Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

TỘI HỦY HOẠI RỪNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.29 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ NGỌC ĐÔ

TỘI HỦY HOẠI RỪNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ NGỌC ĐÔ

TỘI HỦY HOẠI RỪNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAMTỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN HIỂN

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là Luận văn do tôi tự nghiên cứu. Những số liệu thống
kê và trích dẫn trong luận văn là trung thực đảm bảo tính khách quan và phù hợp
với tình hình thực tiễn. Những kết luận khoa học của luận văn là do tôi tự nghiên
cứu rút ra và kế thừa những công trình nghiên cứu trước đó. Tôi đã hoàn thành
chương trình các môn học và các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện
khoa học xã hội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị khoa Luật Học viện khoa học xã hội
xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn “Tội hủy hoại rừng theo quy định pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk”.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

HỒ NGỌC ĐÔ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI HỦY
HOẠI RỪNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................. 8
1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng và ý nghĩa quy định tội hủy hoại
rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam ...................................................................8
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của quy phạm pháp luật về tội hủy hoại
rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ........................................24
1.3. Phân

biệt

tội


hủy

hoại

rừng

với

một

số

tội

phạm

khác

...............................................................................................................................27
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HỦY
HOẠI RỪNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK .............................................. 33
2.1. Khái quát chung về tình hình tội phạm hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk .........................................................................................................................33
2.2. Thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về tội hủy hoại
rừng ........................................................................................................................39
2.3. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn chế, bất cập trong thực tiễn
xét xử tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh..............................................................51
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI HỦY
HOẠI RỪNG ........................................................................................................... 57

3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về tội hủy hoại rừng trong Bộ luật hình sự
và các văn bản pháp luật khác có liên quan ...........................................................57
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội hủy hoại rừng ......65
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

- BCA

: Bộ Công An

- BLHS 2015

: Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

- BLTTHS

: Bộ luật tố tụng Hình sự

- BTP

: Bộ Tư pháp

- CA

: Công An

- CAND


: Công an nhân dân

- CCKL

: Chi cục Kiểm lâm

- HKL

: Hạt Kiểm lâm

- KL

: Kiểm lâm

- Luật BVMT 2014

: Luật bảo vệ môi trường năm 2014

- Luật BV&PTR năm 2004

: Luật bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004

- PNTM

: Pháp nhân thương mại

- QPPLHS

: Quy phạm pháp luật Hình sự


- TAND

: Tòa án nhân dân

- TNHS

: Trách nhiệm Hình sự

- TTLT

: Thông tư liên tịch

- UBND

: Ủy ban nhân dân

- VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

- VBQPPL

: Văn bản quy phạm pháp luật


DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ, BIỂU ĐỒ
Bảng 1. Diện tích rừng của tỉnh Đắk Lắk từ năm 2014 đến năm 2018 .................... 34
Bảng 2. Số vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng từ năm 2014 đến 2018 của tỉnh
Đắk Lắk ..................................................................................................................... 35

Bảng 3. Số vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng bị xử phạt hành chính, xử lý hình
sự từ năm 2014 đến năm 2018 của tỉnh Đắk Lắk. .................................................... 35
Bảng 4. Tình hình điều tra, truy tố, xét xử tội hủy hoại rừng từ năm 2014 đến năm
2018 của tỉnh Đắk Lắk .............................................................................................. 36
Bảng 5. Số liệu thống kê về tình hình người đồng bào dân tộc thiểu số phạm tội hủy
hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2014 đến 2018. ................................... 37
Bảng 6. Số vụ án hủy hoại rừng có kháng cáo, kháng nghị từ năm 2014 đến 2018
của tỉnh Đắk Lắk ....................................................................................................... 47
Bảng 7. Đề nghị mức định lượng mới của rừng phòng hộ và rừng đặc dụng .......... 60
Bảng 8. Đề xuất mức phạt tiền mới đối với pháp nhân thương mại phạm tội. ........ 64


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau chiến tranh,Việt Nam từ một nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề về môi
trường, kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, Đất Nước gặp muôn vàn khó khăn. Tuy
nhiên, với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự đoàn kết của toàn dân, Đất Nước
đã vùng lên và đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, văn
hóa, xã hội, pháp luật, ngoại giao,... Cùng với những thành tựu to lớn đó là một nền
Tư pháp tiến bộ, kế thừa những thành tựu của thế giới. Nổi bật trong đó là sự phát
triển của hệ thống pháp luật Hình sự Việt Nam mà cụ thể là BLHS 2015 đã và đang
đáp ứng nhu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế và hội nhập với thế giới. Trong đó, có các quy định tội phạm môi trường nói
chung và tội hủy hoại rừng nói riêng được sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình
thực tiễn và nhu cầu của Đất Nước. Qua quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước,
rừng được xem là tài nguyên quý giá, được ví von là“ Rừng vàng, Biển bạc”. Rừng
được xem là lá phổi của thế giới, có vai trò vô cùng quan trọng trong hạn chế thiên
tai, điều hòa khí hậu, giữ cân bằng sinh thái, ổn định môi trường, ổn định khí hậu,
góp phần bảo vệ an ninh quốc phòng, là nơi sinh sống của rất nhiều loài động, thực
vật. Mặc dù rừng đóng vai trò quan trọng và có nhiều giá trị như vậy nhưng hiện

nay tình trạng hủy hoại rừng diễn ra ngày càng thường xuyên, diễn biến càng phức
tạp về cách thức, phương thức, mức độ, hậu quả. Vì vậy, tội hủy rừng cần phải được
nghiên cứu và làm rõ.
Đắk Lắk là tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên có diện tích rừng lớn nhất cả
nước, tài nguyên rừng đa dạng và phong phú, nhiều thành phần dân tộc sinh sống
như: Kinh, Ê-Đê, M’nông, Bana, Thái, Tày, Nùng, Vân kiều,… Hiện nay trên địa
bàn tỉnh tình trạng hủy hoại rừng vẫn thường xuyên diễn ra và diễn biến phức tạp.
Hành vi hủy hoại rừng vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là một số điểm nóng về hủy
hoại rừng như: Vùng biên giới, vùng xa xôi hẻo lánh, vùng kinh tế khó khăn, vùng
dân tộc thiểu số sinh sống, vùng có diện tích rừng lớn như: Ea Súp, Ea H’Leo,
Krông Bông, M’Đrắk, Buôn Đôn. Công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
1


hành án đối tượng hủy hoại rừng đã được cơ quan chức năng quan tâm thực hiện,
kiểm tra, giám sát, xử phạt hành chính, xử lý hình sựvà đã gặt hái được nhiều thành
tựu nhất định. Từ những cố gắng trên, tỉnh Đắk Lắk đã thu được nhiều kết quả tích
cực giúp bảo vệ diện tích rừng trên địa bàn tỉnh, song vẫn còn tồn tại không ít khó
khăn, vướng mắc cần giải quyết trong áp dụng BLHS cũng như các quy định của
pháp luật liên quan trong công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án tội
phạm hủy hoại rừng. Trước những khó khăn vướng mắc và tình trạng diễn biến
phức tạp của tội phạm hủy hoại rừng trong khi quy định pháp luật còn hạn chế và
thiếu sót. Vì vậy, cần phải nghiên cứu tội hủy hoại rừng dưới nhiều góc độ khoa
học, nghiên cứu lập pháp, hành pháp và tư pháp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật, nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật và đấu tranh phòng ngừa, xử lý
tội phạm hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Từ những lý do trên, tác giả đã
lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tội hủy hoại rừng theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học ngành
luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu

Trước khi tác giả nghiên cứu luận văn “Tội hủy hoại rừng theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.” Tác giả đã về địa phương để khảo
sát tình hình thực tiễn và xin số liệu, tham khảo các công trình nghiên cứu trước đó
về tội hủy hoại rừng như:
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam”
của tác giả Lê Thị Phương Minh, trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, năm 2013;
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Bảo vệ tài nguyên rừng bằng pháp luật Hình sự
Việt Nam” của tác giả Bạch Xuân Hòa, trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, năm
2014;
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam
trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk” của tác giả Hoàng Văn Vân,
trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, năm 2015;

2


- Luận văn Thạc sĩ luật học “Tội hủy hoại rừng trong luật Hình sự Việt Nam”
của tác giả Bùi Thế Phương, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2015;
- Luận văn thạc sĩ luật học “ Đấu tranh phòng, chống tội hủy hoại rừng trên
địa bàn Tây Nguyên” của tác giả Nguyễn Văn Nghiệp, Học viện Khoa học xã hội,
năm 2016;
- Luận văn Thạc sĩ luật học “Tội hủy hoại rừng theo pháp luật Hình sự Việt
Nam từ thực tiễn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam” của tác giả Đào Bội Nhân,
Học viện Khoa học xã hội, năm 2015;
- Luận văn thạc sĩ luật học “Tội hủy hoại rừng theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” của tác giả Trần Quốc Việt, Học viện Khoa học
xã hội, năm 2018. Và một số công trình nghiên cứu khác liên quan đến tội hủy hoại
rừng. Từ các công trình nghiên cứu đã khái quát các vấn đề lý luận và thực tiễn về
tội hủy hoại rừng, những nghiên cứu trước đây chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ
phòng ngừa tội phạm, tội phạm học, nghiên cứu tội hủy hoại hoại rừng trên quy mô

vùng mang tính chất chung, trên quy định của BLHS cũ và chỉ có một tác giả là
Hoàng Văn Vân nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Do vậy, vì là tỉnh đặc thù có
diện tích rừng lớn, dân cư đa dạng nhiều thành phần dân tộc sinh sống, tình hình tội
phạm hủy hoại rừng thường xuyên diễn ra đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cụ thể, đầy
đủ, rõ ràng không chỉ dưới góc độ khoa học pháp lý mà mở rộng nghiên cứu dưới
góc độ xã hội học để làm rõ vấn đề, làm rõ các luận cứ khoa học, làm cơ sở cho
những kiến nghị giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật.
Tình hình nghiên cứu luận văn trong thời điểm này là rất quan trọng. Bởi vì,
đây là thời điểm BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 mới có hiệu lực thi
hành hơn một năm. Việc nghiên cứu sẽ đánh giá được hiệu quả và những hạn chế
của quy định pháp luật về tội hủy hoại rừng trong BLHS 1999 và BLHS 2015, làm
cơ sở để kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật và các văn bản hướng dẫn
thi hành và nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật đối với tội hủy hoại rừng
nói riêng và các tội phạm về môi trường nói chung.
3


3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn quy định pháp luật
về tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Nghiên cứu khái niệm, định nghĩa, đặc điểm và nội dung các quy định pháp
luật trong BLHS, BLTTHS, Các VBQPPL có liên quan đến tội hủy hoại rừng và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Nghiên cứu tình hình thực tiễn tội hủy hoại rừng
hiện nay, từ đó chỉ ra thực trạng, nguyên nhân và kiến nghị giải pháp.
b. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu quy định của BLHS và thực tiễn áp dụng pháp luật về tội hủy
hoại rừng trên cơ sở số liệu thu thập tại tỉnh Đắk Lắk giai đoạn từ năm 2014 đến
nay.

Về không gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tội hủy hoại rừng trên phạm
vi địa giới hành chính tỉnh Đắk Lắk. Đặc biệt là các huyện có diện tích rừng lớn,
dân cư đa dang và tội hủy hoại rừng thường xuyên diễn ra như: Buôn Đôn, Ea Súp,
Ea H'leo, Krông Bông, Lắk, M'Đrắk.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn của tội hủy hoại rừng, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về khái niệm, đặc trưng cơ
bản, ý nghĩa của quy định tội hủy hoại rừng,làm rõ các vấn đề về định tội danh,
quyết định hình phạt trong công tác xét xử tội hủy hoại rừng tại Tòa án. Từ đó chỉ ra
thực trạng, nguyên nhân và kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
BLHS đối với tội hủy hoại rừng, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao
hiệu quả công tác áp dụng pháp luật, đặc biệt là công tác xét xử của Tòa án trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn tội hủy hoại rừng cần được nghiên cứu và
làm rõ dưới nhiều góc độ khoa học. Phải tìm hiểu về lịch sử hình thành, phát triển
4


của các quy phạm pháp luật về tội hủy hoại rừng qua từng thời kỳ lịch sử, qua từng
BLHS. So sánh tội phạm hủy hoại rừng với các tội phạm khác có liên quan trong
BLHS. Từ đó, phân tích làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm, đặc điểm riêng của
tội hủy hoại rừng để xác định đúng tội danh và khung hình phạt, tránh oan sai và bỏ
lọt tội phạm.
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự và pháp
luật có liên quan đối với hành vi hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, giúp tỉnh
biết được thực trạng, nguyên nhân và tìm ra giải pháp hoàn thiện quy định pháp
luật, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về tội hủy hoại rừng.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu luận văn

Việc nghiên cứu luận văn có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với lý luận khoa học
và thực tiễn nghiên cứu tội hủy hoại rừng, ý nghĩa quan trọng trong công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm hủy hoại rừng, góp phần vào mục tiêu phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội của đất nước, hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật.
Về mặt lý luận: Nghiên cứu luận văn làm cơ sở lý luận khoa học, làm rõ
nhiều vấn đề tồn tại hiện nay về tội hủy hoại rừng. Chỉ ra những khái niệm cơ bản,
các nội dung và chi tiết các nội dung của tội hủy hoại rừng. Đồng thời luận văn có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu về sau, công tác giáo
dục – đào tạo, nghiên cứu chuyên sâu về khoa học pháp lý hình sự, công tác định
hướng chính sách pháp luật, chính sách tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. Ngoài ra
luận văn còn có ý nghĩa làm cơ sở lý luận khoa học cho công tác nghiên cứu về tội
hủy hoại rừng trên nhiều lĩnh vực nghiên cứu như: Xã hội học, kinh tế học, môi
trường học, sinh vật học, chính sách học, luật học,…
Về mặt thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa lớn trong thực tiễn đời sống xã hội và
trong thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự về tội hủy hoại rừng, phân tích
và làm rõ những vấn đề tồn tại trong thực tiễn. Từ đó chỉ ra thực trạng, nguyên nhân
và kiến nghị giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp. Đề tài có
thể dùng làm tài liệu tham khảo để có những thay đổi, bổ sung phù hợp giữa quy
định pháp luật và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật. Dùng làm tài liệu tham khảo
5


cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền vận dụng trong quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án tội hủy hoại rừng đem lại hiệu quả. Góp phần
vào công tác bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội,
dân cư của tỉnh Đắk Lắk nói riêng và cả nước nói chung.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu tội hủy hoại rừng trên cơ sở nền
tảng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, những đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội và
pháp luật của Đảng và Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
hủy hoại rừng. Sử dụng phương pháp luận về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
phạm tội và hình phạt. Sử dụng phương pháp luận từ lý luận đến thực tiễn và tính
độc lập tương đối tác động ngược trở lại thực tiễn, từ những quy định pháp luật tác
động đến quan hệ xã hội và tính độc lập tương đối của thực tiễn xã hội tác động
ngược trở lại làm thay đổi quy định pháp luật. Phương pháp luận của quy luật phát
triển, của nhu cầu con người, nhu cầu của xã hội, mối quan hệ giữa con người và
thế giới quan sung quanh con người.
Phương pháp nghiên cứu: Việc nghiên cứu luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học Luật hình sự, khoa học Luật tố tụng hình sự, khoa học tội
phạm học, khoa học môi trường, khoa học xã hội học, lý luận triết học. Sử dụng các
phương pháp cụ thể như: Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp từ các số liệu
thực tế công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án tội hủy hoại rừng
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Phương pháp phân tích so sánh những số liệu thu thập,
những số liệu nghiên cứu trước đó của các nhà khoa học và so sánh những số liệu.
So sánh quy định pháp luật giữa các thời kỳ, giữa quy định của BLHS hiện hành và
những quy định trước đó. Phương pháp liệt kê, phương pháp tiếp thu từ các chuyên
gia, các nhà khoa học. Phương pháp phân tích so sánh số liệu giữa các thời kỳ lịch
sử. Phương pháp đối chiếu, chứng minh. Phương pháp tham khảo trích lọc thông tin
liên quan trên internet, bài viết, luận văn, báo chí, bài báo khoa học,…Tất cả các
phương pháp trên được tác giả lồng ghép, đan xen trong từng phần và từng giai
đoạn nghiên cứu để tạo nên sự xuyên suốt và khoa học.
6


7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu luận văn gồm: Phần mở đầu; Phần nội dung; Phần kết luận. Ngoài ra
còn có phần danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Phần nội dung của luận văn gồm ba chương như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật về tội hủy hoại rừng theo
pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội hủy hoại rừng trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật đối với tội hủy hoại rừng.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng và ý nghĩa quy định tội
hủy hoại rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội hủy hoại rừng
Con người và thiên nhiên là hai yếu tố quan trọng nhất của thế giới khách
quan và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Con người tác động bằng các hành vi
tích cực hoặc tiêu cực đến thiên nhiên và ngược lại thiên nhiên lại có tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống con người như: môi trường sống, khí hậu, thiên tai,
tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học, kinh tế, an ninh quốc phòng,... Vì vậy, để
đảm bảo tính cân bằng tự nhiên và phát triển bền vững, con người phải xem trọng
việc bảo vệ thiên nhiên. Trong đó rừng là một trong những yếu tố quan trọng nhất
của thiên nhiên và là một bộ phận không thể tách rời của thiên nhiên. Vì vậy, hiện
nay chúng ta phải bảo vệ và phát triển rừng. Ở nước ta hiện nay tình hình hủy hoại
rừng diễn ra ngày càng nhiều và diễn biến rất phức tạp, việc rừng bị hủy hoại làm
cho môi trường suy thoái và ô nhiễm nặng nề, biến đổi khí hậu, nhiều thiên tai hơn,
cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, phá hủy môi trường sống của nhiều loài động
thực vật. Do đó, bảo vệ rừng là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của nước ta hiện nay
và là mục tiêu hàng đầu trong phát triển bền vững.

Hủy hoại rừng là một tội phạm được quy định ở phần tội phạm về môi
trường trong BLHS 2015. Tội được quy định tại Điều 243 BLHS 2015 và rất phức
tạp về quy định tội phạm và hình phạt. Vì vậy, cần phải nghiên cứu làm rõ về khái
niệm về “tội hủy hoại rừng”. Cụ thể về khái niệm “rừng” là một khái niệm rất đa
dạng và phức tạp và có nhiều định nghĩa khác nhau. Rừng là quần xã sinh vật trong
đó cây rừng là chủ yếu, quần xã sinh vật phải có diện tích đủ lớn. Giữa quần xã sinh
vật và môi trường, các thành phần trong quần xã sinh vật phải có mối quan hệ mật
thiết để đảm bảo khác biệt giữa hoàn cảnh rừng và các hoàn cảnh khác. Tuy nhiên,
định nghĩa đầy đủ nhất là: “Rừng là một bộ phận của cảnh quan địa lý, trong đó bao
8


gồm một tổng thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật. Trong quá
trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng lẫn nhau và
với hoàn cảnh bên ngoài, theo M.E. Tcachenco 1952.
Tiếp theo là khái niệm “hủy hoại rừng” hay hiểu cách khác là “phá rừng”
được nhà khoa học Angelsen định nghĩa như sau: “phá rừng mang nghĩa hủy hoại
hay làm mất đi thảm cây. Từ làm mất hoàn toàn hay vĩnh viễn thảm cây cho đến
những thay đổi nhỏ trong thành phần sinh thái” [51]. Còn theo quy định trong
BLHS 2015 thì hủy hoại rừng là hành vi “đốt, phá rừng trái phép hoặc có hành vi
khác hủy hoại rừng” [21, Điều 243]. Các khái niệm về hủy hoại rừng và phá rừng
trên chỉ quy định rất ngắn gọn và đơn giản về khái niệm chung của hành vi hủy hoại
rừng, phá rừng chủ yếu là hành vi đốt, phá rừng trái phép và một số hành vi khác
nhưng chưa cụ thể tất cả loại hành vi, chưa cụ thể tất cả các thành phần của rừng mà
chỉ hiểu chung chung về thành phần chính của rừng là các thảm cây. Vì vậy, có thể
hiểu là ngoài những hành vi nêu trong khái niệm thì còn nhiều hành vi khác nữa
cũng phạm tội hủy hoại rừng, hủy hoại các bộ phận khác của rừng, nhưng luật chưa
quy định cụ thể từng hành vi, thành phần rừng gồm những bộ phận nào nên rất khó
khăn trong xác định hành vi phạm tội hủy hoại rừng, tội phạm lợi dụng những kẻ hở
pháp luật đó mà thực hiện hành vi phạm tội.

Theo Luật bảo vệ môi trường 2014 thì khái niệm về môi trường như sau:
“Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối
với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật. Thành phần môi trường là
yếu tố vật chất gồm đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật và các hình
thái vật chất khác” [27, Điều 3]. Theo khái niệm này ta hiểu “rừng” là một bộ phận
không tách rời của môi trường. Vì vậy, để có thể hiểu được khái niệm tội hủy hoại
rừng thì cần phải hiểu được các khái niệm về “môi trường”, khái niệm về “rừng”,
khái niệm “hủy hoại”, khái niệm “tội phạm”, và cuối cùng là rút ra khái niệm chung
nhất “tội hủy hoại rừng”.
- Thứ nhất: khái niệm “môi trường” là“tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và
xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng đến con người và tác động đến các hoạt
9


động sống của con người như: đất, nước, không khí, ánh sáng, sinh vật, cây cối,
rừng,…” [50]. Từ khái niệm trên ta thấy môi trường bao gồm cả “rừng”. Rừng là
một bộ phận không thể tách rời và giữ vị trí vô cùng quan trọng đối với môi trường,
rừng cùng các yếu tố khác của môi trường góp phầntạo nên thế giới quan.
- Thứ hai: khái niệm “rừng”, theo khoản 1 Điều 3 LBVR 2004 thì: “Rừng là
một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng,
đất rừng và các yếu tố môi trường khác” [26, Điều 3]. Từ khái niệm trên ta thấy
rừng là một bộ phận của môi trường, rừng ẩn bên trong một hệ sinh thái vô cùng
lớn, đa dạng và phức tạp về động vật, thực vật, chủng loại, số lượng, phân loại
rừng,… Vì vậy, khái niệm rừng là một khái niệm rất rộng cần phải được nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khoa học.
- Thứ ba: khái niệm “hủy hoại”, theo từ điển tiếng việt của Viện ngôn ngữ
học thì “hủy hoại có nghĩa là làm cho hư hỏng đi, phá đi, làm một cái gì đó tan nát”
[46, tr.416]. Theo như trên thì hủy hoại là một hành vi tiêu cực, hành vi không được
khuyến khích và bị lên án. Từ thời xa xưa ông cha ta đã xem “rừng là vàng, biển là
bạc” có nghĩa ám chỉ rừng và biển là hai thứ có giá trị, được xem là tài sản và là đối

tượng của hành vi hủy hoại.
- Từ các khái niệm trên ta rút ra được khái niệm về hủy hoại rừng “là hành vi
tiêu cực, làm cho tài nguyên rừng, cây rừng, động vật rừng, đất rừng bị hủy hoại, bị
chết hàng loạt, giảm về số lượng, diện tích và giá trị lâm sản”.
- Thứ tư: là định nghĩa về tội phạm theo Điều 8 BLHS 2015: “tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật rự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo
quy định của Bộ luật hình sự này phải bị xử lý hình sự” [20, Điều 8].

10


- Dựa vào các định nghĩa trên ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất về tội
hủy hoại rừng như sau: “Tội hủy hoại rừng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong BLHS, được thực hiện một cách cố ý bằng các hành vi như đốt,
phá rừng trái phép hoặc hành vi khác, làm cho rừng mất hoàn toàn giá trị hoặc làm
cho rừng giảm giá trị đáng kể, xâm phạm các quan hệ xã hội về bảo vệ rừng của
nhà nước, gây thiệt hại cho môi trường sinh thái”. Từ định nghĩa trên cho thấy tội
hủy hoại rừng có các dấu hiệu như sau:
- Thứ nhất: Tội hủy hoại rừng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, là hành vi
gây ra thiệt hại cho môi trường, rừng và đời sống con người như: ô nhiễm môi
trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, làm mất hoàn toàn hoặc một phần giá trị
rừng,…Việc con người hủy hoại rừng là hành vi nguy hiểm cho xã hội để lại nhiều
hậu quả nặng nề cho xã hội.
- Thứ hai: Là hành vi có lỗi thuộc về phần chủ quan của chủ thể phạm tội, ý
chí thực hiện hành vi là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.

- Thứ ba: Hủy hoại rừng là hành vi nguy hiểm cho xã hội và được quy định
cụ thể trong BLHS, chỉ những hành vi vi phạm quy định của BLHS về tội hủy hoại
rừng thì mới là tội phạm hủy hoại rừng, những hành vi hủy hoại rừng không được
quy định trong BLHS thì không phải tội phạm hủy hoại rừng và không phải chịu
TNHS và có thể áp dụng chế tài xử lý khác như xử lý hành chính, dân sự. Đây là
một nguyên tắc cơ bản nhất của BLHS về xác định hành vi phạm tội hay không
phạm tội.
- Thứ tư: Hành vi phạm tội hủy hoại rừng theo quy định BLHS phải chịu
TNHS bằng hình phạt nặng hay nhẹ tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi, hậu quả thực tế gây ra và quy định khung hình phạt của BLHS.
Tóm lại: Từ những khái niệm về môi trường, rừng, hủy hoại, tội phạm đã
góp phần làm rõ khái niệm tội hủy hoại rừng. Cho thấy tội hủy hoại rừng được quy
định trong BLHS, mang đầy đủ các dấu hiệu chung của tội phạm, chủ thể phạm tội
phải chịu hình phạt. Đây cơ sở pháp lý quan trọng để tác giả nghiên cứu đúng

11


hướng, đúng quy định pháp luật và làm sáng tỏ nội dung tội hủy hoại rừng dưới
nhiều góc độ khoa học như: Xã hội học, môi trường học, luật học.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cơ bản của tội hủy hoại rừng theo
BLHS 2015
Tội hủy hoại rừng theo Điều 243 BLHS 2015 được quy định thành 5 khoản.
Cho thấy đây là tội phạm rất phức tạp trong quy định tội phạm và hình phạt. Vì vậy,
cần nghiên cứu và làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cơ bản:
- Khoản 1 quy định chung về khái niệm, các dấu hiệu định tội và khung hình
phạt cơ bản của tội hủy hoại rừng.
- Khoản 2 và khoản 3 quy định các dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng.
- Khoản 4 quy định hình phạt bổ sung đối với tội hủy hoại rừng.
- Khoản 5 quy định TNHS của pháp nhân thương mại phạm tội hủy hoại

rừng.
Khoản 1 Điều 8 BLHS 2015 quy định: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của
Bộ luật này phải bị xử lý hình sự" [20, Điều 8]. Như vậy, qua quy định trên thì hành
vi được coi là tội phạm phải thỏa mãn đầy đủ 4 yếu tố cấu thành tội phạm gồm:
khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan. Cụ thể, việc xác định và làm
rõ bốn yếu tố trên cũng là cơ sở để nhận diện loại tội phạm, định tội danh và quyết
định hình phạt chính xác và đúng quy định pháp luật, làm sáng tỏ các tình tiết trong
vụ án, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm. Đối với tội hủy hoại rừng theo quy định tại
Điều 243 BLHS 2015 thì việc làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm hủy hoại rừng
rất quan trọng và cần phải được nghiên cứu nhằm có cơ sở định tội danh và quyết
định hình phạt. Vì tội hủy hoại rừng là tội có quy định phức tạp cả về quy định tội
12


phạm và hình phạt, cóquy định chủ thể phạm tội mới là pháp nhân thương mại nên
phải làm rõ bốn yếu tố cấu thành tội phạm trên.
a. Các yếu tố cấu thành của tội hủy hoại rừng bao gồm:
- Khách thể:
Tội hủy hoại rừng là tội phạm xâm phạm đến quan hệ xã hội được quy định
trong BLHS về: chế độ quản lý rừng của nhà nước, xâm phạm nghiêm trọng đến
môi trường sinh thái, rừng, đất rừng, các loài động vật, thực vật rừng, gây ra những
hậu quả nghiêm trọng khác cho đời sống xã hội như: thiên tai, dịch bệnh, biến đổi
khí hậu, mất cân bằng hệ sinh thái, cạn kiệt nguồn tài nguyên,… Đối tượng tác động
của tội phạm này chính là rừng, bao gồm các loại rừng: rừng phòng hộ, rừng đặc

dụng và rừng sản xuất, thực vật và động vật rừng nguy cấp quý hiếm thuộc nhóm
IA và IIA, và các loài động, thực vật là bộ phận của rừng, đất rừng [47, tr. 25].
- Chủ thể:
Chủ thể của tội phạm là cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực TNHS.
Pháp nhân thương mại thành lập và hoạt động hợp pháp theo quy định pháp luật
cũng trở thành chủ thể của tội hủy hoại rừng.
- Mặt khách quan:
Hành vi khách quan: Người thực hiện hành vi hủy hoại rừng có thể thực
hiện một hoặc một số hành vi khách quan thể hiện ra bên ngoài như sau: Hành vi
đốt, phá rừng trái phép hoặc có hành vi khác hủy hoại rừng làm rừng mất một phần
hoặc toàn bộ giá trị rừng. Theo quy định này thì tội hủy hoại rừng chủ yếu là hành
vi đốt, hành vi phá rừng trái phép và một số hành vi khác. Tuy nhiên, luật không
quy định cụ thể các hành vi khác đó gồm những hành vi nào và cũng chưa có văn
bản hướng dẫn chi tiết nên rất khó khăn trong việc xác định hành vi phạm tội.
Hậu quả: Tùy vào từng trường hợp mà hậu quả của hành vi sẽ là dấu hiệu
bắt buộc hay không bắt buộc đối với tội hủy hoại rừng. Cụ thể:
Đối với những trường hợp sau đây thì hậu quả được xem là bắt buộc:
+ Gây thiệt hại về lâm sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000
đồng trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích;
13


+ Thực vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ
hoặc danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm nhóm IA trị giá từ
20.000.000 đồng đến dưới 60.000.000 đồng; Thực vật thuộc danh mục thực vật
rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm nhóm IIA trị giá từ 40.000.000 đồng đến
dưới 100.000.000 đồng;
Đối với các trường hợp sau thì hành vi được xác định là tội phạm mà
không cần có hậu quả xảy ra:
+ Cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh thuộc rừng chưa

có trữ lượng có diện tích từ 30.000 m2 đến dưới 50.000 m2.
+ Rừng sản xuất có diện tích từ 5.000 m2 đến dưới 10.000 m2.
+ Rừng phòng hộ có diện tích từ 3.000 m2 đến dưới 7.000 m2.
+ Rừng đặc dụng có diện tích từ 1000 m2 đến dưới 3.000 m2.
+ Diện tích rừng hoặc giá trị lâm sản dưới mức quy định trên nhưng đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại điều này hoặc đã bị
kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
- Mặt chủ quan:
Người thực hiện hành vi phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội phải là
hành vi có lỗi cố ý gồm lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Và thể hiện lỗi cố ý
qua hành vi đốt, phá rừng trái phép và các hành vi khác, qua các tình tiết tăng nặng
như:
+ Có tổ chức
+ Lợi dụng chức vụ quyền hạn, lợi dụng danh nghĩa cơ quan tổ chức
+ Tái phạm nguy hiểm
+ Cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh thuộc rừng chưa
có trữ lượng có diện tích từ 50.000 m2 trở lên
+ Rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 m2 trở lên
+ Rừng phòng hộ có diện tích từ 7.000 m2 trở lên
+ Rừng đặc dụng có diện tích từ 3.000 m2 trở lên
+ Gây thiệt hại về lâm sản trị giá từ 100.000.000 đồng trở lên trong trường
14


hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích
+ Thực vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ
hoặc danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm nhóm IA trị giá từ
60.000.000 đồng trở lên; Thực vật thuộc danh mục thực vật, động vật nguy cấp, quý
hiếm nhóm IIA trị giá từ 100.000.000 đồng trở lên
+ Pháp nhân thương mại vi phạm Điều 79 BLHS 2015 thì bị: “Đình chỉ hoạt

động vĩnh viễn là chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương mại trong một số lĩnh
vực mà pháp nhân gây ra thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính
mạng nhiều người, sự cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn
xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra; Pháp nhân thương mại
được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm thì bị đình chỉ vĩnh viễn” [20, Điều 79].
Để xác định đúng tội hủy hoại rừng so với các tội khác theo quy định của
BLHS, làm sáng tỏ các tình tiết trong vụ án, làm cơ sở định tội danh và quyết định
hình phạt thì cần phải làm sáng tỏ bốn yếu tố cấu thành tội hủy hoại rừng là khách
thể, chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan để tránh tình trạng truy tố sai tội danh,
oan sai, bỏ lọt tội phạm, truy tố sai khoản quy định trong một điều luật, làm rõ các
tình tiết trong vụ án, làm rõ sự thật khách quan.
b. Các dấu hiệu định khung hình phạt:
Tội phạm và hình phạt là hai yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của BLHS.
Giữa tội phạm và hình phạt có mối quan hệ nhân quả với nhau, hành vi phạm tội
phải chịu hình phạt tương thích và hình phạt lại có tính trừng trị, giáo dục, cải tạo,
hướng thiện tác động ngược lại hành vi phạm tội. Đối với tội hủy hoại rừng được
quy định tại Điều 243 BLHS 2015, bên cạnh khung hình phạt cơ bản được quy định
tại khoảng 1 thì có hai khung hình phạt tăng nặng được quy định tại khoản 2 và
khoản 3 Điều 243 BLHS 2015.
Cụ thể, quy định tại khoản 1 là khung quy định và hình phạt thấp nhất đối
với hành vi đốt, phá rừng trái phép hoặc có hành vi khác dưới đây thì bị phạt tiền từ
50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
15


a) Cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh thuộc rừng
chưa có trữ lượng có diện tích từ trên 30.000 m2 đến dưới 50.000 m2.
b) Rừng sản xuất có diện tích từ trên 5.000 m2 đến dưới 10.000 m2.
c) Rừng phòng hộ có diện tích từ trên 3.000 m2 đến dưới 7.000 m2.

d) Rừng đặc dụng có diện tích từ trên 1.000 m2 đến dưới 3.000 m2.
đ) Gây thiệt hại về lâm sản giá trị từ 30.000.000 đồng đến dưới 60.000.000
đồng đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên; Từ trên 50.000.000 đồng đến dưới
100.000.000 đồng đối với rừng sản xuất là rừng trồng, rừng khoanh nuôi tái sinh
trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích hoặc có hành vi
hủy hoại rừng không tập trung mà phân tán, rải rác theo diện tích quy định.
e) Diện tích rừng hoặc giá trị lâm sản, thực vật dưới mức quy định tại một
trong các điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều này, đã bị xử phạt vi phạm hành chính
về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm
Tùy vào tính chất mức độ, thiệt hại, loại rừng bị hủy hoại, tình tiết tăng nặng
mà quy định về mức hình phạt từ khoản 1 đến khoản 3 Điều 243 BLHS càng tăng
nặng cả về hình phạt chính và hình phạt bổ sung, cụ thể tại khoản 2 Điều 243 BLHS
2015 quy định như sau:
Tình tiết “có tổ chức” được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 243 BLHS
2015, hiện nay pháp luật hình sự về tội hủy hoại rừng chưa có giải thích, hướng dẫn
cho tình tiết này. Tuy nhiên, thông qua các quy định khác trong BLHS 2015 như tại
khoản 2 Điều 17 BLHS 2015 quy định: “phạm tội có tổ chức là hình thức đồng
phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”, có từ hai
người trở lên cố ý cùng tham gia phạm tội và có sự nhất trí của những người cùng
thực hiện tội phạm, phải có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội
phạm. Vì vậy, đối với tội hủy hoại rừng theo BLHS 2015 thì tình tiết “có tổ chức”
được xem là một tình tiết tăng nặng đối với tội này và dùng làm cơ sở để định
khung hình phạt. Khoản 2 Điều 243 BLHS 2015 quy định tình tiết định khung hình
phạt tăng nặng đối với “Có tổ chức” với khung hình phạt tù từ 03 năm đến 07 năm
16


tù là nhằm răn đe, trừng trị nghiêm khắc những người có hành vi hủy hoại rừng. Bởi
lẽ, phạm tội có tổ chức thì nguy hiểm hơn, có tính chất, mức độ nguy hiểm cao và

hậu quả gây ra là rất lớn so với hành vi phạm tội hủy hoại rừng bình thường theo
khoản 1 Điều 243 BLHS 2015.
Tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 243 BLHS 2015 được xem là tình tiết
tăng nặng. Cụ thể: “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” là trường hợp người có chức vụ,
quyền hạn trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản mà sử dụng chức
vụ, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi phạm tội hủy hoại rừng. Nghĩa là,
dựa vào quyền năng do nắm chức vụ, quyền hạn mang lại để thực hiện hành vi
phạm tội.
Tình tiết “Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức” là hành vi của người hiện
đang là thành viên của cơ quan, tổ chức đó. Thông qua việc cơ quan tổ chức có
chức năng hoặc đang thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn luật định mà người này có
hành vi lấy danh nghĩa cơ quan,tổ chức đó để thực hiện hành vi phạm tội vì lợi ích
cá nhân, làm người khác, cơ quan khác hiểu nhầm người này đang thực hiện công
vụ, thực hiện quyền lợi cho cơ quan, tổ chức mà sự thật là người này lợi dụng danh
nghĩa các cơ quan, tổ chức để vụ lợi cho bản thân mình. BLHS 2015 quy định đây
là tình tiết tăng nặng bởi vì những người nắm giữ chức vụ, quyền hạn trong việc
quản lý, bảo vệ rừng, khai thác rừng, quản lý đất rừng,… nên có quyền chi phối,
quyết định, gây tác động đến việc bảo vệ rừng, khai thác rừng và phát triển rừng.
Đồng thời có khả năng biết tính nguy hiểm cao hơn so với các trường hợp phạm tội
bình thường.
Tình tiết “Tái phạm nguy hiểm” tình tiết này được quy định tại điểm c khoản
2 Điều 23 BLHS 2015, theo quy định tại Điều 53 BLHS năm 2015 thì trường hợp
được coi là tái phạm nguy hiểm gồm: Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa xóa án tích mà lại thực hiện hành vi
phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc
đã tái phạm, chưa xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý [47, tr. 2517


27].

Khoản 2 còn quy định tình tiết tăng nặng đối với các hành vi phạm tội ở
điểm d, đ, e, g, h, i với diện tích và giá trị rừng thiệt hại lớn hơn so với khoản 1 cụ
thể như: Hủy hoại rừng là cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh
thuộc kiểu trạng thái rừng có diện tích từ 50.000 m2 đến dưới 100.000 m2; Rừng
sản xuất diện tích từ 10.000 m2 đến dưới 50.000 m2; Rừng phòng hộ diện tích từ
7.000 m2 đến dưới 10.000 m2; Rừng đặc dụng diện tích từ 3.000 m2 đến dưới
5.000 m2; Gây thiệt hại lâm sản giá trị từ 60.000.000 đồng đến dưới 120.000.000
đồng đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên, từ 100.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng đối với rừng sản xuất là rừng trồng, rừng khoanh nuôi tái sinh
trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích bi đốt, bị phá
không tập trung mà phân tán, rải rác trong một tiểu khu hoặc nhiều tiểu khu; Thực
vật nguy cấp quý hiếm thuộc nhóm IA từ 60.000.000 đồng đến dưới 100.000.000
đồng; Thực vật nhóm II A từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng. Đối
với hành vi phạm tội thuộc khoản 2 thì người phạm tội bị phạt tù từ 03 năm đến 07
năm.
Khoản 3 Điều 189 BLHS 1999 quy định chỉ có ba tình tiết định khung tăng
nặng là: “hủy hoại diện tích rừng đặc biệt lớn; Hủy hoại rừng phòng hộ, rừng đặc
dụng; Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Người phạm tội tại khoản 3 sẽ bị phạt tù
từ 07 năm đến 15 năm, các tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 3 quy định rất
chung chung, chưa quy định cụ thể, chi tiết. Điều này gây khó khăn cho hoạt động
tiến hành tố tụng trong thực tế, tuy nhiên hiện nay BLHS 2015 đã đã có những quy
định rõ ràng và chi tiết hơn. Cụ thể các quy định của luật phù hợp với quy luật phát
triển, phù hợp với nhu cầu thực tiễn và tình hình hiện nay như: xây dựng mới các
điểm a, b, c, d, đ, e; Bỏ các tình tiết định khung tăng nặng mang tính chung chung
tại BLHS 1999 mà thay vào đó là 3 khoản định khung tăng nặng tại Điều 243
BLHS 2015. Nếu so sánh quy định tại khoản 3 Điều 189 BLHS 1999 và khoản 3
Điều 243 BLHS 2015 có sự khác nhau, BLHS 2015 quy định chi tiết rõ ràng hơn:
quy định tội phạm và hình phạt căn cứ vào diện tích rừng, giá trị lâm sản bị thiệt hại
18



và thực vật, động vật thuộc danh mục nguy cấp, quý hiếm nhóm IA và IIA. Đây là
những sửa đổi, bổ sung hợp lý, hợp quy luật, thể hiện kỹ thuật lập pháp của BLHS
năm 2015 cao hơn BLHS1999 [47, tr. 30].
Ngoài các tình tiết tăng nặng TNHS người phạm tội hủy hoại rừng nếu có
các tình tiết giảm nhẹ theo Điều 51 BLHS 2015 thì sẽ được áp dụng mức hình phạt
thấp hơn mức luật quy định như: Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt
TNHS; Tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại; Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc
thiệt hại không lớn; Phạm tội do lạc hậu; Người phạm tội tự thú,… Và khi người
phạm tội có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên thì Tòa án có thể quyết định một hình
phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung
hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Có nghĩa là nếu một người phạm tội vào
khoản 3 Điều 243 BLHS với khung hình phạt là 07 năm đến 15 năm nhưng nếu có
từ 2 tình tiết giảm nhẹ thì sẽ được Tòa án áp dụng hình phạt trong khung hình phạt
ở khoản 2 Điều 243 BLHS từ 03 năm đến 07 năm.
Trong công tác định tội danh và quyết định hình phạt cần phải làm rõ các vấn
đề về dấu hiệu định khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ
TNHS. Để làm cơ sở áp dụng loại hình phạt và mức hình phạt phù hợp với từng
hành vi phạm tội, từng mức độ phạm tội.
c. Các quy định về hình phạt đối với tội hủy hoại rừng.
BLHS 1999 và BLHS 2015 đều có quy định hình phạt đối với tội hủy hoại
rừng gồm 2 loại là hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hầu hết các hình phạt
chính và hình phạt bổ sung đối với cá nhân là giống nhau về cả quy định và loại
hình phạt. Nhưng có sự khác nhau về mức phạt tù và mức phạt tiền. BLHS 2015 có
thêm điểm mới là quy định hình phạt chính và phạt bổ sung đối với pháp nhân
thương mại phạm tội. Tóm lại giữa hai BLHS 1999 và BLHS 2015 có những thay
đổi tích cực và đem lại hiệu quả.
- Quy định về hình phạt chính và hình phạt bổ sung
+ Hình phạt chính quy định từ thấp đến cao gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền;

19


×