Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Đặc điểm lối sống quần cư và tương trợ lẫn nhau của cộng đồng người Hoa ở Bình Dương nhìn từ góc độ kinh tế và văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.1 KB, 14 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

ĐẶC ĐIỂM LỐI SỐNG QUẦN CƢ VÀ TƢƠNG TRỢ LẪN NHAU CỦA CỘNG
ĐỒNG NGƢỜI HOA Ở BÌNH DƢƠNG NHÌN TỪ GÓC ĐỘ KINH TẾ VÀ VĂN HÓA
ThS. Đào Vĩnh Hợp
Trƣờng Đại học Sài Gòn
Email:
ThS. Võ Thị Ánh Tuyết
Khoa Lịch sử, Trƣờng ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM
Email:
Tóm tắt: Nếu tính từ ngày tái lập tỉnh Bình Dương (1997 – 2017), lịch sử xây dựng và phát
triển tỉnh Bình Dương chỉ được 20 năm, nhưng vùng đất Bình Dương nói chung có bề dày lịch
sử lâu đời. Cùng với tiến trình định cư của người Việt tại vùng đất phương Nam, trong các
thế kỷ XVIII - XIX, góp phần xây dựng và phát triển vùng đất Bình Dương còn có sự góp mặt
vô cùng quan trọng của cộng đồng người Hoa.
Với vị trí địa lý, giao thông thủy bộ thuận tiện, cộng với nguồn nguyên liệu đất sét tại chỗ
dồi dào và các điều kiện khác, vùng đất Bình Dương đã thu hút người Hoa di cư đến sinh sống
từ khá sớm. Lịch sử ghi nhận, từ đầu thế kỷ XIX, cộng đồng người Hoa đã đến Bình Dương
với số lượng lớn. Hơn 200 năm qua, cộng đồng người Hoa đã có nhiều đóng góp to lớn cho
sự phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội của vùng đất Bình Dương nói chung. Nghiên cứu đặc
điểm lối sống quần cư và tương trợ lẫn nhau của cộng đồng người Hoa ở Bình Dương nhìn từ
góc độ kinh tế và văn hóa sẽ góp phần thể hiện vai trò của cộng đồng người Hoa đối với sự
hình thành và phát triển đô thị ở Bình Dương trong quá khứ và cả hiện tại. Đây là cơ sở để
khơi dậy tiềm năng kinh tế, văn hóa của cộng đồng dân cư này cho sự nghiệp hội nhập và
phát triển bền vững của tỉnh Bình Dương nói riêng và Nam Bộ Việt Nam nói chung.
Từ khóa: quần cư, tương trợ, người Hoa, Bình Dương.
1. Đôi nét về lịch sử định cƣ của ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng
Lịch sử cho thấy ngƣời Hoa thực sự vào Nam Bộ từ khá sớm. Ngay từ cuối thế kỷ XVII,
các di dân Trung Hoa đã có mặt tại Cù Lao Phố và xây dựng nơi đây thành một thƣơng cảng
sầm uất. Ngƣời Hoa ở Đông Nam Bộ nói chung đƣợc cấu thành từ 2 bộ phận tƣơng ứng với
những thời điểm và lý do di trú khác nhau. Bộ phận thứ nhất bao gồm những ngƣời “phản


Thanh phục Minh” qua Việt Nam tị nạn chính trị cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII và hậu
duệ của họ, thƣờng vẫn đƣợc gọi chung là Minh Hƣơng. Bộ phận thứ hai gồm những ngƣời
Hoa qua Việt Nam làm ăn sinh sống từ cuối thế kỷ thứ XVIII trở đi. Vốn mang trong mình
bản tính năng động và óc làm kinh tế, đến đâu ngƣời Hoa cũng phát hoang, dựng nhà, lập bến,
mở đƣờng, xây dựng phố chợ. Chỉ trong vài thập niên, đến đầu thế kỉ XVIII, những di dân
ngƣời Hoa đã biến Cù Lao Phố thành một thƣơng cảng xuất nhập khẩu lớn thu hút thuyền
132


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

buôn Nhật Bản, Trung Hoa và các nƣớc phƣơng Tây. Nông Nại Đại Phố nằm giữa cù lao trên
sông Đồng Nai, đã đƣợc Trịnh Hoài Đức miêu tả trong Gia Định thành thông chí nhƣ sau: “Ở
đầu phía Tây bãi là Đại Phố. Khi mới khai thác, tƣớng quân Trần Thƣợng Xuyên chiêu tập lái
buôn ngƣời Trung Quốc lập ra phố xá, nhà ngói, tƣờng vôi, lầu cao chót vót, quán mấy tầng
rực rỡ bên sông dƣới ánh mặt trời, liên tục năm dặm mở ra ba đƣờng phố. Phố lớn lát đƣờng
đá trắng, phố ngang lát đƣờng đá ong, phố nhỏ lát đƣờng đá xanh, bằng phẳng nhƣ đá mài.
Khách buôn tụ tập đông, thuyền biển, thuyền sông, tránh gió bỏ neo, lớn nhỏ sát nhau, là một
nơi đô hội…”73. Về tổ chức xã hội của ngƣời Hoa, ban đầu, các nhóm ngƣời Hoa thuộc bộ
phận thứ hai đƣợc tổ chức theo đơn vị “phủ” rồi “bang” nhƣ phủ Phƣớc Châu, phủ Chƣơng
Châu, phủ Triều Châu, phủ Ninh Ba rồi bang Phúc Kiến, bang Triều Châu, bang Hải Nam. Về
sau, Gia Long cải tổ lại các bang, hội ngƣời Hoa và cho thành lập bảy bang theo yêu cầu của
những ngƣời Hoa có công trạng, đó là bang Phúc Kiến, bang Phúc Châu, bang Triều Châu,
bang Quảng Châu, bang Quế Châu, bang Lôi Châu, bang Hải Nam74.
Riêng tại khu vực Bình Dƣơng, sự có mặt của ngƣời Hoa thật sự muộn hơn. Nhờ vị trí địa
lý, giao thông thủy bộ thuận tiện, cộng với nguồn nguyên liệu đất sét tại chỗ dồi dào và các
điều kiện khác, vào đầu thế kỷ XIX, vùng đất Bình Dƣơng đã thu hút cộng đồng ngƣời Hoa
đến sinh sống với số lƣợng lớn. Theo Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam kỳ Lục tỉnh, tại tỉnh
Thủ Dầu Một năm 1953, ngƣời Hoa chiếm 3,69% dân số của tỉnh. Bấy giờ tổng dân số của
tỉnh là 118.769 ngƣời, trong đó ngƣời Hoa là 4385 ngƣời75.

Buổi ban đầu này, quá trình tụ cƣ của ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng gắn liền với phát triển các
đô thị hay các trung tâm làm gốm. Các điểm tụ cƣ đông đúc ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng bấy giờ
gồm: chợ Phú Cƣờng, khu vực Lái Thiêu, chợ Bình Nhan Thƣợng (chợ Cây Me) tức khu vực
Bình Nhâm, Búng-An Thạnh hiện nay, khu vực Tân Khánh, khu vực Dầu Tiếng. Khu chợ Phú
Cƣờng trở nên phồn thịnh và là một trung tâm gốm khá lớn với khu Lò Chén. Tại khu vực Lái
Thiêu, nhờ việc khai thác nguồn nguyên liệu đất sét phong phú tại chỗ, ngƣời Hoa Phúc Kiến
đã mở lò gốm và trung tâm gốm Lái Thiêu đƣợc hình thành, phát triển. Đồng thời tại đây cũng
có chợ Lái Thiêu khá sầm uất. Vùng Tân Thới đƣợc ngƣời Hoa Quảng Đông, Triều Châu và
Hẹ cƣ ngụ khá đông, họ đã kinh doanh buôn bán và mở các dãy phố, chợ, cửa hàng… Nghề
buôn bán thuốc Bắc với các cửa hiệu nổi tiếng ở chợ Phú Cƣờng và chợ Lái Thiêu vốn gắn
liền với sự tụ cƣ của ngƣời Hẹ. Nhu cầu mở lò làm gốm và kinh doanh cũng đã tiếp tục thu
hút ngƣời Hoa đến vùng Tân Khánh. Nhóm cộng đồng ngƣời Hoa ở Dầu Tiếng có quá trình
lịch sử hình thành và phát triển muộn hơn: đầu thế kỷ XX, gắn với các công ty đồn điền cao
su của ngƣời Pháp.
Theo số liệu công bố chính thức từ cuộc điều tra dân số cuối năm 2009, tổng dân số Bình
Dƣơng là 14.81.550 ngƣời, trong đó ngƣời Hoa là 18.783 ngƣời, chiếm tỷ lệ 1,268% tổng dân
73

Trịnh Hoài Đức, 1998, Gia Định Thành Thông Chí, Bản dịch của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia –
Viện Sử học, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, tr. 194.
74
Theo Nguyễn Cẩm Thúy (chủ biên) (2000), Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ, Nxb. Khoa học Xã hội, Thành phố
Hồ Chí Minh, tr. 20-21.
75
Nguyễn Đình Đầu, 1994, Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam kỳ Lục tỉnh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 112.

133


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”


số của tỉnh76. Tại Bình Dƣơng, ngƣời Hoa là cộng đồng dân tộc có số dân đông sau ngƣời
Việt.
2. Đặc điểm lối sống quần cƣ của cộng đồng ngƣời Hoa tại vùng đất Bình Dƣơng
Nhờ hội tụ đủ các điều kiện thuận lợi, ngƣời Hoa đã lần lƣợt về tụ cƣ tại vùng đất Bình
Dƣơng. Vốn mang trong mình đặc tính xã hội với tính chất cố kết cộng đồng cao, nên khi đến
với vùng đất mới Bình Dƣơng, ngƣời Hoa đã chọn cho mình lối sống quần cƣ. Buổi ban đầu,
ngƣời Hoa sinh sống tập trung ngay tại các đô thị và chủ yếu phát triển các trung tâm thƣơng
mại hay làng nghề làm gốm. Các điểm tụ cƣ đông đúc ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng bấy giờ gồm:
chợ Phú Cƣờng, khu vực Lái Thiêu, chợ Bình Nhan Thƣợng (chợ Cây Me) tức khu vực Bình
Nhâm, Búng-An Thạnh hiện nay, khu vực Tân Khánh và khu vực Dầu Tiếng.
Phú Cƣờng: khu vực tụ cƣ đầu tiên của ngƣời Hoa tại vùng đất Bình Dƣơng.
Qua các tài liệu nghiên cứu, có thể thấy cho đến trƣớc khi chợ Phú Cƣờng ra đời (vào
khoảng năm 1838), rất ít ngƣời Hoa đến sinh sống ở vùng đất ngày nay là Bình Dƣơng77.
Trong quá trình di dân đến vùng đất mới Bình Dƣơng, ngay từ buổi ban đầu, ngƣời Hoa đã
sớm phát hiện ra các điều kiện thuận lợi của vùng đất Phú Cƣờng và chọn nơi đây làm điểm
an cƣ, lập nghiệp. Thứ nhất, về vị trí địa lý, Phú Cƣờng là nơi thuận tiện cho cả giao thông
thủy, bộ. Theo đó, khu vực này đóng vai trò nhƣ trạm trung chuyển, hàng hóa, nhất là nông
lâm sản, gốm sứ từ các vùng xung quanh và vùng trên xuôi về đều ghé vào đây và sau đó
đƣợc các thƣơng gia chuyển về Gia Định và những vùng xa hơn. Hơn nữa, bấy giờ khu vực
này chính là huyện lỵ Bình An, điều này đã tạo cho ngƣời Hoa cảm thấy yên ổn về mặt pháp
luật để định cƣ, sinh sống, hoạt động kinh tế, kinh doanh thƣơng mại… Thêm vào đó, nơi đây
cũng tàng trữ nguồn nguyên liệu đất sét với khối lƣợng lớn và có chất lƣợng để có thể khai
thác phát triển nghề làm gốm. Nhóm Hoa Phúc Kiến vốn thạo nghề gốm đã biến nơi đây trở
thành trung tâm gốm quy mô với địa danh nổi tiếng là “khu Lò Chén”. Cùng với quá trình tụ
cƣ sớm ở đây, ngƣời Hoa đã góp phần xây dựng và làm cho khu chợ Phú Cƣờng trở nên phồn
thịnh. Sự nhộn nhịp, sầm uất của khu chợ này nói riêng và đô thị Phú Cƣờng nói chung, đã
đƣợc Đại Nam Nhất Thống Chí ghi chép nhƣ sau: “Chợ Phú Cƣờng ở thôn Phú Cƣờng huyện
Bình An, tục danh chợ Dầu Một (hay Dầu Miệt), ở bên lỳ sở huyện, xe cộ ghe thuyền tấp
nập…”78. Chợ Phú Cƣờng trở thành khu chợ lớn nhất của cả vùng Thủ Dầu Một. Lịch sử

cũng ghi nhận, các thuyền ghe chở lu, hủ, chén, tộ…từ chợ Phú Cƣờng từ rất sớm đã đi về các
tỉnh miền Tây và sang cả xứ Cao Miên.
Khu vực tụ cƣ thứ hai của ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng là Lái Thiêu.
Tiếp sau Phú Cƣờng, ngƣời Hoa tiếp tục đến tụ cƣ ở thôn “Tân Thới (Thái) Tây, xã Tân
Thới giáp Đông (có cả xã Thịnh Hòa nhập vào) và xã Tân Thới (thôn Vĩnh Phúc)”79 và cũng
biến nơi này trở thành khu chợ Lái Thiêu khá sầm uất. Tại đây, nhờ việc khai thác nguồn
76

Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ƣơng, 2010, Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, Nxb
Thống kê, tr. 207.
77
Huỳnh Ngọc Đáng, 2012, Người Hoa ở Bình Dương, Nxb Chính trị Quốc Gia-Sự thật, tr. 33.
78
Đào Duy Anh; Phạm Trọng Điềm; Quốc sử quán triều Nguyễn; Viện Sử học (Việt Nam), 1992, Đại Nam nhất thống chí,
tập 5, Nxb. Thuận Hóa, tr. 70.
79
Trịnh Hoài Đức, 1998, Sđd, tr.99.

134


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

nguyên liệu đất sét phong phú tại chỗ, ngƣời Hoa Phúc Kiến đã mở lò gốm và trung tâm gốm
Lái Thiêu. Bên cạnh đó, vùng Tân Thới đƣợc ngƣời Hoa Quảng Đông, Triều Châu và Hẹ cƣ
ngụ khá đông, họ đã kinh doanh buôn bán và mở các dãy phố, chợ, cửa hàng…
Nhu cầu mở lò làm gốm và kinh doanh cũng đã tiếp tục thu hút ngƣời Hoa đến Bình
Dƣơng. Điểm tụ cƣ thứ 3 của ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng là vùng chợ Bình Nhan Thƣợng, hay
còn đƣợc gọi là chợ Cây Me (khu vực Bình Nhâm, Búng-An Thạnh hiện nay). Sau này có lúc
ngƣời Pháp đã đặt huyện lỳ Bình An ở đây chớ không đặt ở Phú Cƣờng. Khu vực Tân Khánh

với hai thôn Tân Khánh Đông và Tân Khánh Trung cũng đã thu hút ngƣời Hoa đến sinh sống,
tuy nhiên hoạt động kinh tế chính của họ bấy giờ chỉ là nghề làm gốm.
Nhóm cộng đồng ngƣời Hoa ở Dầu Tiếng có quá trình lịch sử hình thành và phát triển
muộn hơn: đầu thế kỷ XX, gắn với các công ty đồn điền cao su của ngƣời Pháp. Khi công ty
đồn điền cao su Mit-sơ- lanh (Societe des Plantations et Pneumatiques Michelin au Vietnam)
triển khai trồng cây cao su ở Dầu Tiếng vào năm 1917, cộng đồng ngƣời Hoa đã có mặt. Dầu
Tiếng trở thành nơi tụ cƣ thứ 4 của ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng mà không gắn với quá trình phát
triển đô thị hay hình thành trung tâm gốm nhƣ các điểm tụ cƣ trƣớc đó.
Lối sống quần cƣ của cộng đồng ngƣời Hoa và sự ra đời, phát triển của các đô thị tại
vùng đất Bình Dƣơng
Sự phát triển đô thị ở Bình Dƣơng trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX gắn
liền với vai trò đặc biệt của cộng đồng ngƣời Hoa. Quá trình tụ cƣ của ngƣời Hoa tại Bình
Dƣơng đã góp phần làm tạo nên sự phát triển phồn thịnh của các thị tứ, đô thị ở các huyện lỵ,
trung tâm đầu mối giao thông. Nhìn chung, dân số ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng đã phát triển
khá nhanh qua các thời kỳ lịch sử, nhất là dƣới thời Pháp thuộc. Cùng với việc tăng lên rất
nhanh của số lƣợng ngƣời Hoa trên vùng đất Bình Dƣơng, đã kéo theo sự ra đời của các đô thị
mới. Địa bàn cƣ trú của ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng bấy giờ đƣợc mở rộng hơn ra nhiều vùng.
Sau khi Pháp ổn định sự cai trị ở Nam Kỳ và sự ra đời của tỉnh Thủ Dầu Một vào năm
1889, số lƣợng ngƣời Hoa tăng lên rất nhanh. Theo địa chí Thủ Dầu Một thuộc Pháp
(Monographie de Thudaumot 1910, BSEI, 1910) và các niên giám thống kê của Pháp: năm
1910, có 1.118 ngƣời Hoa và 1.069 ngƣời Minh Hƣơng; năm 1915 có 2063 ngƣời Hoa và 634
ngƣời Minh Hƣơng; năm 1920, có 1.765 ngƣời Hoa và 900 ngƣời Minh Hƣơng; năm 1925, có
1374 ngƣời Hoa và 1097 ngƣời Minh Hƣơng… đến năm 1955 thì số lƣợng ngƣời Hoa chung
lúc này đã là con số khá lớn: 11.000 ngƣời, trong đó ở phủ lỳ có 6.000 và ở các làng nông
thôn là 5.000 ngƣời80.
Trong quá trình định cƣ tại Bình Dƣơng, ngƣời Hoa thƣờng sống tập trung thành cộng
đồng. Với đặc tính cần cù, nhạy bén, thông minh và nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thƣơng
mại, ngƣời Hoa thƣờng cƣ trú tập trung ở những nơi thuận lợi cho việc buôn bán và hoạt động
kinh tế, dịch vụ. Những đô thị sớm ở Bình Dƣơng chính là các trung tâm thị tứ hay những
làng làm gốm của ngƣời Hoa. Ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, buổi ban đầu đến vùng

đất mới Bình Dƣơng, do số lƣợng ngƣời Hoa ít nên họ sống đan xen với ngƣời bản địa ở các
80

Dẫn theo, Huỳnh Ngọc Đáng, 2012, Sđd, tr.39.

135


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

khu phố chợ, thị trấn, thị tứ nơi đông đúc dân cƣ nhƣ thị xã Thủ Dầu Một, thị trấn An Thạnh,
thị trấn Lái thiêu, thị trấn Tân Phƣớc Khánh, thị trấn Mỹ Phƣớc, thị trấn Dầu Tiếng. Bấy giờ
ngƣời Hoa chủ yếu làm nghề buôn bán nhỏ, làm gốm gia dụng và làm nông nghiệp. Ngƣời
Hoa đã cùng dân bản địa xây dựng nên các phố chợ, điểm buôn bán, kinh doanh nhƣ chợ Thủ
Dầu Một, chợ Búng, chợ Lái thiêu, chợ Bƣng Cầu, chợ Bến Cát, chợ Dầu Tiếng, chợ Dĩ An…
Riêng tại Thủ Dầu Một, hoạt động kinh doanh buôn bán của ngƣời Hoa có phần sôi động hơn.
Thủ Dầu Một trở thành một trung tâm kinh tế giao lƣu hàng hoá của tỉnh. Từ đây, hàng hóa
của cƣ dân trong vùng đƣợc trao đổi với các vùng lân cận nhƣ Biên Hòa, thành phố Hồ Chí
Minh. Vào khoảng cuối thể kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, ngƣời Hoa ở đây đã thành lập Hội Quán
Vạn Thƣơng tại chợ Búng (tọa lạc ở hai bên Thiên Hậu cung) làm nơi tụ họp trao đổi kinh
nghiệm trong kinh doanh buôn bán.
Do nhu cầu kinh tế - xã hội của cộng đồng ngƣời Hoa, thêm vào đó là sự nhập cƣ của
những ngƣời Hoa từ vùng gốm Cây Mai thuộc Sài Gòn, Gia Định đến với vùng đất Bình
Dƣơng với mục đích tiếp tục hoạt động kinh tế sản xuất của mình do nguồn nguyên liệu đất
sét tại địa phƣơng bị cạn dần, cùng sự chật chội trong phát triển các đô thị. Từ đó dẫn đến việc
hình thành của các nhóm cộng đồng ngƣời Hoa mới. Bên cạnh bốn nhóm Hoa chính ở Thủ
Dầu Một là nhóm Quảng Đông, nhóm Phƣớc Kiến, nhóm Triều Châu và nhóm Sùng Chính,
còn có các nhóm cộng đồng ngƣời Hoa ở Lái Thiêu, Búng-An Thạnh, Tân Phƣớc Khánh và
Dầu Tiếng. Đến đầu thế kỷ XX, các khu làm gốm ở Bình Dƣơng đƣợc ghi nhận nhƣ sau: Số
lƣợng lò gốm trong tỉnh là 40 trong đó có 5 ở An Thành, 8 ở Hƣng Định, 1 ở Tân Thới, 14 ở

Phú Cƣờng, 3 ở Bình Chuẩn và 9 ở Tân Khánh. Lò gốm chính tọa lạc ở Lái Thiêu là trung
tâm thƣơng mại quan trọng nhất của huyện. Sản phẩm xuất xƣởng từ lò gốm này giống kiểu
“gốm Cây Mai” nhƣng thua xa về nguyên liệu và nhất là độ tinh xảo81.
Khoảng đầu thế kỷ XX, ngoài việc phát triển hệ thống buôn bán ở các chợ, ngƣời Hoa còn
phát triển mạng lƣới buôn bán bằng ghe, thuyền với các khu vực khác, đặc biệt là hình thức
buôn bán gốm gia dụng với các tỉnh miền Tây. Năm 1910, Lái Thiêu là một trung tâm thƣơng
nghiệp lớn, là bến đậu của tàu thủy và bến xe đò…82.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, tại các trung tâm kinh tế của địa phƣơng
hay các đô thị, ngƣời Hoa tiếp tục tham gia kinh doanh buôn bán với số lƣợng nhiều và gần
nhƣ độc quyền về thƣơng mại và dịch vụ. Hoạt động kinh tế của ngƣời Hoa rất phát triển.
Những phố chợ, dãy nhà, dãy phố của ngƣời Hoa đã ra đời và phát triển. Ngƣời dân địa
phƣơng quen gọi những khu phố này là “phố Tàu”. Bấy giờ, ở các khu phố này hoạt động kinh
tế thủy bộ đều phát triển, suốt ngày đêm lúc nào cũng nhộn nhịp ghe, thuyền tụ tập, giao lƣu
buôn bán… Chỉ riêng thị xã Thủ Dầu Một, theo nguồn thống kê của phòng thống kê thƣơng
mại Sài Gòn thì trƣớc tháng 4 năm 1975 có 453 hiệu buôn của ngƣời Hoa83.
81

Công ty Nghiên cứu Đông Dƣơng – Lê Thành Tƣờng; Lê Tùng Hiếu - Nguyễn Văn Phúc (Biên dịch), 2015, Địa chí tỉnh
Thủ Dầu Một và tỉnh Bà Rịa, Nxb. Đồng Nai, tr. 43.
82
Trần Bạch Đằng (Chủ biên), 1991, Địa chí tỉnh Sông Bé, Nxb. Tổng hợp Sông Bé, tr 222.
83
Trần Hồi Sinh, 1996, Người Hoa trong nền kinh tế thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Đại học kinh tế
T.P. Hồ Chí Minh, tr.55.

136


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”


Sau ngày đất nƣớc thống nhất (năm 1975), tình hình dân số, dân cƣ của ngƣời Hoa vẫn tiếp
tục phát triển. Theo thống kê năm 1989, số lƣợng ngƣời Hoa của tỉnh Sông Bé là 32.512
ngƣời. Đến năm 1999, số ngƣời Hoa riêng ở Bình Dƣơng là 14.455 ngƣời (Bình Phƣớc là
7.947 ngƣời)84. Theo số liệu công bố chính thức từ cuộc điều tra dân số cuối năm 2009, tổng
dân số Bình Dƣơng là 14.81.550 ngƣời, trong đó ngƣời Hoa là 18.783 ngƣời, chiếm tỷ lệ
1,268% tổng dân số của tỉnh85. Quá trình đô thị hóa của tỉnh, nhất là sự phát triển của Thành
phố Thủ Dầu Một và đề án xây dựng Thành phố mới Bình Dƣơng, đã tác động khá nhiều đến
cộng đồng ngƣời Hoa nói chung. Cùng với quá trình đô thị hóa, các trung tâm làm gốm của
ngƣời Hoa tại Bình Dƣơng đã bị thu hẹp phạm vi hoạt động. Hiện nay một số lò gốm tại khu
Lò Chén, Thủ Dầu Một đã ngƣng hoạt động do nhu cầu quy hoạch lại vùng sản suất gốm theo
chủ trƣơng của UBND tỉnh Bình Dƣơng. Duy chỉ có lò lu Đại Hƣng - lò gốm lu có bề dày lịch
sử lâu đời nhất và đã đƣợc Nhà nƣớc công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh, hiện nay vẫn còn
hoạt động tại Thủ Dầu Một.
3. Đặc điểm tƣơng trợ lẫn nhau của cộng đồng ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng
Khi đến định cƣ tại Bình Dƣơng, ngƣời Hoa đã xây dựng các thiết chế kinh tế, văn hóa, xã
hội của cộng đồng nhằm cố kết cộng đồng, thỏa mãn nhu cầu tín ngƣỡng, ổn định, phát triển
cuộc sống, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp, đồng thời hòa nhập với cộng đồng cƣ
dân bản địa.
Tƣơng trợ của ngƣời Hoa Bình Dƣơng trong các hoạt động kinh tế
Hoạt động kinh tế của ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng nói chung bao gồm các nghề buôn bán,
kinh doanh, sản xuất, dịch vụ và số ít làm nông nghiệp. Tại các đô thị, ngƣời Hoa chủ yếu hoạt
động thƣơng mại và sản xuất tiểu thủ công truyền thống, trong đó nổi tiếng là nghề làm gốm
sứ.
Vào khoảng giữa thế XIX, khi những lƣu dân ngƣời Hoa từ miền duyên hải Trung Hoa
sang Việt Nam định cƣ, sinh sống, nghề làm gốm cũng xuất hiện tại Bình Dƣơng. Hiện nay, ở
Tân Phƣớc Khánh (Tân Uyên), Lái Thiêu (Thuận An), Chánh Nghĩa (Thủ Dầu Một) còn hàng
trăm cơ sở sản xuất gốm với đa số chủ nhân là ngƣời Việt gốc Hoa. Trƣớc đây, Bình Dƣơng
có ba trƣờng phái gốm sứ: trƣờng phái Quảng (đa số chủ lò gốc ở Quảng Đông), trƣờng phái
Triều Châu (chủ lò gốc Triều Châu đa số là ngƣời Hẹ) và trƣờng phái Phúc Kiến (chủ nhân có
gốc Phúc Kiến). Tuy nhiên, ngày nay, các trƣờng phái gốm sứ có sự pha trộn, xâm nhập lẫn

nhau do có sự phát triển về công nghệ, yêu cầu thị trƣờng. Các chủ cơ sở sản xuất nếu muốn
tồn tại và phát triển, họ đã liên tục cải tiến mẫu mã, đổi mới công nghệ để sản phẩm cạnh
tranh, gắn với những mặt hàng nổi tiếng của Nhật Bản, Châu Âu là thƣơng hiệu gốm sứ Minh
Long, Cƣờng Phát, Nam Việt… Ngoài ra, ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng còn có các nghề làm
thuốc bắc, làm bánh mì, điêu khắc đá, vẽ tranh trên kiếng, làm mì sợi, làm chao, chế biến cà
phê, sản xuất xà bông, nghề nhộm...86.
84

Bấy giờ tỉnh Sông Bé đã đƣợc tách thành tỉnh Bình Dƣơng và tỉnh Bình Phƣớc.
Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ƣơng, 2010, Sđd, tr. 207.
86
Xem thêm Huỳnh Ngọc Đáng, 2012, Sđd, tr. 126-146, 177.
85

137


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

Lĩnh vực thƣơng mại và dịch vụ của ngƣời Hoa Bình Dƣơng cũng rất phát triển và thu đƣợc
nhiều thành tựu nhất định, đóng góp to lớn cho kinh tế thị trƣờng của Bình Dƣơng qua các giai
đoạn lịch sử. Về kinh doanh buôn bán, ngƣời Hoa gần nhƣ kinh doanh hầu hết các mặt hàng
và dịch vụ thiết yếu đời sống, từ mua bán ve chai đến gạo, nƣớc, ăn uống, thuốc chữa bệnh,
vàng, bạc, đá quý, dịch vụ, du lịch, nhà hàng, khách sạn… trong kinh tế. Tinh thần tƣơng trợ
lẫn nhau là sợi dây liên kết giữa ngƣời Hoa với nhau, nhất là trong kinh doanh, buôn bán. Điều
này đã tạo cơ hội để họ ổn định và làm ăn sinh sống trên vùng đất mới. Đây còn là một trong
những nguyên nhân đem đến thành công cho ngƣời Hoa Bình Dƣơng trong lĩnh vực thƣơng
mại dịch vụ. Trong kinh doanh, chữ tín đƣợc ngƣời Hoa đặt lên hàng đầu. Từ đó làm cơ sở để
cộng đồng ngƣời Hoa cùng trao đổi, giúp đỡ lẫn nhau về vốn, kinh nghiệm, thị trƣờng để cùng
trao đổi, vay mƣợn, ký kết giao kèo về hàng hóa, tín dụng… Điều này càng quan trọng hơn

đối với những ngƣời mới bƣớc chân vào lĩnh vực kinh doanh. Chữ tín còn quyết định một
hình thức tín dụng độc đáo, không thông qua thủ tục hành chính. Theo đó, hình thức tín dụng
này của ngƣời Hoa Bình Dƣơng chủ yếu dựa vào quan hệ trực diện, hành vi cƣ xử và độ tín
nhiệm của cả cộng đồng. Dựa trên sự tƣơng trợ độc đáo này đã giúp cho nhiều gia đình, cửa
hàng, xí nghiệp, công ty của ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng ra đời, hoạt động liên tục và thành công
trong suốt chiều dài lịch sử từ quá khứ đến cả hiện tại. Thời kỳ trƣớc năm 1975, hoạt động
kinh tế của ngƣời Hoa vốn bao trùm cả miền nam Việt Nam.
Các tổ chức xã hội của ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng
Với đặc tính nghề nghiệp chủ yếu là hoặt động kinh tế thƣơng mại, dịch vụ, sản xuất là
chính nên ngƣời Hoa Bình Dƣơng rất chú trọng đến sự đoàn kết, tƣơng trợ giúp đỡ lẫn nhau
trong cộng đồng.
Những di dân Hoa đến Bình Dƣơng chủ yếu có nguồn gốc từ các địa phƣơng ven biển phía
Đông Nam Trung Hoa với 4 nhóm phƣơng ngữ: Phƣớc Kiến, Quảng Đông, Triều Châu và
Khách Gia (Hẹ/Kaka, Sùng Chính). Khi đến định cƣ, sinh sống tại vùng đất mới này, cộng
đồng ngƣời Hoa Bình Dƣơng cũng đƣợc tổ chức thành các bang. Mỗi bang đều có bang
trƣởng đứng đầu để quản lý và điều hành các công việc chung. Sau năm 1975, để phù hợp với
tình hình chung, các bang đã đƣợc giải thể, thay bằng các Hội tƣơng tế. Thời Pháp thuộc, cả
bốn nhóm cộng đồng ngƣời Hoa ở Thủ Dầu Một đều đã có bang riêng của mình: bang Phúc
Kiến, Triều Châu, Khách Gia và Quảng Đông. Hiện nay, tại thị xã Thủ Dầu Một có 4 hội
tƣơng tế, gồm: hội tƣơng tế Quảng Đông; hội tƣơng tế Phúc Kiến; hội tƣơng tế Triều Châu và
hội tƣơng tế Sùng Chính (Hẹ).
Nhằm mục đích bảo tồn các giá trị văn hóa cổ truyền và liên kết các thành viên trong cộng
đồng, trong quá trình hoạt động, các bang đã xây dựng các cơ sở cộng đồng nhƣ trƣờng học,
nghĩa trũng (hay nghĩa địa)… riêng của từng bang. Một số trƣờng học tiêu biểu nhƣ: ở Thủ
Dầu Một có các trƣờng Trung Dung, trƣờng Nghĩa An, trƣờng Quảng Triệu (sau đổi thành
trƣờng Việt Trí). Ngày nay, một số trƣờng vẫn còn hoạt động và đƣợc chuyển thành các
trƣờng mẫu giáo, tiểu học… Các nghĩa địa nhƣ: nghĩa đại Triều Châu (thành lập năm 1929),
nghĩa địa Phúc Kiến (thành lập năm 1966), nghĩa địa Quảng Đông…
138



HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

Hiện nay, ngƣời Hoa Bình Dƣơng cũng quần cƣ theo từng nhóm cộng đồng. Họ tập trung
nhiều nhất ở Thủ Dầu Một với các nhóm ngƣời Hoa: Quảng Đông, Phƣớc Kiến, Triều Châu,
Hẹ. Kế đến là ở thị xã Thuận An với nhóm cộng đồng ngƣời Hoa Lái Thiêu và nhóm cộng
đồng ngƣời Hoa Búng-An Thạnh. Ngoài ra, còn có nhóm cộng đồng ngƣời Hoa Tân Phƣớc
Khánh ở thị xã Tân Uyên và nhóm cộng đồng ngƣời Hoa Dầu Tiếng ở huyện Dầu Tiếng.
Bên cạnh việc tham gia các tổ chức xã hội của cƣ dân địa phƣơng, ngƣời Hoa Bình Dƣơng
còn thành lập các tổ chức xã hội riêng của cộng đồng, tiêu biểu là các tổ chức xã hội, nghề
nghiệp hay còn gọi là các hội đoàn xã hội nghề nghiệp nhƣ: hội gia tộc, hội kinh tế, hội ngƣời
cao tuổi, hội đoàn văn hoá thể thao… Các tổ chức này đƣợc thành lập tự nguyện nhằm tƣơng
trợ trong phát triển kinh tế và gìn giữ truyền thống văn hóa cộng đồng.
Các cơ sở sinh hoạt cộng đồng của ngƣời Hoa Bình Dƣơng
Khi đến định cƣ tại Bình Dƣơng, ngoài việc ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, ngƣời
Hoa cũng có nhu cầu tập hợp, quy tụ lại trong một số cơ sở sinh hoạt cộng đồng với mục đích
giúp đỡ, bảo vệ nhau trong buổi đầu đến vùng đất mới sinh cơ, lập nghiệp. Họ đã xây dựng
các thiết chế kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu tín ngƣỡng, ổn định và phát triển
cuộc sống, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp, đồng thời hòa nhập với cộng đồng cƣ
dân bản địa. Một trong những thiết chế văn hóa tâm linh và đồng thời cũng là tổ chức xã hội
quan trọng của ngƣời Hoa trên đất Bình Dƣơng là các miếu, hội quán.
Cũng giống nhƣ ngƣời Việt, sau khi khai phá vùng đất mới, lập ấp, lập làng ổn định cuộc
sống đã xây Đình làng để thờ Thành Hoàng và các bậc tiền bối, tổ tiên, ngƣời Hoa cũng chú
trọng đến đời sống tâm linh và bảo lƣu đƣợc truyền thống tín ngƣỡng riêng của mình và giúp
đỡ, tƣơng trợ nhau trong những lúc gặp khó khăn, hoạn nạn. Các miếu Hoa đƣợc xây dựng
vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIX. Lúc đầu ngôi miếu thƣờng có quy mô nhỏ, có thể chỉ là một
ngôi nhà nhỏ đƣợc làm bằng vật liệu thô sơ. Về sau, đƣợc xây dựng lại kiên cố hơn theo kiểu
đền miếu truyền thống của ngƣời Hoa. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng có tổng cộng
18 miếu Hoa. Các miếu tập trung ở thành phố Thủ Dầu Một: 7 miếu; thị xã Thuận An: 6 miếu;
thị xã Tân Uyên: 4 miếu và huyện Dầu Tiếng: 01 miếu. Các miếu Hoa tiêu biểu ở Thủ Dầu

Một gồm: miếu Thiên Hậu - chùa Bà Chánh Nghĩa: tổ 67, khu phố 8, phƣờng Chánh Nghĩa;
miếu Thiên Hậu - chùa Bà Bƣng Cầu: sau chợ Bƣng Cầu, trên đƣờng Bùi Thị Thu, phƣờng
Hiệp An; miếu Thiên Hậu - chùa Bà Phú Cƣờng: số 04, đƣờng Nguyễn Du, phƣờng Phú
Cƣờng.
“Hội quán”, “會 館”, tiếng Anh là “Assembly hall”. Hội quán của ngƣời Hoa là sản phẩm
của sinh hoạt cộng đồng trên cơ sở những ngƣời cùng quê và mang đậm truyền thống của
thƣơng nhân Trung Hoa. Đây là nơi hội họp của ngƣời trong bang, nơi để cộng đồng ngƣời
Hoa tha hƣơng gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm làm ăn, gởi gắm tình cảm. Đây còn là nơi bang
trƣởng làm việc, chủ trì giải quyết các công việc nội bộ, nơi lƣu giữ các giấy tờ lƣu trữ và
những tài sản công của bang87. Đồng thời, hội quán còn là nơi thờ Thiên Hậu và nhiều vị thần
87

Huỳnh Ngọc Đáng (2005), Chính sách đối với người Hoa của chính quyền Đàng Trong và Đàng Ngoài, Luận án Tiến sĩ
lịch sử, Trƣờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr.145.

139


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

linh theo tín ngƣỡng dân gian của dân tộc Hoa, là nơi sinh hoạt tế lễ hàng năm của các cộng
đồng dân cƣ. Với tính cách là trung tâm của một nhóm phƣơng ngữ, hội quán cũng lo việc ma
chay, chăm lo trƣờng học, bệnh viện, nghĩa trang của cộng đồng và giải quyết các tranh chấp
nội bộ, tranh chấp giữa hội quán và cộng đồng ngƣời Hoa. Hội quán thƣờng đƣợc đặt trong
chùa có sẵn88. Các hội quán ở Bình Dƣơng cũng có đầy đủ các chức năng này, ngày nay từng
bang vẫn còn trƣờng học, nghĩa trang. Địa bàn thành phố Thủ Dầu Một tập trung đông nhất
ngƣời Hoa với 04 hội quán là: hội quán Quảng Đông, hội quán Triều Châu, hội quán Sùng
Chính (Hẹ) và hội quán Phƣớc Kiến.
Các miếu, hội quán thực sự là một trung tâm sinh hoạt tín ngƣỡng, văn hóa của cộng đồng
ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng. Đây là điểm tựa tinh thần, nơi hội họp sinh hoạt đồng hƣơng, đồng

thời cũng là nơi vui chơi giải trí... Vào các dịp lễ hội, Ban quản trị di tích còn tổ chức đấu giá
đèn lồng nhằm gây quỹ công ích cho cộng đồng và làm từ thiện xã hội hay vận động mạnh
thƣờng quân đóng góp tiền của để gây quỹ, tổ chức các hoạt động lễ hội trong năm, tu bổ sơn
sửa lại di tích, làm cầu sửa đƣờng, cứu trợ thiên tai, lũ lụt, quyên góp giúp ngƣời nghèo (phát
gạo ngƣời nghèo, khám chữa bệnh cho ngƣời nghèo, cấp thuốc miễn phí, xây nhà tình
thƣơng…), giúp đỡ các cơ sở từ thiện, trẻ mồ côi trong thành phố, trao học bổng cho các em
học sinh…
Bên cạnh đó, hệ thống các cơ sở cộng đồng khác nhƣ: các trƣờng học, nghĩa trũng, chợ…
cũng là các cơ sở cộng đồng do ngƣời Hoa lập ra khi đến định cƣ tại Bình Dƣơng. Rất nhiều
các di tích còn tồn tại cho đến này nay nhƣ là minh chứng hùng hồn về tinh thần đoàn kết,
tƣơng thân tƣơng ái bền vững của ngƣời Hoa Bình Dƣơng.
Đặc điểm tƣơng trợ lẫn nhau của ngƣời Hoa Bình Dƣơng thể hiện qua các sinh hoạt
văn hóa truyền thống của cộng đồng
Trong các nếp văn hóa ăn, mặc, ở, quan hệ hôn nhân, sinh đẻ, tang ma… của ngƣời Hoa
Bình Dƣơng thể hiện sự tƣơng trợ cộng đồng rất cao. Cộng đồng ngƣời Hoa có những thói
quen, tập quán ẩm thực riêng. Ngoài cơ cấu bữa ăn hàng ngày giống ngƣời Việt, vào những
dịp lễ tết, các gia đình ngƣời Hoa thƣờng quây quần bên nhau, chế biến các món ăn đặc trƣng
mang nguồn gốc Trung Hoa nhƣ: món vịt quay, xá xíu, heo quay, bánh bao, há cảo, hủ tíu, cải
chua, cải mặn, đậu hủ, tƣơng, chao… Ẩm thực của cộng đồng ngƣời Hoa đã góp phần đa
dạng nền văn hóa ẩm thực Bình Dƣơng.
Ngƣời Hoa trong lịch sử đã sử dụng các trang phục truyền thống gắn với quê hƣơng Trung
Hoa của họ. Ngày nay, cách ăn mặc của ngƣời Hoa có phần giống ngƣời Việt, tuy nhiên họ
vẫn thích sử dụng loại áo nhiều lớp và hoa văn sặc sỡ. Trong các công trình kiến trúc cổ,
ngƣời Hoa đặc biệt chú trọng đến thuật phong thủy. Ngƣời Hoa sống ở Bình Dƣơng có hình
thức cƣới hỏi riêng theo kiểu Trung Hoa (kiểu Tàu) và mang tính cộng đồng rất cao. Trƣớc
đây, các gia đình ngƣời Hoa có quy định nghiêm ngặt, họ chỉ cho con trai lấy vợ Việt nhƣng
không cho con gái lấy chồng Việt, trừ một số trƣờng hợp rất đặc biệt. Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ
88

Litina - Nguyễn Cẩm Thuý (Chủ biên) (1999), Bia chữ Hán trong hội quán người Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh, Nxb.

Khoa học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.10,11.

140


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

XX đến nay, quy định này đã ít ngặt nghèo hơn trƣớc. Ngƣời Hoa theo Chu công Lục lễ trong
cƣới hỏi. Trong sinh đẻ, ngƣời Hoa có những tập tục, lễ nghi riêng. Đặc biệt họ đề cao vai trò
của ba Bà Chúa Sanh thai và 12 bà Mụ. Nghi lễ tang ma trong các gia đình ngƣời Hoa đƣợc
tiến hành theo Văn công gia lễ và Thọ mai gia lễ.
Bên cạnh tín ngƣỡng thờ cúng trong các gia đình, ngƣời Hoa rất chú trọng thờ cúng cộng
đồng. Trong phạm vi cộng đồng, ngƣời Hoa tại Bình Dƣơng có đối tƣợng thờ cúng khá phong
phú, đa đạng gồm nhiều đối tƣợng. Thiên Hậu Thánh Mẫu đƣợc chọn làm đối tƣợng thờ cúng
chính, kế đến là Quan Thánh Đế Quân, Ông Bổn. Ngoài ra, còn có: Phật Bà Quan Âm, Mẹ
Sanh Nƣơng Nƣơng, Thái Bạch Tinh Quân, Phƣớc Đức Chánh Thần, Tài Bạch Tinh Quân,
Thần Tài, Thổ Chủ Thần Công Công, Cửu Thiên Huyền Nữ… và nhiều vị thần khác.
Cùng với những lễ tết của gia đình, dòng họ, ngƣời Hoa còn có quan hệ đặc biệt lẫn nhau
qua hoạt động lễ tết, lễ hội của cộng đồng.
Một số lễ tết quan trọng của cộng đồng nhƣ: Tết Nguyên đán: Đây là lễ tết long trọng nhất
trong năm của ngƣời Hoa, thƣờng tính từ ngày 23 tháng chạp (23-12 âm lịch) kéo dài cho đến
rằm tháng giêng. Vào dịp này, ngƣời Hoa tổ chức cúng Ông Táo: vào 23 tháng chạp (23-12
âm lịch), cúng ông bà tổ tiên vào ngày cuối năm (thƣờng là ngày 28 âm lịch, 29 âm lịch hay
số ít ngày 30 âm lịch), cúng giao thừa vào thời khắc giao nhau giữa năm cũ và năm mới (0 giờ
đêm cuối năm). Đặc biệt, sau khi cúng giao thừa, ngƣời Hoa thƣờng rủ nhau đến các cơ sở tín
ngƣỡng của cộng đồng mà phổ biến nhất là chùa Bà Thiên Hậu để lễ bái, nhằm cầu cho năm
mới bình an, thuận lợi. Ngoài ra, ngƣời Hoa Bình Dƣơng còn có nhiều lễ của cộng đồng nhƣ:
Tết Thanh minh: khoảng giữa tháng 3 âm lịch hằng năm. Đây là lễ tết lớn thứ hai của ngƣời
Hoa sau Tết Nguyên đán. Dịp này, ngƣời Hoa Bình Dƣơng thƣờng tụ tập gia đình cùng nhau
đi tảo mộ. Sau đó, họ quây quần lại cùng nhau trò chuyện, ăn uống; Tết Nguyên tiêu: vào

ngày 15-1 âm lịch còn gọi là rằm tháng giêng. Với cộng đồng ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng, ngày
Tết Nguyên tiêu là ngày lễ hội Bà Thiên hậu du xuân, hầu hết ngƣời Hoa đều tập trung vui
hội. Họ đi lễ chùa, miếu. Họ tập trung ra đƣờng để xem đám rƣớc kiệu Bà; Tết Trung thu (rằm
tháng 8 âm lịch). Dịp trăng tròn nhất, sáng nhất trong năm (trăng rằm tháng 8) thể hiện sự đầy
đặn, viên mãn, nên ngƣời Hoa đã tổ chức đoàn viên gia đình, cùng nhau ngắm trăng, ăn bánh
và uống trà; Tết Đoan ngọ (ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch); Tết đông chí (khoảng giữa tháng
12 âm lịch). Một số dịp lễ tết lớn, ngƣời Hoa gặp gỡ đồng hƣơng. Ngoài việc cúng tại nhà,
ngƣời Hoa còn tổ chức cúng tại từ đƣờng, miếu, hội quán, nghĩa trang...
Tại các cơ sở tín ngƣỡng của cộng đồng của ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng có nhiều hoạt động
lễ hội thu hút rất đông ngƣời Hoa và Việt ở trong tỉnh và các khu vực lân cân tham dự. Đây là
hoạt văn hóa tín ngƣỡng vừa thỏa mãn về mặt tâm linh, vừa tạo một nguồn quỹ tƣơng trợ xã
hội, đồng thời tạo nên sự gắn kết chặt chẽ giữa các cộng đồng dân tộc với nhau. Trong số đó,
Lễ hội chùa Bà (còn gọi là “Hội vía Bà”, “Lễ vía Bà”) là hoạt động lễ hội lớn nhất, đƣợc tổ
chức vào ngày rằm tháng giêng âm lịch hàng năm tại các miếu thờ Thiên Hậu. Lễ hội chùa Bà
tại Thiên Hậu cung- chùa Bà Phú Cƣờng, Thủ Dầu Một có quy mô lớn nhất. Lễ hội Bà Thiên
Hậu mang màu sắc tín ngƣỡng dân gian của dân tộc Hoa ở Bình Dƣơng, nhƣng trên thực tế
141


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

không chỉ thu hút cƣ dân Bình Dƣơng mà còn cả cƣ dân của các tỉnh thành phía Nam, không
chỉ ngƣời Hoa mà cả ngƣời Việt cũng hòa nhập tham dự. Bên cạnh đó, còn có các lễ hội khác
nhƣ: Lễ hội 16 tháng giêng ở Phƣớc An miếu đƣợc tổ chức hàng năm, Lễ hội 12 tháng 8 ở
Phƣớc An miếu: ba năm tổ chức một lần, Lễ hội Huyền Thiên Thƣợng Đế: đƣợc tổ chức ở
những miếu thờ Huyền thiên Thƣợng Đế thay phiên nhau mỗi năm một lần, Lễ hội “Bích liên
đình” của dòng Phƣớc kiến tại miếu Ông Bổn - Phƣớc An Miếu…
4. Nhận định chung
Trong quá trình lịch sử, cộng đồng ngƣời Hoa đã đóng vai trò đáng kể cho sự phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng đất Bình Dƣơng nói chung. Cùng với ngƣời Việt, họ đã

chung vai góp sức xây dựng tỉnh Bình Dƣơng phát triển nhƣ ngày nay. Từ quan niệm là nơi
“đất khách quê ngƣời” của các thế hệ ngƣời Hoa thuở ban đầu đến đây khai cơ lập nghiệp,
Bình Dƣơng hôm nay đã là quê hƣơng thứ hai của đại đa số ngƣời Hoa.
Lối sống quần cƣ và tƣơng trợ lẫn nhau của cộng đồng ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng đã góp
phần tạo nên các thiết chế kinh tế, văn hóa, xã hội trên vùng đất mới làm phong phú cho bức
tranh kinh tế, xã hội, văn hóa địa phƣơng. Đó là những khu lò gốm: lò Tiều, lò Quảng, lò
Phƣớc Kiến hoặc lò bầu, lò ống, lò chén, lò lu... ở Phú Cƣờng, Lái Thiêu, An Thạnh, Tân
Khánh. Những khu phố Hoa với những cửa hàng, gian hàng, dãy tiệm thuốc bắc, tiệm nƣớc,
tiệm mỳ, hủ tiếu, bánh bao, xíu mại, lò chao... Các trƣờng học dạy văn hóa và chữ Hán cho
con em ngƣời Hoa nhƣ Bình Dân, Tân Dân, Trung Dung, Nghĩa Phƣơng, Việt Trí… Các
khu nghĩa trang yên nghỉ của ngƣời Hoa… Những kiến trúc đặc sắc nhƣ các nhà cổ, chùa
miếu… Nhìn từ góc độ kinh tế và văn hóa, lối sống quần cƣ và tƣơng trợ, đoàn kết lẫn nhau
đã giúp ngƣời Hoa “đồng cam cộng khổ”, vƣợt qua bao khó khăn và những thăng trầm của
lịch sử, sớm hòa nhập vào khối cộng đồng bản địa, cùng nhau xây dựng Bình Dƣơng nhƣ
hôm nay.
Các nếp văn hóa ăn, mặc, ở, quan hệ hôn nhân, sinh đẻ, tang ma; tín ngƣỡng thờ cúng
trong các gia đình, cộng đồng; các lễ tết của gia đình, dòng họ và lễ hội của cộng đồng của
ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng chính là những di sản văn hóa đặc sắc, làm phong phú, đa dạng
cho nền văn hóa bản địa. Các làng nghề thủ công truyền thống không chỉ làm ra của cải,
đóng góp vào giá trị sự tăng trƣởng kinh tế mà còn là sự thể hiện nét văn hóa, lịch sử truyền
thống của Bình Dƣơng. Các miếu, hội quán ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng là nơi sinh hoạt tín
ngƣỡng văn hóa và còn là nơi có những hoạt động xã hội giúp đỡ cộng đồng, hỗ trợ sự
nghiệp giáo dục, từ thiện. Phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần “Tƣơng thân tƣơng ái”,
bốn bang ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng luôn tích cực tham gia các hoạt động an sinh xã hội.
Ngày nay, các hội quán còn có vai quan trọng trong tham gia hoạt động kinh tế, từ thiện xã
hội. Trƣớc nhất, thể hiện ở sự kết nối giữa các tín đồ đến cúng viếng với chức năng phúc lợi
xã hội, dùng tiền hiến cúng để giúp đỡ, hỗ trợ cho những ngƣời khốn khổ, kém may mắn
hơn trong xã hội. Bên cạnh đó, rất nhiều hoạt động xã hội khác từ các miếu, hội quán của
ngƣời Hoa không chỉ giúp đỡ về vật chất, động viên tinh thần cho các đối tƣợng chính sách,
đối tƣợng khó khăn, mà còn góp phần trong giáo dục, làm gƣơng cho con cháu ngƣời Hoa

142


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

nói riêng, ngƣời dân nói chung. Ngoài ra, còn nhằm tăng cƣờng những hoạt động kinh tế đa
dạng của ngƣời Hoa, góp vào sự phát triển chung của tỉnh; tạo điều kiện hội nhập giữa các
nhóm Hoa với nhau, giữa ngƣời Hoa với ngƣời Việt và các cộng đồng dân tộc khác.
Trong xu thế chung của sự phát triển và hội nhập ở thành phố Bình Dƣơng, các giá trị
truyền thống của ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng đã trở thành nguồn tài nguyên quý báu. Các khu
phố ngƣời Hoa ngày nay là nơi sinh sống, buôn bán nhộn nhịp của cộng đồng ngƣời Hoa và
cả ngƣời Việt. Các di tích kiến trúc cổ của ngƣời Hoa tuy đã trải qua bao thăng trầm lịch sử,
nhiều lần trùng tu lớn nhƣng vẫn giữ đƣợc nét cổ kính. Ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng đã và đang
sinh sống trong một môi trƣờng đoàn kết, bình đẳng, hòa hợp, ổn định và phát triển. Hiện
tại, cộng đồng ngƣời Hoa đang ngày càng gắn bó, hòa hợp và trở thành một bộ phận không
thể tách rời trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Thời gian qua, Đảng, Nhà nƣớc và các
Ban ngành luôn quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng ngƣời Hoa phát triển toàn
diện trên mọi lĩnh vực nhƣ: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và các hoạt động xã hội, tín
ngƣỡng tâm linh.
Để phát triển toàn diện và bền vững kinh tế, văn hóa, xã hội, du lịch của Bình Dƣơng
trong thời kỳ phát triển và hội nhập nhƣ hiện nay, tỉnh Bình Dƣơng cần có chiến lƣợc cụ thể
để nghiên cứu toàn về ngƣời Hoa, đồng thời với đó là đẩy mạnh những chính sách xã hội, an
sinh xã hội, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp cho cộng đồng này. Cần gắn
kết các hoạt động văn hóa, tín ngƣỡng, kinh tế và du lịch lại với nhau dƣới sự quản lý của
Nhà nƣớc, các cấp chính quyền cũng nhƣ sự nhập cuộc của nhà nghiên cứu và sự phối hợp
của cả cộng đồng. Cần có những chính sách đa dạng, linh hoạt phù hợp với thực tế, đặc biệt
là quyền lợi của ngƣời dân.
Ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng hình thành và phát triển gắn với các đô thị, trung tâm thƣơng
mại, làng nghề truyền thống, đặc biệt là nghề gốm. Do đó, tỉnh cần quy hoạch lại làng nghề,
di dời các cơ sở sản xuất trong vùng đông dân cƣ hay ô nhiễm môi trƣờng ra một vùng khác,

xây dựng vùng chuyên sản xuất gốm sứ… Nhƣ vậy, các ngành nghề truyền thống mới có
điều kiện để bảo tồn và phát triển, gìn giữ đƣợc sắc thái riêng của Bình Dƣơng. Cần bảo lƣu
các phong tục, tập quán, tín ngƣỡng tốt đẹp, các nếp văn hóa ăn, mặc, ở, quan hệ hôn nhân,
sinh đẻ, tang ma; tín ngƣỡng thờ cúng, lễ tết trong các gia đình, cộng đồng. Đối với những
công trình kiến trúc cổ, cần đầu tƣ kinh phí để tu bổ, cứu nguy khẩn cấp cho các di tích đang
xuống cấp nghiêm trọng. Cần quản lý chung mọi sinh hoạt của di tích, tôn trọng nét đẹp tín
ngƣỡng tâm linh, xây dựng môi trƣờng văn hóa lành mạnh. Lễ hội ở Bình Dƣơng, đặc biệt là
Lễ Bà Thiên Hậu tại miếu Thiên Hậu, Phú Cƣờng, Thủ Dầu Một trở thành lễ hội lớn thu hút
đông đảo nhân dân trong vùng và các khu vực lân cận nhƣ: Bình Dƣơng, Tây Ninh, Bình
Phƣớc, Đồng Nai... Bên cạnh nét đẹp văn hóa tâm linh của cộng đồng, lễ hội cũng còn một
số tồn đọng trong lòng công chúng. Do đó, cần nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành
đặc biệt là ngành văn hóa, thể thao và du lịch và nhận thức của nhân dân trong công tác
quản lý và tổ chức lễ hội.

143


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”

Thay lời kết
Trong tiến trình định cƣ của ngƣời Hoa tại Nam Bộ, vùng đất Bình Dƣơng có vai trò rất
quan trọng. Dù đã trải qua bao biến cố lịch sử, lúc thăng, lúc trầm nhƣng qua quá trình tụ cƣ
và sinh sống lâu dài tại Bình Dƣơng đã khẳng định những đóng góp vô cùng quan trọng của
cộng đồng ngƣời Hoa cho công cuộc khai phá, xây dựng và hƣng thịnh của vùng đất này. Lối
sống quần cƣ và tƣơng trợ lẫn nhau của cộng đồng ngƣời Hoa ở Bình Dƣơng một mặt chính là
sợi dây liên kết cộng đồng, tạo cơ hội để ngƣời Hoa ổn định và làm ăn sinh sống trên vùng đất
mới, mặt khác ghi dấu quá trình định cƣ, phát triển và vai trò của cộng ngƣời Hoa tại vùng đất
Bình Dƣơng, đặc biệt là tiến trình hình thành và phát triển các đô thị. Qua đó còn cho thấy
những ngƣời Hoa tha hƣơng đã dần hội nhập vào đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Thành
phố Bình Dƣơng hiện là một trung tâm kinh tế lớn của vùng Đông Nam Bộ. Cộng đồng ngƣời

Hoa ở Bình Dƣơng chiếm số lƣợng lớn. Trong hội nhập và phát triển thành phố hiện nay, vai
trò của cộng đồng ngƣời Hoa nói chung cùng những di sản của họ cần đƣợc nghiên cứu, bảo
tồn và phát huy để cộng đồng này tiếp tục đóng góp cho sự nghiệp phát triển bền vững của
tỉnh Bình Dƣơng và cả vùng đất phƣơng Nam hôm nay và cả mai sau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ƣơng. (2010). Tổng điều tra dân số và
nhà ở Việt Nam năm 2009. Nxb Thống kê.
2. Công ty Nghiên cứu Đông Dƣơng – Lê Thành Tƣờng; Lê Tùng Hiếu - Nguyễn Văn
Phúc (Biên dịch). (2015). Địa chí tỉnh Thủ Dầu Một và tỉnh Bà Rịa. Nxb. Đồng Nai.
3. Đào Duy Anh; Phạm Trọng Điềm; Quốc sử quán triều Nguyễn; Viện Sử học (Việt
Nam). (1992). Đại Nam nhất thống chí, tập 5. Nxb. Thuận Hóa.
4. Huỳnh Ngọc Đáng, 2005, Chính sách đối với ngƣời Hoa của chính quyền Đàng Trong
và Đàng Ngoài, Luận án Tiến sĩ, Trƣờng ĐHKHXH&NV – ĐHQG. HCM.
5. Huỳnh Ngọc Đáng. (2012). Người Hoa ở Bình Dương. Nxb Chính trị Quốc Gia-Sự thật.
6. Litana - Nguyễn Cẩm Thuý (Chủ biên). (1999). Bia chữ Hán trong hội quán người Hoa
tại thành phố Hồ Chí Minh. Nxb. Khoa học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh,
7. Nguyễn Cẩm Thúy (chủ biên). (2000). Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ. Nxb.
Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Đình Đầu. (1994). Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam kỳ Lục tỉnh. Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh.
9. Trần Bạch Đằng (Chủ biên). (1991). Địa chí tỉnh Sông Bé. Nxb. Tổng hợp Sông Bé.
10. Trần Hồi Sinh. (1996). Người Hoa trong nền kinh tế thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Luận án Tiến sĩ, Đại học kinh tế T.P. Hồ Chí Minh
11. Trịnh Hoài Đức. (1998). Gia Định Thành Thông Chí (Bản dịch của Trung tâm Khoa
học Xã hội và Nhân văn Quốc gia – Viện Sử học). Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.
144


HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”


12. Trung tâm hành chính Thành phố mới Bình Dƣơng. (2015). Chùa Bà Thiên Hậu Thánh
Mẫu Thành Phố Mới Bình Dương. Truy cập ngày 10/10/2015, từ
(10/10/2015).
13. Sở VHTTDL tỉnh Bình Dƣơng. (2015). Danh sách các di tích và danh thắng tỉnh Bình
Dương. Truy cập ngày 12/04/2015 từ
/>
145



×