Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tiểu luận môn Lịch sử các học thuyết kinh tế nâng cao: Những thành tựu nghiên cứu trước C. Mác về quy luật điều tiết thu nhập - Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.18 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Nghiên cứu về lịch sử các học thuyết kinh tế luôn là một trong những công 
việc đầu tiên đối với những ai muốn tìm hiểu về  kinh tế  học. Cũng như  vậy,  
“Lịch sử các học thuyết kinh tế nâng cao” là môn học chuyên ngành đầu tiên của  
các học viên cao học Kinh tế  chính trị  K25 chúng tôi, sau khi học xong 2 môn  
chung là Triết học Mác – Lênin và Ngoại ngữ. Đây là một môn khoa học xã hội  
nghiên cứu hệ thống các quan điểm về kinh tế của các giai cấp, các trường phái 
trong các hình thái kinh tế ­ xã hội trong lịch sử. 
Như các môn học khác, sau khi học xong môn học, chúng tôi sẽ có một bài  
tiểu luận môn học, với môn học này, đề tài tiểu luận của tôi là:  “Những thành  
tựu nghiên cứu trước C. Mác về quy luật điều tiết thu nhập. Ý nghĩa lý luận  
và thực tiễn”.
Với đề tài tiểu luận này, tôi tìm hiểu với cấu trúc mục lục như sau:
MỤC LỤC

PHẦN NỘI DUNG
KHÁI NIỆM ĐIỀU TIẾT THU NHẬP VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI, ĐẶC 
ĐIỂM CỦA CÁC HỌC THUYẾT TRƯỚC CÁC MÁC:
I.

1.

Khái niệm “điều tiết thu nhập”:

Ngày nay, chúng ta có thể  hiểu “điều tiết thu nhập” là một bộ  phận của  
hệ thống thuế, thuế thu nhập cá nhân cũng có tác dụng điều tiết vĩ mô đối với  


nền kinh tế. Thuế thu nhập cá nhân điều tiết trực tiếp thu nhập nên một mặt tác 
động trực tiếp đến tiết kiệm, mặt khác làm cho khả năng thanh toán của cá nhân  
bị giảm, làm cho cầu hàng hóa, dịch vụ giảm và sẽ  tác động đến sản xuất. Đối 


với nước ta, trong tương lai, khi mà diện đánh thuế  được mở  rộng, vai trò điều 
tiết thu nhập của thuế thu nhập cá nhân sẽ được phát huy có hiệu quả hơn. 
Ta có thể  hiểu khái niệm “điều tiết thu nhập” như  sau: “Điều tiết thu  
nhập là một dạng phân phối lại, khi quá trình phân phối không mang lại lợi ích 
cho đời sống của nhân dân thì việc điều tiết là điều đương nhiên. Điều tiết giúp 
cho quá trình phân phối được hoàn thiện hơn, tuy nhiên, các vấn đề trong xã hội  
luôn biến động không ngừng, chính vì vậy, việc điều tiết lại rất quan trọng và 
cần có nhiều thời gian để  việc điều tiết được toàn dân chấp nhận, bởi khi một  
luật ra đời thì có rất nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề được đặt ra và  
cần có thời gian để  giải quyết. Vì thế  ta phải tìm hiểu về  phân phối khi đó ta  
mới biết được rằng phân phối đã làm được những gì và điều tiết mang lại  
những ích lợi gì khi mà việc phân phối không đạt hiệu quả. 
Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội là một vấn  
đề vô cùng quan trọng để tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy 
sản xuất phát triển,  ổn định tình hình kinh tế  ­ xã hội, nâng cao đời sống nhân  
dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
Ở góc độ vấn đề tiểu luận này, chúng ta sẽ chỉ ra những thành tựu của các 
học thuyết trước C. Mác về quy luật điều tiết thu nhập. Như vậy, vấn đề  điều 
tiết thu nhập của các học thuyết trước C. Mác được thể  hiện rõ  ở  các trường 
phái: kinh tế chính trị học cổ điển, kinh tế chính trị tầm thường và kinh tế chính 
trị tiểu tư sản. Ta sẽ lần lượt tìm hiểu về các trường phái này. 
Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của các học thuyết trước C. Mác:
2.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:
2.1.1. Lịch sử ra đời:
2.

Kinh tế  chính trị  cổ  điển (hay trường phái kinh tế  học cổ  điển) là một 
trong những xu hướng tư tưởng kinh tế tiến bộ, đã để  lại dấu ấn sâu sắc trong 
lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế. Nhiều quan điểm chủ  đạo của trường 
phái này vẫn còn lưu giữ  ý nghĩa đến tận ngày nay. Xu hướng tư  tưởng của  

trường phái cổ điển bắt đầu xuất hiện từ giữa thế kỷ XVII và phát triển mạnh  
mẽ vào thế kỷ XVIII đến nửa cuối thế kỷ XIX. 
Kinh tế chính trị cổ điển ra đời trong bối cảnh:


Về kinh tế, sự phát triển của công trường thủ công, đặc biệt là ngành dệt, 
sau đó là ngành công nghiệp khai thác, sự  trỗi dậy của lực lượng doanh nghiệp  
trong lĩnh vực sản xuất, đẩy hoạt động buôn bán và cho vay xuống hàng thứ 
yếu. Khi trọng tâm của kinh tế được chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang sản xuất  
trực tiếp, thì các luận thuyết của chủ nghĩa trọng thương cũng bị mất sức thuyết  
phục. Giai cấp tư  sản ngày càng nhận thấy muốn làm giàu, phải sử  dụng lao  
động làm thuê, lao động làm thuê là nguồn gốc thật sự của sự giàu có. Từ đó, có 
nhiều vấn đề kinh tế mới nảy sinh đòi hỏi phải được giải thích. 
Về xã hội, sự thắng thế của giai cấp tư sản đối với giai cấp phong kiến, 
cách mạng tư  sản diễn ra  ở  Hà Lan,  ở  Anh rồi lan rộng ra các nước châu Âu 
khác, tạo ra tình hình mới về  kinh tế  và chính trị. Cần phải luận giải cơ  sở  ra  
đời, tồn tại và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Về  tư  tưởng, những thành tựu khoa học tiến bộ  như  triết học duy vật,  
toán học, vật lý học… có tác dụng đấu tranh phá bỏ  chế  độ  phong kiến, mở 
đường cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời, tạo điều kiện cho tư 
tưởng kinh tế  mới của giai cấp tư  sản phát triển, trong đó có tư  tưởng kinh tế 
của trường phái cổ điển. 
Kinh tế  chính trị  học cổ  điển là học thuyết kinh tế  của giai cấp tư  sản  
trong thời kỳ hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nghiên cứu về 
nguồn gốc của sự  giàu có và cách thức làm tăng của cải trong nền kinh tế  thị 
trường tư bản chủ nghĩa. 
Người đại diện đầu tiên và được xem là thủy tổ của trường phái cổ  điển  
là William Petty (1623 – 1687), người Anh với những công trình khoa học của  
ông chuyên về lĩnh vực thuế, hải quan và thống kê. Ông là người được Các Mác 
đánh giá cao qua các phát minh khoa học kinh tế. 

Những tên tuổi lớn của trường phái này gồm Adam Smith (1723 – 1790), 
David Ricardo (1772 – 1823), John Stuart Mill (1806 – 1873). Quan điểm của họ, 
giống như các nhà nghiên cứu trước đó, là khoa học về  sự  giàu có và cách thức 
nhân rộng của cải lên. 
2.1.2. Đặc điểm của kinh tế chính trị học cổ điển:
Lần đầu tiên trong lịch sử, các nhà kinh tế của trường phái cổ điển chuyển  
đối tượng nghiên cứu từ  lĩnh vực lưu thông sang sản xuất, nghiên cứu các vấn  
đề  kinh tế  của nền sản xuất tư  bản chủ  nghĩa trong giai đoạn đầu hay nghiên 
cứu những vấn đề của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn 


tự do cạnh tranh. Điểm xuất phát trong nội dung nghiên cứu của họ là phạm trù 
lao động. Nhờ đó, các nhà kinh tế của trường phái cổ điển đã biến kinh tế chính 
trị thành một môn khoa học thực sự. 
Lần đầu tiên các nhà kinh tế của trường phái cổ  điển xây dựng hệ  thống  
phạm trù, quy luật của nền kinh tế thị trường, như: giá trị, giá cả, cung, cầu, lưu  
thông, cạnh tranh, tiền công, lợi nhuận, thuế, địa tô… Trong đó, phạm trù giá trị 
được xem là mấu chốt của phân tích kinh tế, là gốc rễ  để  phát sinh các phạ  trù  
kinh tế khác; và phạm trù giá trị trao đổi là trung tâm của nghiên cứu kinh tế. 
Lần đầu tiên trường phái kinh tế  chính trị  cổ  điển áp dụng phương pháp  
trừu tượng hóa trong nghiên cứu các hiện tượng, quá trình kinh tế để  tìm ra các  
mối quan hệ nhân quả, vạch ra bản chất và các quy luật vận động của quan hệ 
sản xuất tư bản chủ nghĩa; đề xuất áp dụng các phương pháp: logic, trừu tượng 
hóa, nguyên nhân – kết quả, suy diễn, quy nạp trong nghiên cứu kinh tế. Đây là 
những phương pháp nghiên cứu khoa học và tiến bộ. Bằng hệ thống phạm trù, 
quy luật kinh tế  đã được xây dựng, kinh tế  chính trị  cổ  điển đã đặt nền móng 
cho khoa học kinh tế sau này. 
Các nhà kinh tế  của trường phái cổ  điển  ủng hộ  tư  tưởng tự  do kinh tế. 
Tư tưởng cơ bản của họ là tự  do sản xuất, tự  do kinh doanh, tự do cạnh tranh,  
tôn trọng quy luật kinh tế và chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. 

Những quan điểm lý luận của các nhà kinh tế chính trị  cổ  điển chưa thật  
nhất quán, còn trộn lẫn giữa các xu hướng tư tưởng, một mặt là khoa học muốn  
đi sâu vào bản chất các hiện tượng, quá trình kinh tế, mặt khác lại tầm thường 
chỉ  dùng  ở  việc liệt kê, mô tả  hời hợt các hiện tượng bề  ngoài rồi đưa ra kết  
luận thiếu căn cứ. Học thuyết còn mang tính chất siêu hình, phi lịch sử. 
2.2. Kinh tế chính trị học tầm thường:
2.2.1. Lịch sử ra đời:
Đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành, cuộc khủng  
hoảng kinh tế  1825 mở  đầu cho các cuộc khủng hoảng có chu kỳ. Sau nước  
Anh, phương thức sản xuất TBCN cũng được xác lập ở các nước khác. Từ năm 
1830, sự thống trị về chính trị của giai cấp tư sản được xác lập ở Anh và Pháp,  
nhưng giai cấp vô sản cũng ngày càng lớn mạnh, phong trào công nhân chuyển  
từ  tự  phát sang tự  giác, nay mang tính chất chính trị, đe dọa sự  tồn tại của 
CNTB. 


Việc xuất hiện những hình thái khác nhau của CNXH không tưởng tiêu 
biểu là Saint Simon, M. Fourier và R. Owen đã phê phán kịch liệt chế độ tư bản  
gây tiếng vang trong giai cấp công nhân. Giai cấp tư sản cần có một lý luận để 
chống lại CNXH không tưởng và bảo vệ  CNTB. Trước bối cảnh đó, kinh tế 
chính trị  tầm thường xã hội đã biểu hiện sự  phản  ứng của giai cấp tư  sản đối  
với phong trào cách mạng và những tư tưởng của CNXH không tưởng. 
2.2.2. Đặc điểm của kinh tế chính trị học tầm thường:
Thứ nhất, nếu các nhà kinh tế học tư sản cổ điển đã tìm toàn bộ hiện thực  
và nội tại của những quan hệ sản xuất trong xã hội tư sản thì KTCT tầm thường 
chỉ  xem xét hệ  thống hóa các hiện tượng bề  ngoài, không nghiên cứu bản chất 
bên trong của các hiện tượng kinh tế. 
Thứ hai, nếu KTCT cổ điển với phương pháp duy vật (tuy còn siêu hình), 
xem xét khách quan các hiện tượng nghiên cứu, vạch ra quy luật vận động của 
nền sản xuất, thì KTCT học tầm thường lại duy tâm chủ quan. Xuất phát từ chỗ 

bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản, biện hộ cho CNTB một cách có ý thức. 
2.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản:
2.3.1. Lịch sử ra đời:
Kinh tế  chính trị tiểu tư sản ra đời và tồn tại  ở  châu Âu vào cuối thế  kỷ 
XVIII đến đầu thế kỷ XIX trong bối cảnh:
Cách mạng công nghiệp nổ  ra, nền công nghiệp bằng máy móc ra đời. 
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở thành hai giai cấp cơ bản trong xã hội tư 
bản chủ nghĩa, trong đó giai cấp vô sản ngày càng phụ thuộc vào giai cấp tư sản.  
Sự  bần cùng, thất nghiệp, tình trạng sản xuất vô chính phủ, phân hóa xã hội có  
xu hướng ngày càng tăng lên ở các nước công nghiệp phát triển. Ở các nước mới 
bước vào cách mạng công nghiệp, nền sản xuất nhỏ  còn chiếm  ưu thế, thì 
những mâu thuẫn xã hội diễn ra gay gắt hơn. 
Đây là miếng đất làm nảy sinh kinh tế chính trị tiểu tư sản. 
2.3.2. Đặc điểm lý luận:
Kinh tế chính trị tiểu tư sản là một trường phái muốn phê phán chủ nghĩa  
tư bản theo quan điểm tiểu tư sản. Những người thuộc trường phái này cho rằng 
chủ  nghĩa tư  bản là chèn ép, làm phá sản người sản xuất nhỏ, là nguyên nhân 
gây ra nạn bần cùng và thất nghiệp. Họ  đề  nghị  chuyển nền sản xuất tư  bản  
chủ nghĩa về với sản xuất nhỏ. 


Đặc điểm nổi bật trong lý luận của họ  là đã áp dụng phương pháp chủ 
quan trong phê phán chủ nghĩa tư bản; chuyển việc nghiên cứu vào các quan hệ 
đạo đức, phẩm hạnh, phẩm giá con người thay cho các quy luật kinh tế  khách 
quan đã được kinh tế chính trị cổ điển tôn trọng. Họ phê phán chủ nghĩa tư bản 
theo quan điểm tiểu tư sản. 
Đại biểu của trường phái này là Sismondi (1773 – 1842) và Proudhon (1809 
– 1865)
NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CÁC HỌC THUYẾT TRƯỚC CÁC MÁC 
VỀ QUY LUẬT ĐIỀU TIẾT THU NHẬP:

II.

1. Lý luận về tiền công:
1.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:
1.1.1. William Petty (1623 – 1687):
Lý thuyết về  tiền công của William Petty được xây dựng trên cơ  sở  lý  
thuyết giá trị  ­ lao động. Ông coi lao động là hàng hóa, tiền lương là giá cả  tự 
nhiên của lao động.
Petty lấy lý luận giá trị  làm cơ  sở  cho lý luận về  tiền công. Ông không 
định nghĩa phạm trù tiền công mà chỉ nêu lên quan điểm về mức tiền công. Ông 
cho rằng, tiền công không thể vượt quá những tư liệu sinh hoạt cần thiết. Mức  
tiền công cao thì công nhân sẽ  uống rượu say và không muốn làm việc. Muốn  
bắt họ  làm việc thì phải hạ  mức tiền công xuống mức tối thiểu. Ông kịch liệt 
phản đối những trường hợp tăng mức tiền công quá cao. Sở  dĩ như  vậy bởi vì 
trong thời đại của Petty, nhà tư bản chưa có thể bắt công nhân lệ thuộc vào công 
nhân (lệ  thuộc vào cung trên thị  trường lao động) mà phải dựa vào sự   ủng hộ 
của nhà nước. Ông là người luận chứng cho việc đề nghị phải có đạo luật cấm  
tăng mức tiền công. William Petty là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng  
cho lý thuyết “Quy luật sắt về tiền lương”.
Ông xem xét tiền công trong mối quan hệ với lợi nhuận, giá cả các tư liệu 
sinh hoạt với cung – cầu về lao động trên thị  trường. Theo ông, nếu mức tiền  
công cao thì lượng lợi nhuận giảm và ngược lại; nếu giá cả của lúa mì tăng lên 
thì sự bần cùng của công nhân cũng tăng lên (tức là tiền công tỷ lệ nghịch với giá 
lúa mì); số lượng lao động tăng lên thì mức tiền công sẽ giảm xuống. 
William Petty đã nêu được cơ  sở  khoa học của tiền công là giá trị  các tư 
liệu sinh hoạt cho công nhân. 


1.1.2. Adam Smith (1723 – 1790):
Smith có nhiều điểm đúng đắn về  lý luận. Ông cho rằng trong xã hội 

nguyên thủy, tiền công được xác định bởi năng suất, vì ở giai đoạn khởi đầu ấy,  
“khi mà chưa có sự chiếm hữu đất đai và tích lũy vốn, toàn bộ sản phẩm làm ra 
thuộc về người lao động. Họ chẳng có chủ đất mà cũng chẳng có chủ xưởng để 
chia sẻ phần sản phẩm”. Nhưng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tiền công là thu  
nhập của công nhân làm thuê, là một phần giá trị mà lao động của công nhân tạo 
ra. Cơ  sở  để  xác định mức tiền công là số  lượng giá trị  tư  liệu sinh hoạt cần  
thiết để  nuôi nổi công nhân và gia đình họ. Ông nghiên cứu mức bình thường 
của tiền lương và chỉ  ra giới hạn tối thiểu của nó. Theo ông, nếu tiền lương  
thấp hơn mức tối thiểu này thì thảm họa cho sự tồn tại của dân tộc. 
Adam Smith đã chỉ  ra các nhân tố   ảnh hưởng tới tiền lương. Trước hết,  
ông cho rằng, tiền lương phụ thuộc vào trình độ  phát triển kinh tế và phản ánh 
trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước. Tiền lương thấp hơn mức tối thiểu chỉ 
có ở những nước đang diễn ra sự suy thoái về kinh tế. Chẳng hạn, ở Ấn Độ  lúc 
bấy giờ có tiền lương thấp hơn mức tối thiểu, ở Trung Quốc tiền lương chỉ cao  
hơn mức tối thiểu không đáng kể, vì  ở  đó nền kinh tế  đang bị  đình trệ. Còn  ở 
các nước có nền kinh tế phát triển mạnh thì tiền lương lớn hơn mức tối thiểu.  
Phần lớn hơn này do định mức tiêu dùng, truyền thống văn hóa, tập quán dân  
tộc… quy định. 
Trong một nước, nhân tố   ảnh hưởng tới tiền lương phụ  thuộc vào đặc 
điểm lao động của con người, điều kiện làm việc, tính chất công việc, trình độ 
chuyên môn, nghề nghiệp.
Ông đã thấy được mâu thuẫn về  lợi ích kinh tế  giữa chủ  và thợ, mâu 
thuẫn giai cấp trong vấn đề  tiền công, đã phát hiện ra rằng: “Người thợ  muốn  
có càng nhiều tiền công càng hay, nhưng người chủ  lại muốn trả  công càng ít 
càng tốt. Thợ kết hợp với nhau để đòi tăng lương; chủ kết cũng hợp với nhau để 
hạ tiền công lao động”. 
Nếu Petty đề  nghị  trả  tiền công thấp hơn mức tối thiểu, thì Smith tán 
thành trả  tiền công cao. Theo ông, tiền công không thể  hạ  thấp quá giới hạn 
nhất định, phải bảo đảm cho công nhân cuộc sống để họ lao động. Phải để  cho 
“những người nuôi xã hội nhận được một số  thức ăn, quần áo và nhà ở  khả  dĩ 

có thể chịu được”. Một xã hội không thể “phồn vinh và hạnh phúc nếu một bộ 
phận rất lớn những thành viên của nó nghèo nàn và khổ sở”. Ông đã chứng minh  


có sức thuyết phục rằng tiền công cao là sự  cổ  vũ, khuyến khích sự  cần cù và  
tính siêng năng, và theo bản chất của con người, sự cần cù siêng năng lại càng  
cao khi khuyến khích vật chất lại càng lớn. “Khi nhận  được tiền công cao, 
người thợ  làm việc tích cực, chăm chỉ  và khẩn trương hơn khi nhận được tiền 
công thấp”.
Smith nghiên cứu tiền công trong cơ chế thị trường. Cho rằng, có hai yếu  
tố  quyết định mức tiền công là cầu về lao động và giá cả  trung bình của các tư 
liệu sinh hoạt thiết yếu. Lượng cầu về  lao động quyết định mức tư  liệu sinh  
hoạt, giá cả quy định số tiền công mà công nhân nhận được. Từ luận điểm này,  
Smith phân biệt sự  khác nhau giữa tiền công danh nghĩa với tiền công thực tế. 
Sự khác nhau đó là do tính chất dễ chịu hay khó chịu của công việc, mức độ khó  
khăn và đắt đỏ  trong việc dạy nghề, tính chất thường xuyên hay không thường  
xuyên của công việc, mức độ  tín nhiệm, khả  năng thành đạt và tình hình di  
chuyển lao động. Ông chỉ  ra mức tiền công trung bình ở  mỗi nước hay mỗi địa 
phương là do trình độ phát triển kinh tế, trình độ văn minh và tính chất đặc biệt  
của kết hợp lao động và tư bản. 
Smith không chỉ  nghiên cứu tiền công  ở  tầm vi mô (sự  lựa chọn quyết  
định giữa chủ và thợ), mà còn nghiên cứu nó cả ở tầm vĩ mô. Ông cho rằng, mức 
tăng thu nhập và vốn của mỗi nước là điều kiện để  tăng quy mô tiền công, làm 
tăng thêm cầu thuê mướn thêm lao động. Nhu cầu này không tăng, nếu của cải  
quốc dân không tăng. Mức tiền công cao trong những năm phồn vinh, thấp trong  
những năm suy thoái. Tiền công tăng tất yếu làm cho giá nhiều mặt hàng cũng  
tăng theo bằng cách tăng phần cấu thành tiền công trong giá hàng và cho đến nay 
có xu hướng làm giảm mức tiêu thụ   ở  trong nước và  ở  nước ngoài. Tuy vậy,  
việc tăng tiền công vốn có xu hướng làm tăng năng suất lao động khiến cho một  
lượng lao động ít hơn có thể  làm ra một lượng sản phẩm nhiều hơn. Điều này 

lại thúc đẩy tăng trưởng sản lượng của nền kinh tế. Ngoài ra, mức tiền công cao  
hay thấp còn phụ thuộc vào sự điều chỉnh của luật pháp. 
1.1.3. David Ricardo (1772 – 1823):
David Ricardo phát triển quan điểm Adam Smith về  những thu nhập lần 
đầu của ba giai cấp cơ bản trong xã hội. Lý thuyết thu nhập của ông được xây  
dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị ­ lao động.
Ông cho rằng, lao động là hàng hóa, tiền công là giá cả của lao động. Ông 
viết: “Lao động, giống như  các hàng hóa khác có thể  mua và bán, có thể  tăng 


giảm về  số  lượng, cũng như  có giá tự  nhiên và giá thị  trường. Giá cả  tự  nhiên  
của lao động là giá cần thiết cho phép người lao động tồn tại và duy trì nòi 
giống mà không gây nên bất cứ sự gia tăng hay suy giảm nào”. Ông phân biệt giá 
cả  tự  nhiên với giá cả  của thị  trường lao động. Giá cả  tự  nhiên của lao động 
tăng lên khi giá cả lương thực và các tư liệu sinh hoạt khác tăng lên, và hạ xuống  
khi giá cả những thứ đó hạ  xuống. Giá cả tự nhiên của lao động còn phụ  thuộc 
vào phong tục tập quán tiêu dùng của nhân dân. Theo tiến trình phát triển của xã 
hội, giá cả tự nhiên của lao động có chiều hướng tăng lên. 
“Giá thị  trường của lao động là giá thực sự  trả  cho lao động trên cơ  sở 
hoạt động bình thường của cung tương xứng với cầu; lao  động đắt khi khan  
hiếm và rẻ  khi dư  thừa”. Giá cả  thị  trường của lao động chịu  ảnh hưởng bởi  
quan hệ cung – cầu về lao động. Tuy có sự  biến động, nhưng giá cả  thị  trường 
của lao động sẽ phù hợp với giá cả tự nhiên của lao động. Nếu không kể đến sự 
thay đổi trong giá trị của tiền, thì mức tiền công lên xuống do hai nguyên nhân: 
Một là, do sự thay đổi trong quan hệ cung và cầu về lao động;
Hai là, do những biến động trong giá cả của những hàng hóa mà người ta 
dùng tiền công để mua. 
Theo Ricardo, việc đánh giá mức tiền công cao hay thấp phải căn cứ  vào 
số lượng tư liệu sinh hoạt tối thiểu mà tiền công đem lại cho anh ta, chứ không 
phải dựa vào quy mô tiền công. Nhưng ông chủ  trương trả  tiền công thấp, chỉ 

đủ  những tư  liệu sinh hoạt  ở  mức tối thiểu và cho rằng tiền công thấp là quy  
luật tự nhiên trong mọi xã hội. Chỉ trong điều kiện đặc biệt thuận lợi, khả năng 
tăng lực lượng sản xuất mới vượt khả  năng tăng dân số, còn trong điều kiện 
bình thường, với đất đai hạn chế  và sự  giảm sút hiệu quả  của đầu tư  bổ  sung,  
sẽ  làm cho của cải tăng chậm hơn dân số. Khi đó, cơ  chế  điều tiết tự  phát sẽ 
hoạt động. Điều đó sẽ kìm hãm tốc độ tăng dân số. Ông ủng hộ quan điểm của  
William Petty về quy luật sắt về tiền công. Mặt khác, ông cũng thừa nhận rằng  
công nhân nhận được mức tiền công quá ít là một nguy cơ  lớn. Việc thay lao 
động của con người bằng máy móc đem lại những tổn thất rất lớn cho lợi ích 
của giai cấp công nhân. 
Ông ủng hộ việc nhà nước không can thiệp vào hoạt động của thị trường  
lao động, phê phán sự giúp đỡ đối với người nghèo, vì theo ông, làm như vậy sẽ 
ngăn cản hoạt động của quy luật tự nhiên.
1.2. Kinh tế chính trị học tầm thường:


1.2.1. Thomas Robert Malthus (1766 – 1844):
Malthus đã sử dụng yếu tố tầm thường trong học thuyết của Adam Smith  
tức là việc quy định tỷ giá lao động.
Theo Malthus, tiền công là chi phí về lao động sống. Tiền công giảm là do  
dân số tăng lên nên tăng cung về lao động
1.2.2. Jean Baptiste Say (1767 – 1832):
Lợi dụng yếu tố tầm thường của Smith khi coi tiền công, lợi nhuận và địa 
tô là ba nguồn gốc cấu thành giá trị hàng hóa, kết hợp với lý thuyết giá trị ích lợi 
(tính hữu dụng) của mình, Say đưa ra lý thuyết “Ba nhân tố  sản xuất” và “Ba 
nguồn thu nhập”. 
Theo Say, tham gia vào sản xuất có ba yếu tố: lao động, tư  bản và ruộng 
đất. Mỗi nhân tố  đó đều có công phục vụ, mà cái gì tạo ra sự  phục vụ  đều là 
sản xuất. Do đó, không chỉ có lao động, mà cả tư bản và tự nhiên đều tạo ra giá  
trị. Cả ba yếu tố đều có công phục vụ: lao động tạo ra tiền công, tư  bản tạo ra  

lợi nhuận, ruộng đất tạo ra địa tô. Vì vậy, phải có quyền nhận được thu nhập  
tương xứng: công nhân nhận được tiền công, nhà tư  bản hưởng lợi nhuận, địa 
chủ nhận được địa tô. 
Từ  sự  phân tích đó, ông khẳng định, tiền công của công nhân tương  ứng  
với phần đóng góp của công nhân vào giá trị sản phẩm, lao động của công nhân  
giản đơn, thô kệch thì sẽ thu được tiền lương thấp hơn lợi nhuận và ngược lại.  
Từ đó cho rằng, ai cũng được hưởng phần thu nhập, không ai bóc lột ai. Chỉ có  
tư bản cho vay mới là bóc lột. 
1.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản – Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842):
Sismondi theo quan điểm của A. Smith, coi tiền công phụ  thuộc vào tích 
lũy tư  bản và số  lượng công nhân, cung – cầu về  lao động. Đồng thời, ông lại  
theo quan điểm của kinh tế  chính trị  tầm thường, khi cho rằng tiền công và sự 
tăng dân số có quan hệ trực tiếp với nhau; từ đó khẳng định thất nghiệp là hiện  
tượng thường xuyên. 
Ông chống lại luận điểm cho rằng việc dùng máy hơi nước làm giảm nhu 
cầu lao động ở ngành này, nhưng lại tăng nhu cầu lao động ở ngành khác. 
2. Lý luận về lợi nhuận:
2.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:


2.1.1. Adam Smith (1723 – 1790):
Smith đã chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Theo ông, lợi nhuận 
là “phần khấu trừ thứ hai từ sản phẩm của người lao động”. Nó không chỉ xuất  
hiện trong nông nghiệp (điều mà chủ nghĩa trọng nông đã vạch ra), mà còn có cả 
trong ngành công nghiệp. Đây là phát hiện đúng và là thành tựu cao nhất của kinh 
tế chính trị tư sản cổ điển vì đã nêu lên được quan hệ kinh tế cơ bản nhất trong  
xã hội tư bản. Các Mác đã đánh giá cao phát hiện này, cho rằng “Smith đã nắm 
được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư”. 
Smith còn cho rằng mức lợi nhuận tăng hay giảm tùy thuộc vào những 
nguyên nhân làm giảm hay tăng tiền công, mức độ cạnh tranh hay độc quyền trên 

thị  trường và tình trạng tăng, giảm của cải của xã hội. Ông đã thấy xu hướng 
hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân do tác động cạnh tranh giữa các ngành và 
khuynh hướng tỷ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên. 
Từ  quan điểm trên, Smith cho rằng lợi tức là một phần của lợi nhuận,  
được đẻ ra từ lợi nhuận. Lợi tức của tư bản đi vay được trả bằng cách lấy vào  
lợi nhuận thuần túy và do mức lợi nhuận thuần túy quyết định. 
2.1.2. David Ricardo (1772 – 1823):
Ricardo không có ý định truy tìm nguồn gốc của lợi nhuận mà chỉ  đi tìm 
các yếu tố ảnh hưởng đến nó mà thôi. Điều này dễ hiểu, bởi vì học thuyết kinh  
tế mà ông xây dựng nhằm bảo vệ lợi ích các nhà tư bản công nghiệp, nên không 
muốn phân tích nguồn gốc thật sự của lợi nhuận từ giá trị lao động, mà ông lại  
cho rằng nó là một thuộc tính cố  hữu của tư  bản, có trước và nằm ngoài quá  
trình sản xuất ra giá trị. Mặc dù vậy, ta có thể thống qua một số luận điểm của 
ông về giá trị, về mối quan hệ giữa các thu nhập “tiền công thấp chỉ là một tên 
gọi khác đi đôi với các lợi nhuận cao”, để  khẳng định rằng ông đã hiểu lợi  
nhuận là kết quả  lao động, là phần giá trị  lao động do công nhân tạo ra ngoài  
tiền công. 
Ricardo giải thích không đúng yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, cho rằng  
do độ màu mỡ của đất đai ngày càng giảm sút, nên nhà tư bản phải chi phí một 
lượng lao động ngày càng lớn hơn để  sản xuất ra số  lương thực cần thiết phụ 
thêm, làm cho tiền công tăng và lợi nhuận bị giảm. 
Việc tích lũy tư  bản có  ảnh hưởng gì tới lợi nhuận? Theo Ricardo, nó sẽ 
không làm giảm lợi nhuận một cách lâu dài, vì tư  bản cuối cùng sẽ  tìm được 


những bàn tay cần thiết cho nó. Tư  bản tăng lên thì công việc do tư  bản thực 
hiện cũng tăng theo cùng một tỷ lệ. 
Thành công quan trọng trong hệ  thống lý luận của Ricardo là luận giải  
đúng quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Ông xuất phát từ hai giả định cổ điển 
về nền kinh tế thị trường: Các nhà tư bản luôn tìm cách tối đa hóa lợi nhuận và  

tư  bản có thể  dịch chuyển hóa tỷ  suất lợi nhuận trong điều kiện tự  do cạnh  
tranh. Trên cơ sở đó, Ricardo cho rằng: “Cái khát khao không cùng của các nhà tư 
bản là rời bỏ  chỗ  có ít lợi nhuận sang chỗ có nhiều lợi nhuận hơn tạo nên một 
khuynh hướng mạnh mẽ  san bằng tỷ  suất lợi nhuận  ở mọi nơi, hay là cố  định 
chúng ở một tỷ lệ nhất định cho phép, theo dự tính của các bên, loại trừ mọi lợi 
thế có hoặc dự tính là có khả năng xuất hiện trong một ngành nào đó”. Với mức  
tỷ  suất lợi nhuận được san bằng, các nhà tư  bản trong mọi lĩnh vực đều nhận 
được mức “lợi nhuận thông thường” hay “lợi nhuận bình quân”.
2.2. Kinh tế chính trị tầm thường:
2.2.1. Thomas Robert Malthus (1766 – 1844):
Malthus cho rằng chi phí để tạo ra hàng hóa gồm chi phí mua lao động vật 
hóa, chi phí mua lao động sống và lợi nhuận tư  bản  ứng trước. Như  vậy, lợi  
nhuận là khoản dôi ra ngoài chi phí lao động sống, tách lợi nhuận ra khỏi lao 
động sống. 
Ông khẳng định lợi nhuận không liên quan đến lao động của công nhân, nó 
được coi như  một yếu tố  cấu thành của giá trị. Công nhân không tạo ra lợi 
nhuận cho nhà tư bản, không bị tư bản bóc lột.
Theo Malthus, lợi nhuận không thể xuất hiện trong việc trao đổi giữa các  
nhà tư bản. Malthus nhận định trong phạm vi khả năng những người đảm nhiệm  
sản xuất (tức là nhà tư  bản và công nhân) không thể  tìm ra lượng cầu có khả 
năng thanh toán phần lượng cung do lợi nhuận đại biểu. Do đó, tình trạng thừa  
hàng hóa sẽ xuất hiện. Xã hội chỉ có nhà tư bản và công nhân thì không thể tránh 
khỏi tai họa đó. 
Theo Malthus, lối thoát của CNTB là phải tăng mức tiêu dùng của giai cấp 
không sản xuất như  quý tộc, tăng lữ, nhân viên Nhà nước… những người chỉ 
mua, không bán, “những người thứ ba” phải hoang phí hơn để tạo nên lượng cầu 
đầy đủ cho nhà tư bản.
2.2.2. Jean Baptiste Say (1767 – 1832):



Trong lịch sử, cho đến thời của Say, đã có ba quan niệm về lợi nhuận: 
Một là, lợi nhuận do lưu thông tạo ra, là kết quả của việc mua rẻ, bán đắt;
Hai là, lợi nhuận do sự tiết dục, nhịn ăn tiêu của nhà tư bản;
Ba là, lợi nhuận là hiệu suất đầu tư do tư bản mang lại. 
Say  ủng hộ  quan niệm thứ  ba và cho rằng đầu tư  thêm tư  bản vào sản  
xuất, thì sẽ  làm tăng thêm sản phẩm, tăng thêm giá trị. Máy móc tham gia vào 
sản xuất cũng làm tăng thêm giá trị, tăng lợi nhuận. Từ  đó, ông giải thích lợi  
nhuận dựa vào hiệu suất đầu tư của tư bản. 
Say phân biệt nhà tư  bản với nhà kinh doanh. Theo ông, nhà tư  bản chính 
là người có tư  bản cho vay để  thu lợi tức, còn nhà kinh doanh là người mạo 
hiểm, dám chấp nhận nguy hiểm trong cuộc chơi. Họ  vay tư  bản, thuê nhân  
công, sản xuất ra hàng hóa bán trên thị  trường. Vì vậy, họ  cũng lao động như 
công nhân, lợi nhuận mà họ thu được cũng giống tiền công của công nhân. Đó là 
một hình thức đặc biệt của tiền công mà nhà tư bản tự trả cho mình. Cho rằng, 
chỉ có lợi tức của kẻ sở hữu tư bản mới là con đẻ của bản thân tư bản. 
Say cho rằng, tiến bộ kỹ thuật có vai trò đặc biệt. Việc sử dụng máy móc 
đem lại “hậu quả” tốt lành không chỉ cho giai cấp tư sản mà còn cho cả giai cấp 
công nhân. Tuy trong thời kỳ đầu, việc sử  dụng máy móc mới gây ra “điều bất 
tiện” là gạt bỏ một bộ phận công nhân, khiến cho họ “tạm thời” không có việc 
làm, nhưng về  sau do việc sử  dụng máy móc tăng lên, việc làm cũng tăng lên.  
Việc sử  dụng máy móc sẽ  làm ra sản phẩm có giá rẻ  hơn, công nhân là người 
“có lợi nhất” và điều này cũng làm cho lợi nhuận tăng lên. Thực chất, Say muốn  
chứng minh sự hòa hợp lợi ích giữa nhà tư bản và người lao động. 
2.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản ­ Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842):
Sismondi phát triển quan điểm của Adam Smith, coi lợi nhuận là khoản 
khấu trừ thứ tư vào giá trị sản phẩm và cho rằng đó là khoản thu nhập không lao  
động, là kết quả  của sự cướp bóc công nhân, là tai họa kinh tế của giai cấp vô 
sản. 
Từ đó cho rằng, việc san bằng lợi nhuận chỉ đạt được bằng cách phá hủy 
những tư  bản cố  định bằng sự  tiêu vong của công nhân trong các ngành bị  suy 

sụp. 
3. Lý luận về địa tô:


3.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:
3.1.1. William Petty (1623 – 1687):
Theo ông, địa tô là số  chênh lệch giữa thu nhập bán hàng và chi phí sản  
xuất. Chi phí sản xuất bao gồm tiền công và tiền giống. Trong phân tích về  địa  
tô, William Petty một mặt, đã đồng nhất nó với lợi nhuận; mặt khác, lại cho  
rằng đó là kết quả của sự bóc lột. Thực ra, ông không rút ra được lợi nhuận của  
kinh doanh ruộng đất, không trực tiếp đề  cập đến vấn đề  bóc lột. Nhưng theo  
phân tích logic của ông, chúng ta có thể rút ra được kết luận rằng, công nhân chỉ 
nhận được tiền công tối thiểu, số  còn lại là lợi nhuận của địa chủ. Logic bên 
trong của quan niệm đó là sự thừa nhận có bóc lột.
  
Từ  luận điểm này, Mác nhận xét công lao của Petty là đã dự  đoán đúng 
bản chất của giá trị  thặng dư, là người đầu tiên nêu ra mầm mống của lý luận 
về bóc lột theo lối tư bản chủ nghĩa.
3.1.2. Adam Smith (1723 – 1790):
Smith có nhiều luận điểm đúng đắn và khoa học về địa tô. Theo ông, địa tô 
do chế độ độc quyền về đất mà có, nó là: (1) Khoản khấu trừ thứ nhất vào sản 
phẩm lao động, là kết quả  của việc bóc lột người sản xuất trực tiếp; (2) Giá  
phải trả cho việc sử dụng đất, nó là giá cao nhất mà người thuê có khả năng trả 
trong những điều kiện đất đai hiện nay. 
Hai luận điểm đó đã phải ánh được mối quan hệ giữa ba giai cấp: địa chủ, 
tư  bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp trong quan hệ  ruộng 
đất tư bản chủ nghĩa. 
Smith đã chứng minh quan hệ giữa địa tô và giá cả nông phẩm. Cho rằng, 
quy mô địa tô nhiều hay ít là kết quả  của giá cả  nông phẩm. Địa tô phụ  thuộc 
vào tình hình giá cả nông phẩm có vượt quá số tiền đủ để bù lại tiền công và lợi 

nhuận hay không. Theo ông, dân số tăng lên kéo theo yêu cầu về nông phẩm tăng 
làm cho giá nông phẩm “bao giờ cũng có một số  dư  nào đó dành cho địa tô của  
người chủ  ruộng”. Vì vậy, địa tô là kết quả  của giá cả  nông phẩm cao chứ 
không phải là nguyên nhân của giá cả cao. 
Smith đã phân biệt hai hình thái của địa tô: địa tô trên những đất có màu  
mỡ  và địa tô do vị  trí của đất. Cho rằng mức địa tô đương nhiên là giá độc 
quyền. Các yếu tố độc quyền liên quan đến việc xác định địa tô là độ màu mỡ và  
vị trí của đất. Đất thích hợp với một sản phẩm đặc biệt đều có có độc quyền.  


Như  vậy, ông đã biết đến địa tô chênh lệch. Tuy nhiên, ông không chỉ  ra được 
địa tô chênh lệch do thâm canh mà có mặc dù đã phân biệt địa tô với tiền thuê 
ruộng, cho rằng trong tiền thuê ruộng có địa tô và lợi tức của tư  bản đã chi phí 
vào việc cải thiện đất đai.
3.1.3. David Ricardo (1772 – 1823):
Với quyền sở hữu đất đai, địa chủ cho thuê và thu tiền sử dụng đất, gọi là 
địa tô. Theo Ricardo, địa tô là phần sản phẩm của đất đai được trả  cho địa chủ 
về việc sử dụng những lực lượng đầu tiên và chưa bị phá hoại của đất đai. 
Khi giải thích nguồn gốc của địa tô, Ricardo xuất phát từ lý luận giá trị lao  
động. Ông phê phán J.B.Say coi địa tô là do sự phục vụ có tính chất sản xuất của 
ruộng đất. Theo ông, địa tô là bộ phận của sản phẩm lao động, là một phần giá  
trị  do lao động tạo ra, là một hình thức phái sinh của lợi nhuận. Nó là kết quả 
của phân phối lại. 
Sở  dĩ xuất hiện địa tô như  vậy “chỉ  vì đất đai có giới hạn về  lượng và  
không đồng đều về  chất, vì tiến trình phát triển dân số  đã buộc người ta phải  
canh tác trên những mảnh đất kém màu mỡ  hơn, vị  trí giao thông bất tiện hơn,  
người ta mới phải trả tiền cho việc sử dụng đất”. Việc trả  loại tiền này là do  
tồn tại chế độ tư hữu về ruộng đất. Như vậy, chỉ có những mảnh đất màu mỡ 
và gần đường giao thông, địa chủ mới thu được địa tô này. Ricardo đã giải thích 
đúng cơ sở của địa tô chênh lệch I và cho rằng nó là phần lợi nhuận siêu ngạch 

ngoài lợi nhuận bình quân mà những người thuê ruộng phải nộp trả địa chủ. 
3.2. Kinh tế chính trị học tầm thường ­ Jean Baptiste Say (1767 – 1832):
Theo Say, địa tô là khoản thu nhập chính đáng của địa chủ  vì ruộng đất  
cũng tham gia vào quá trình sản xuất, tạo ra giá trị của hàng hóa.
Như vậy, ruộng đất tạo ra địa tô. 
3.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản ­ Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842):
Sismondi cho rằng, địa tô là kết quả của sự cướp bóc công nhân. Ông phê  
phán quan điểm của David Ricardo cho rằng ruộng đất xấu không có địa tô và  
khẳng định ruộng xấu cũng phải nộp địa tô do chế  độ  độc quyền sở hữu ruộng  
đất quy định. Ông đã thừa nhận địa tô tuyệt đối.
Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN:
1. Ý nghĩa lý luận:
III.


Nghiên cứu những thành tựu trong nghiên cứu trước C. Mác về  quy luật  
điều tiết thu nhập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc xác định 
thu nhập của mỗi yếu tố sản xuất sẽ được xác định như  thế  nào. Hay nói cách 
khác, theo cách tiếp cận vĩ mô, tiêu dùng và tiết kiệm chiếm tỷ  lệ  bao nhiêu 
trong tổng thu nhập. 
Các lý thuyết điều tiết thu nhập đã luận giải nguồn gốc của bất bình đẳng 
và sự  nghèo đói trong xã hội, cho rằng đó là do quy luật tất yếu của thị trường  
cạnh tranh. 
Mặc dù có những hạn chế, sai lầm, nhưng với tư cách là các trường phái 
khoa học trong lịch sử, với những tư tưởng tiến bộ, các học thuyết trước C. Mác  
là cơ sở, nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
Việc nghiên cứu về quy luật điều tiết thu nhập giúp cho việc mở rộng và 
nâng cao hiểu hiểu biết về nền kinh tế thị trường, trang bị những kiến th ức c ần  
thiết cho việc nghiên cứu, xây dựng đường lối, chiến lược phát triển kinh tế của  
đất nước, chiến lược kinh doanh…

Tín hiệu thị  trường là cơ  sở  để  người sản xuất đầu tư  vào đâu thu được  
nhiều lợi nhuận, tích cực mở rộng sản xuất và đứng vững trong cạnh tranh. Nó 
sàng lọc được yếu tố người và vật trong nền kinh tế. 
Trong điều kiện nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập,  
đổi mới tư duy kinh tế có một ý nghĩa vô cùng quan trọng để  có thể  nhận thức  
và phân tích những mặt mạnh, mặt yếu của các chính sách kinh tế  đã và đang 
được thực hiện tại nhiều quốc gia. Từ  đó mới có thể  đề  xuất để  hoạch định, 
nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo những chủ  trương, đường lối, chính 
sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Liên hệ thực tiễn:
Các học thuyết của trường phái kinh tế chính tị  tư  sản cổ  điển cho rằng, 
phân công lao động sẽ  làm tăng hiệu suất lao động, tăng năng suất lao động, từ 
đó làm tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp. Nguyên nhân dẫn đến phân công lao 
động là trao đổi hàng hóa trên thị trường, mức độ phân công lao động phụ thuộc  
vào quy mô thị trường. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, vấn đề phân công 
lao động là thước đo trình độ phát triển của nền kinh tế đó, ở đâu có phân công  
lao động thì  ở  đó có một nền kinh tế  phát triển. Phát triển kinh tế  thị  trường,  
định hướng xã hội chủ  nghĩa cũng đang hướng theo quan điểm này, không chỉ 


phân công lao động trong phạm vi quốc gia, mà phân công lao động đã và đang  
hướng ra phạm vi quốc tế, nhằm khai thác tối đa mọi nguồn lực ở mọi nơi. 
Ở nước ta, phân công lao động đã diễn ra một cách rộng rãi, để phát triển 
kinh tế  thị  trường không chỉ  về  chiều rộng mà còn cả  về  chiều sâu, giữa các 
ngành, các lĩnh vực kinh tế. Nước ta có  điều kiện  để  phát triển kinh tế  thị 
trường là tài nguyên, nguồn lực con người… là cơ  sở  quan trọng để  phát triển 
kinh tế thị trường.
Vận dụng tư  tưởng tự  do kinh tế của Adam Smith có ý nghĩa quan trọng 
đối với các chủ thể kinh tế trong việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. 

Các chủ thể kinh tế phải luôn tự đổi mới kỹ thuật, trang thiết bị, mẫu mã, chất  
lượng sản phẩm… làm cho thời gian lao động cá biệt của mình thấp hơn thời 
gian lao động xã hội để thu được lợi nhuận nhiều, tiếp tục mở rộng sản xuất. 
So với các nước phát triển trên thế giới, trình độ kỹ thuật của nước ta còn 
thấp kém, trình độ  lao động chưa cao, tính năng động của các chủ  thể  kinh tế 
còn yếu. Vì vậy, phát triển kinh tế  thị  trường để  thừa nhận tính đồng bộ  của 
nền kinh tế: thị  trường vốn, tiền tệ, thị trường sức lao động, thị  trường chứng 
khoán…
Chúng ta phải thừa nhận tự do kinh doanh, sự bình đẳng của các chủ  thể 
trong nền kinh tế, khuyến khích làm giàu hợp pháp, đi đôi với xóa đói giảm 
nghèo, có tích lũy nội bộ.
Tuy   nhiên,   cũng   cần   có   cái   nhìn   khách   quan,   khoa   học   về   cơ   chế   thị 
trường. Không nên tuyệt đối hóa vai trò của thị trường trong việc điều tiết nền  
kinh tế. Sự  điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế  là cần thiết để  ngăn 
ngừa, khắc phục những thất bại của thị trường, để thị trường hoạt động có hiệu 
quả. 
Nền kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, Việt Nam 
đã xác định được mục tiêu phát triển bền vững cho nền kinh tế Việt Nam trong  
giai đoạn tới. Phát triển bền vững là một khái niệm không còn mới, trong đó đòi  
hỏi quá trình phát triển chú trọng tới cả ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường. 
Đây mặc dù là tầm nhìn chung của nhân loại nhưng tùy theo điều kiện từng 
quốc gia, trong từng giai đoạn phát triển, nhu cầu và năng lực thực hiện phát 
triển bền vững không phải bao giờ cũng thống nhất với nhau. 
Về  vấn đề  điều tiết thu nhập hiện nay, chúng ta không thể  bỏ  qua việc  
điều tiết thu nhập cá nhân. Nhà nước thông qua công cụ  là thuế  đánh vào thu 


nhập cá nhân của người dân để  điều tiết nền kinh tế  khi mà có những cá nhân  
lại có mức thu nhập cao hơn rất nhiều so với những cá nhân khác. Mặt khác,  
việc đánh thuế vào các cá nhân này tạo ra cho nhà nước một khoản thu nhập mà  

từ đó có thể chi tiêu cho những vấn đề khác cần thiết cho xã hội chẳng hạn như 
là: trợ  cấp, học bổng, xây nhà tình thương, xóa đói giảm nghèo… Nhìn chung,  
hiện nay các chính phủ  sử  dụng chủ  yếu 2 công cụ  là tín dụng chính sách lãi 
suất ngân hàng và chính sách thuế, nhưng đặc biệt là công cụ thuế.
Những hình thức phân phối, điều tiết thu nhập  ở  Việt nam trong thời kỳ 
quá độ lên CNXH xuất phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan và tự 
đặc điểm kinh tế xã hội của đất nước mà chúng ta vận dụng nhiều hình thức thu 
nhập. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều hình thức  
xã hội khác nhau. Nhà nước thừa nhận và đảm bảo bằng pháp luật không chỉ sở 
hữu toàn dân, nhà nước mà cả  sở  hữu tư  nhân về  tiền vốn, của cải để  dành và 
các tài sản hợp pháp khác. Phù hợp với mỗi thành phần kinh tế, mỗi hình thức sở 
hữu là một hình thức phân phối thu nhập nhất định. Mặc dù các hình thức phân 
phối thu nhập của nước ta không tồn tại biệt lập với nhau mà đan xen với nhau 
và hợp thành cơ  cấu kinh tế  quốc dân thống nhất, nhưng chưa thực hiện phân 
phối thu nhập theo một hình thức mà phải thực hiện nhiều hình thức. Chỉ có vậy  
mới giải phóng được năng lực sản xuất, khai thác triệt để mọi tiềm năng kinh tế 
của đất nước nhằm phát triển mạnh mẽ  kinh tế  xã hội  ở  nước ta. Trong nền  
kinh tế  nước ta còn tồn tại nhiều hình thức kinh doanh khác nhau. Nền kinh tế 
nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa. Trong nền kinh  
tế  này, có nhiều chủ  thể  sản xuất kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế 
tham gia. Mỗi thành phần kinh tế có phương thức tổ chức sản xuất – kinh doanh  
khác nhau. Ngay trong mỗi thời kỳ kể cả thành phần kinh tế nhà nước cũng có 
các phương thức kinh doanh khác nhau. Vì vậy, không thể có một hình thức phân  
phối thu nhập thống nhất mà phải có nhiều thành phần khác.
Việc điều tiết thu nhập đúng đắn và phù hợp với tình hình hiện nay của  
đất nước sẽ  là động lực mạnh thúc đẩy sản xuất phát triển và cải thiện đời 
sống nhân dân. Ngược lại, điều tiết thu nhập không đúng sẽ không đảm bảo lợi  
ích kinh tế  không công bằng, chênh lệch quá lớn sẽ   ảnh hưởng đến sản xuất. 
Như  vậy, điều tiết thu nhập  ảnh hưởng tới sự  phát triển kinh tế  và vấn đề  xã  
hội, đặc biệt là công bằng xã hội. Đứng trước tình hình đó, những thành tựu của  

các học thuyết kinh tế trước C.Mác về  quy luật điều tiết thu nhập được Đảng 
và Nhà nước phát huy, bên cạnh đó, trước những hạn chế  của các học thuyết 


này, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chính sách nhằm phát huy vai trò, động lực 
của phân phối thu nhập đối với nền kinh tế đất nước:
Một là, Nâng cao vai trò điều tiết của nhà nước đối với phân phối thu  
nhập
Hai là, các giải pháp chống chủ nghĩa bình quân
Ba là, hoàn thiện các chính sách tiền công, tiền lương và phân phối lại thu  
nhập.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] GS.TS. Mai Ngọc Cường, Lịch sử các học thuyết kinh tế. Cấu trúc hệ thống. 
Bổ sung. Phân tích và nhận định mới, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 
2005
[2] PGS.TS. An Như Hải, Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế nâng cao, 
Viện Kinh tế chính trị học, Hà Nội, 2014. 
[3] GS.TS. Phạm Quang Phan – PGS.TS. An Như Hải, Giáo trình lịch sử các học 
thuyết kinh tế, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2011
[4] PGS.TS. Trần Bình Trọng, Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, Nhà 
xuất bản thống kê, Hà Nội, 2003.



×