW lần thứ 2 khoá 8 tr 28- 29).
Về mục tiêu đi lên CNXH Đảng ta khẳng định: "Giữ vững mục tiêu XHCN
trong nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạ, trong các chính sách nhất là chính
sách công bằng xã hội. Phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực
của cơ chế thị trưường đối với giáo dục, đào tạo. Chống khuynh hướng thương mại
hoá; đề phòng khuynh hớng phi chính trị hoá giáo dục, đào tạo không truyền bá tôn
giáo trong trưường học". (ĐCS VN , văn kiện HN TW2 khoá 8, NXB chính trị QG,
H - 1997, Tr 28, 29).
Đảng ta thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đây là chủ trương lớn đ-
ược Đảng ta xác định từ Đại hội toàn quốc lần thứ VII. Chủ trương này tiếp tục đ-
ược nhấn mạnh và cụ thể hoá trong văn kiện hội nghị Trung ương lần thứ 4 - khoá
VII, hội nghị Trương ương lầ thứ 2, khoá 8, hội nghị Trung ương lần thứ 6 khoá 9.
Đảng ta đã khẳng định 1 cách nhất quán là: "Giáo dục, đào tạo là nhân tố quyết định sự
phát triển của đất nước. Đầu tư cho giáo dụ, đào tạo là đầu tư cho sự phát triển thực hiện
các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với giáo dục, đào tạo, đặc biệt là chính sách đầu t và
chính sách tiền lương. Có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển GD". (Đảng cộng sản Việt
Nam NQ TW 6, khoá IX).
Đảng ta cũng xác định, giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của
Nhà nước và của toàn dân. Mọi người dân có quyền lợi và nghĩa vụ học tập. Mọi cơ
quan của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội đều có trách nhiệm chăm lo cho
sự nghiệp giáo dục. Các tổ chức kinh tế xã hội, các gia đình và cá nhân có trách
nhiệm tích cực tham gia các phong trào nhằm phát triển sự nghiệp GD - ĐT. phối

kết hợp một cách chặt chẽ và thống nhất về mục tiêu, nội dung GD giữa nhà tr-
ưường, gia đình và xã hội.
Phát triển giáo dục, đào tạo gắn liền với yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội ,
khoa học kỹ thuật, công nghệ và củng cố an ninh quốc phòng. Do đó, phát triển
giáo dục cần coi trọng cả 3 mặt: Mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng và phát huy
hiệu quả. Thực hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo dục với lao động sản xuất,
nghiên cứu khoa học, học đi đôi với hành, gia đình gắn liền với xã hội, lý luận gắn
liền với thực tiễn.
Đảng và Nhà nước ta tạo mọi điều kiện để thực hiện công bằng trong giáo
dục, để ai có nhu cầu được học tập cũng được đi học. Đối với người nghèo nhà n-
ước và cộng đồng giúp đỡ. Đối với những người học giỏi, các cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế tạo điều kiện để họ tiếp tục phát triển trở thành nhân tài của đất nước.
Để giữ vững định hướng XHCN thì các trưường công lập phải giữ vai trò
nòng cốt trong sự nghiệp giáo dục. Nhà nước thống nhất quản lí về nội dung, ch-
ương trình, qui chế học tập, thi cử, văn bằng, tiêu chuẩn giáo viên, tạo điều kiện
cho mọi người có cơ hội lựa chọn hình thức học tập phù hợp với hoàn cảnh của
mình. Phát triển các trưường bán công, dân lập ở những nơi có điều kiện, từng b-
ước mở các trường tư thục Mầm non, THPT, TH chuyên nghiệp, dạy nghề và đại
học. Mở thêm các loại hình đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa...
7
Trong văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX một lần nữa khẳng định: "phát
triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững". (Văn kiện ĐH IX, H -
2001- Tr 108 - 109).
Trên đây là những quan điểm cơ bản của Đảng ta về GD - ĐT nói chung và
sự nghiệp GD - ĐT trong quá trình đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Những quan
điểm đó là biểu hiện tập trung của việc nghiên cứu và vận dụng sáng tạo lý luận
Mác - Lênin, t tưởng HCM vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Những quan
điểm nêu trên sẽ là cơ sở cho việc nhận thức hoạt động giáo dục ở từng địa phương,

phân tích mặt mạnh, mặt yếu và tồn tại. từ đó tìm ra giải pháp đúng đắn nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục ở các địa phương nói riêng và phát triển sự nghiệp GD -
ĐT của nước ta nói chung.
II. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA GD THCS TRONG THỜI KỲ CNH, HĐH.
Trong hệ thống giáo dục - ĐT , GD phổ thông đóng vai trò đặc biệt quan
trọng, nó đặt nền móng cho việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, đào tạo ra những con người có kiến thức, văn hoá lao động tự chủ, sáng tạo có
kĩ thuật, giàu lòng nhân ái, yêu CNXH, sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển
đất nước. Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hoá của một đất nước, là sức mạnh t-
ương lai của dân tộc.
Trong hệ thống Giáo dục phổ thông, THCS là một điểm chiến lược phát triển
giáo dục, đào tạo. Đại hội IX của Đảng đề ra đường lối phát triển của giáo dục, đào
tạo: "phát triển giáo dục Mầm non, củng cố vững chắc kết qủa xóa mù chữ và phổ
cập Trung học cơ sở trong cả nước..." (ĐCS VN - VKĐHTQ lần T9 - NXB CTQG
2001 - Tr2002). THCS là mắt xích quan trọng trong hệ thống giáo dục phổ thông
hoản chỉnh (Vừa tiếp nối vừa chuyển tiếp). Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp
cho học sinh củng cố và phát triển những kết quả của phổ cập giáo dục tiểu học và
phổ cấp giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa,
giúp học sinh củng cố vững chắc, phát triển những kiến thức mà học sinh đã được
học ở Tiểu học, đồng thời có học vấn đêtrung học cơ sở, có những hiểu biết thông
thường về kĩ thuật dạy nghề phổ thông, trung học chuyên nghiệp, để vào cuộc sống.
Ở lứa tuổi học tập này, qua môi trường giáo dục, học sinh bộc lộ rõ tài năng và hình
thành hướng đi sau này cho bản thân. Vì vậy, đầu t và nâng cao chất lượng giáo dục
trung học cơ sở là vô cùng quan trọng, cần thiết là phổ cập trung học cơ sở vào năm
2010 trên phạm vi cả nước; góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho CNH, HĐH đất
nước như kế hoạch đã đề ra.
Giáo dục phổ thông là nền tảng của sự hình thành nhân cách, trong đó giáo
dục trung học cơ sở có ý nghĩa quyết định đến việc hình thành nhân cách học sinh.
Mặc dù đây chưa phải là bậc cuối cùng, song nó cũng có vai trò quyết định đến
việc hình thành nhân cách cho học sinh. Đây là một cấp học tiếp tục góp phần phát

triển nhân cách cho học sinh giúp cho các em có chí hướng phấn đấu học lên bậc
trung học phổ thông để tạo nguồn, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước: "Giáo dục nhằm mục tiêu phát triển toàn diện nhân
cách XHCN của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kĩ thuật đồng bộ về ngành
nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động xã hội " (Văn kiện ĐH 8 - NXB CTQG -
1996 - Tr 81).
8
Chất lượng con người phải đi từ nền tảng ban đầu ở các cấp học nhất là trung học
cơ sở. Nếu không có các giải pháp để phát triển giáo dục trung học cơ sở tạo nền
móng vững chắc thì không thể nói đến tương lai của lớp người xây dựng và bảo vệ
tổ quốc kế tiếp của lịch sử dân tộc.
9
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN
YÊN HƯNG - TỈNH QUẢNG NINH TỪ NĂM 2000-2005.
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN YÊN HƯNG
1. Đặc điểm tự nhiên.
2. Tình hình kinh tế - xã hội
II. THỰC TRẠNG GD THCS Ở HUYỆN YÊN HƯNG - TỈNH QUẢNG NINH
1. Nhận thức và quan điểm của Đảng và chính quyền địa phương về
công tác GD - ĐT.
Trong những năm qua, ngành GD - ĐT của tỉnh Quảng Ninh nói chung và
huyện Yên Hưng nói riêng đã có những thành tựu đáng khích lệ kết quả đó là do có
sự lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh mà trực tiếp là sự chỉ đạo của
Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện Yên Hưng. Đó chính là sự vận dụng đưường lối
chính sách GD - ĐT của Đảng, Nhà nước vào thực tế ở địa phương một cách đúng
đắn, sáng tạo và kịp thời. Nhất là Nghị quyết của Đảng được thể chế thành nhiệm
vụ, chương trình mục tiêu và biện pháp tổ chức, triển khai, hớng dẫn cụ thể cho
từng năm học.
Trong báo cáo chính trị của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh tại Đại hội lần thứ XV

đã tổng kết đánh giá cao về công tác phát triển Giáo dục của tỉnh; từng bước tiến
hành xã hội hoá giáo dục, huy động được đầu t của nhiều nguồn lực trong xã hội.
Các loại hình tưường, lớp, dạy học ngày càng phong phú, đa dạng. Chất lượng giáo
dục đã có bước phát triển: Hoàn thành PCGD tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập
THCS năm 2003, xây dựng trưường chuẩn quốc gia ở tất cả các ngành học, bậc
học, phấn đầu đến năm 2010 có nhiều trưường PTTH đạt chuẩn quốc gia và có
60% số xã, phưường, thị trấn đạt PCGD bậc THPT.
Trong báo cáo của Ban chấp hành tại đại hội Đảng bộ huyện Yên Hưng lần
thứ 23 (tháng 10/2005) công tác GD - ĐT, đã đạt được những kết quả rất quan
trọng, về đổi mới chương trình GDPT, PCGDTH đúng độ tuổi, PCGD THCS, củng
cố và phát triển các ngành học. Tiếp tục phát triển qui mô, mạng lới trưường lớp,
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chất lượng mũi nhọn, đáp ứng yêu cầu
nâng cao … đào tạo nhân lực, bồi dỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự
nghiệp giáo dục huyện nhà. Cơ sở vật chất trưường học được quan tâm đầu tư,
chấm dứt tình trạng học 3 ca, từng bước kiên cố hoá trường lớp, xoá bỏ lớp học
tranh, tre, nứa lá. Toàn huyện đã hoàn thành PC THCS năm 2003. Đã xây dựng đ-
ược 14 trưường đạt chuẩn giáo dục (01 trưường mầm non, 12 trường tiểu học, 01
trưường THCS).
Mặc dù còn phải khắc phục rất nhiều khó khăn về đời sống kinh tế - xã hội,
nhưng các cấp uỷ Đảng và chính quyền huyện Yên Hưng đã có những định hướng
hết sức cụ thể, sát sau đối với phát triển GD - ĐT ở địa phương. Ngay từ khi có
Nghị quyết trung ương 2 (khóa VIII) tỉnh và huyện đã có ngay một chương trình
hành động nhằm thực hiện thắng lợi ….. Ngành GD - ĐT huyện làm tốt công tác
tham mưu để các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể phát huy vai trò trách nhiệm
với công tác GD - ĐT và đặt công tác GD - ĐT vào vị trí quan trọng để tập trung
chỉ đạo thường xuyên và đạt hiệu quả cao. Thông qua quán triệt Nghị quyết hội
nghị lần thứ 6 khoá IX về đổi mới sự nghiệp GD - ĐT, các cấp uỷ Đảng, chính
10
quyền, các tổ chức xã hội đã có những thay đổi về nhận thức công tác GD - ĐT,
thực sự coi GD - ĐT là quốc sách hàng đầu.

Sự lành, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương sẽ là điều kiện
thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng GD - ĐT nói chung, giáo dục bậc THCS nói
riêng của huyện Yên Hưng - Tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn hiện nay.
2. Phát triển về số lượng qui mô trưường lớp, học sinh.
Cùng với những chuyển biến về kinh tế - xã hội và thực tiễn các chủ trương
đổi mới về GD - ĐT, số lượng học sinh ở các cấp học, bậc học từng bước ổn định
và tăng lên nhanh chóng. Mạng lới trưường lớp được bố trí hợp lý và phát triển đa
dạng. Nhất là từ khi có Nghị quyết TW2 (khoá VIII), qui mô GD - ĐT nói chung và
THCS nói riêng tiếp tục được mở rộng và phát triển một cách đa dạng, phong phú,
số lượng học sinh ra lớp đều tăng theo hàng năm, chất lượng giáo dục dần được
nâng lên.
Từ năm học 2000 - 2001 đến nay giáo dục Huyện Yên Hưng tiếp tục phát
triển và mở rộng về qui mô, cơ cấu các bậc học, ngành học hợp lí, phù hợp với từng
vùng miền trong huyện. Quan tâm đầu t củng cố, phát triển loại hình trưường công
lập ở vùng đặc biệt khó khăn và an toàn khu, chú ý đầu t trưường trọng điểm tr-
ưường chuẩn quốc gia. Ở tất cả các xã đều có trưường Mầm non, tiểu học, trung
học cơ sở, huyện có 6 trưường THPT. Năm học 2004 - 2005 toàn huyện có: 41 tr-
ưường Mầm non (1 trưường mầm non công lập - 40 trưường mầm non bán công);
với 281 nhóm trẻ = 1519 trẻ, 400 lớp mẫu giáo = 6928 học sinh, riêng 5 tuổi ra lớp
2502 = 99%, có 43 trưường tiểu học, 2 trưường PTCS với tổng số lớp: 928 =
17.407 học sinh; có 38 trưường THCS với tổng số lớp là 555 = 18.624 học sinh đạt
96,2%, 1 trưường DTNT với 9 lớp = 254 học sinh; 6 trưường THPT với 112 lớp =
4500 học sinh, 1 trung tâm giáo dục thưường xuyên có 9 lớp = 512 học sinh; có 1
TTKTTH - HNDN dạy nghề cho 120 lớp, 41.000 học sinh, dạy hớng nghiệp cho
115 lớp = 6.190 học sinh.
3. Cơ sở vật chất trưường học:
Mặc dù là một huyện miền núi nghèo còn nhiều khó khăn, thu không đủ chi,
song Đảng bộ và chính quyền nhân dân các dân tộc huyện Yên Hưng đã có nhiều
cố gắng giành cho ngành GD - ĐT sự quan tâm có hiệu quả. Vì cơ sở vật chất trong
trường là một trong 3 yếu tố cơ bản trong nhà trường (trưường lớp - thầy - trò). Với

quan niệm nh vậy, trong những năm qua việc đầu tư, sử dụng ngân sách, xây dựng
cơ sở vật chất trong nhà trường có nhiều tiến bộ. Công tác xây dựng cơ sở vật chất,
khuôn viên trưường học, tăng cường mua sắm trang thiết bị dạy học được quan
tâm. Bằng nhiều biện pháp tích cực của các địa phương trong huyện, các nguồn lực
tập trung được huy động từ đóng góp của nhân dân, kinh phí chương trình mục
tiêu, chương trình kiên cố hoá trường học, đặc biệt từ năm 2000 đến nay với ch-
ương trình 135 do nhà nước cấp đã xây dựng nhiều trường lớp học, đã cơ bản kiên
cố hoá được tất cả các xã trong huyện không có trường nào trong huyện phải học 3
ca.
Và chương trình tăng cường cơ sở vật chất trường học được xây dựng thành
đề án "tổng thể kiên cố hoá trưường học đến năm 2005 và 2010". Từ năm học 2001
- 2002 trở lại đây huyện đã tập trung xây dựng đồng loạt nhà kiên cố và nhà xây
cấp 4 cho các đơn vị trường học theo chương trình chậm hè, chương trình kiên cố
hoá trường học. Đến nay đã gần xoá xong nhà học tạm tranh tre nứa lá. Riêng trong
11
năm 2005 huyện đã giao danh mục cho 20 công trình (Mầm non 11, tiểu học 6,
THCS 3) thuộc chương trình kiên cố hoá trưường học giai đoạn 3 với 116 phòng
học, số vốn cho các công trình này là 5,8 tỉ đồng. Ngoài những chương trình mục
tiêu và ngân sách của tỉnh cấp, huyện dành từ 12% đến 15% ngân sách của huyện
(tổng chi cho ngân sách GD - ĐT dao động từ 29,4 tỉ đến 35 tỉ đồng / năm), cùng
với sự đóng góp ủng hộ xây dựng trường học của nhân dân trong huyện đầu tư cho
xây dựng cơ sở vật chất đến nay bộ mặt của các cơ sở giáo dục đã có những khởi
sắc và bước đầu có chất lượng giáo dục ổn định.
Ngoài phòng học, nhà ở, nhà điều hành, các phòng chức năng còn mua sắm
hơn 1000 giường nằm, bàn ghế làm việc cho giáo viên, hầu hết các trường THCS
đã có điện thoại…
+ Từ năm 2002 phong trào xây dựng nhà công vụ do công đoàn ngành giáo
dục đã xây dựng 590m
2
nhà và trang thiết bị giá hàng trăm triệu đồng phục vụ đời

sống và công tác của các nhà trường - đặc biệt u tiên cho các trưường ở vùng
ĐBKK và ATK.
Trang thiết bị dạy học và th viện trưường học được quan tâm đầu t khác với
hàng tỉ đồng nên từ chỗ chỉ có một vài thư viện đạt chuẩn 659 (cũ) thì đến nay đã
cơ 100% trưường đạt th viện chuẩn 659. Và có 50% số trưường đạt th viện chuẩn
01 (mới). Toàn huyện có 18 trưường xây dựng th viện, TBDH riêng; 80% số tr-
ường có phòng thư viện riêng, 20% chung cùng văn phòng Hội đồng nhà trưường,
100% số trưường có phòng TBDH riêng. Nhìn chung các trường đều có đủ sách
giáo viên, sách tham khảo và sách nghiệp vụ. Thiết bị dạy học đồng bộ ở trường
học 123 bộ, THCS có 43 bộ vật lý, 37 bộ hoá học, 15 bộ sinh học…. Giáo viên
làm thêm hàng nghìn đồ dùng giảng dạy, các thiết bị này được nhà trường sử dụng
có hiệu quả.
Mặc dù được sự quan tâm và đầu tư thích đáng của Đảng và Nhà nước song
hiện nay cơ sở vật chất trường học của một số đơn vị còn gặp khó khăn, vẫn còn
nhà tranh, tre, nứa, lá. Nhà chủ yếu là ở bậc học mầm non. Thiết bị đồ dùng dạy
học, đồ dùng thí nghiệm, sách tham khảo, sách nghiệp vụ cho giáo viên còn thiếu
và sách giáo khoa cho các em nghèo, vùng sâu vùng xa cũng còn thiếu nhiều.
Trong thời gian tới cần phải tiếp tục đầu t nhiều hơn nữa về cơ sở vật chất, trang
thiết bị dạy và học, có như vậy mới nâng cao được chất lượng giáo dục.
4. Tình hình đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý.
Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên có vai trò hết sức quan trọng quyết định
tới chất lượng của giáo dục. Đội ngũ quản lý và giáo viên nhìn chung đều đảm bảo
và tất cả đều được trưởng thành từ giáo viên, đều là những người có chuyên môn
giỏi, có kinh nghiệm trong cuộc sống và đã được bồi dưỡng qua trường lớp quản lý.
Đó là một thuận lợi lớn giúp các nhà quản lý của giáo dục có khả năng điều hành
tốt công tác chuyên môn và tập hợp qui tụ đối tượng quản lý vào thực hiện nhiệm
vụ chuyên môn. Hàng năm phòng giáo dục và UBND huyện đều có kế hoạch bồi d-
ỡng các bộ quản lý và lực lượng kế cận, chọn những giáo viên có tay nghề cao,
trình độ chuyên môn tốt, có ý thức phấn đấu vươn lên để cử đi học các lớp bồi d-
ưỡng của tỉnh và trung ương, PGD còn liên kết đào tạo với các trường đại học mở

các lớp ĐH Quản lý cho CB Quản lý và giáo viên.
Hiện nay tổng biên chế CBGV của huyện là 2324 người trong đó giáo viên là
959 người giáo viên coa trình độ chuẩn là 95,2% tiêu chuẩn là 32,0%.
12
Nh NQTW2 (khoá VIII) đã chỉ rõ: GV là nhân tố quyết định của GD. Muốn
nâng cao chất lưượng giáo dục phải nhiêu yếu tố, trong đó nhân tố "thầy" giữ vai
trò quyết định. Vì vậy đội ngũ giáo viên phải đủ về số lưượng, can đố giẫ sác môn
đào tạo và phải được đầo tạo đạt chuẩn.
Đội ngũ giáo viên hiện nay của bậc THCS ở huyện Yên Hưng đưược nhìn
nhận đánh giá như sau:
* Mặt thuận lợi:
1- Vềphẩm chất tư tưởng chính trị: ĐNCBGV đều có lập trưưường tư tư-
ưởng vững vàng, tin tưưởng vào sự lãnh đạo và đưưường lối đổi mới của Đảng,
kiên trì thực hiện các quan điểm, phưương châm giáo dục của Đảng. Trong những
năm qua các cấp đảng uỷ đã đôỉ mới trong việc nhìn nhận đánh giá đội ngũ CBGV
ngành giáo dục, thấy rõ đưược vai tà, vị trí người của thầy trưước sự đổi mới về
giáo dục hiện nay. Huyện uỷ đã quan tâm đúng mức đến việc giáo dục, nâng cao
chất lưượng, r tưưởng đội ngũ giáo viên thông qua các văn bản, chỉ thị, nghị quyết
của Đảng bộ huyện. Việc giáo dục chính trị tư tưưởng cho cán bộ giáo viên đã trở
thành nề nếp sinh hoạt ở các trưường. Công tác tư tưưởng đã bám sát chủ trưương
đưưường lối mới của Đảng, triển khai một cách sâu rộng NQTW2 (khoá VIII) về
nhiệm vụ phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đề án 01 của Ban thưưường vụ
Huyện uỷ Yên Hưng về nhiệm vụ phát triển GD-ĐT giai đoạn 2001-2005.
Phong táo thi đua " Hai tốt" đưược chú ý đặc biệt. Qua kiểm tra thanh tra
chuyên môn hàng năm 100% giáo viên thực hiện tốt quy chế chuyên môn có đủ hồ
sơ giảng dạy theo đúng quy định của bộ. Các trưưường đều duy trì tốt các hoạt
động chuyên môn như: Sinh hoạt tổ, thăm lớp dự giờ giúp kinh nghiệm cho môn
học theo phưương pháp đổi mới... qua đó nâng cao đưược chất lưượng giảng dạy
của giáo viên.
Các trường đều thực hiện dạy đủ các môn học theo chương trình quy định

của Bộ GD-ĐT. Phưương pháp giảng dạy được chú ý đổi mới theo hương tích cực
hoá họat động học tập phát huy tính chủ động sáng tạo và năng lực tự học của hoạt
sinh có hiệu quả. Phong trào làm đồ dùng học tập xây dựng kế hoạch sử dụng thiết
bị, thí nghiệm đối mới các bộ môn thiết thực cụ thể. Phòng giáo dục huyện thường
xuyên tổ chức hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học theo từng chuyên đề đối
với từng bộ môn. Các cụm trường cũng thường xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên
môn liên trường đối với nhiều hình thức phong phú, đa dạng nhằm nâng cao chất l-
ượng dạy và học. Phong trào hội giảng diễn ra liên tục ở các cơ sở trường học. Các
cuộc thi CB quản lý giỏi, giáo viên giỏi, học sinh giỏi hàng năm được tổ chức cói
quy mô, chất lượng và hiệu quả. Công tác bồi dưỡng thay sách hè trong những năm
qua được quan tâm và chú ý đặc biệt bồi dưỡng 100%cho giáo viên, hoạt động
nghiên cứu khoa học và tổng kết sáng kiến kinh nghiệm được duy trì, góp phần
nâng cao chất lượng đội ngũ, chất lượng giảng dạy.
Sở dĩ có được những mặt tốt, thuật lợi trên là do đội ngũ giáo viên ở THCS ở
huyệnYên Hưng luôn tin tưởng vào đưường lối chính sách của Đảng pháp luật của
Nhà nước, yêu nghề nếm trẻ, với lương tâm coi dạy học là nghề nghiệp gắn bó với
cuộc đời mình, gắn bó với trường, lớp, học sinh. Trước những biến động phức tạp
của cơ chế thị trường, các thầy giáo, cơ giáo vẫn một lòng một dạ tận tâm với nghề
"Trồng người" mà mình đã lựa chọn. Mặt khác, có hơn 70% số giáo viên là người
13

×