Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Luận văn công tác xã hội đối với thúc đẩy bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số tại huyện cao lộc, tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.11 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH THỊ CHIÊN

CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG
GIỚI TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI HUYỆN
CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH THỊ CHIÊN

CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG
GIỚI TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI HUYỆN
CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN
Ngành: Công tác xã hội
Mã số: 8.76.01.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. NGUYỄN HỮU MINH


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân


tôi. Các số liệu được sử dụng trong luận văn này là trung thực, khách quan.
Những kết quả nghiên cứu trong luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Học viên

Trịnh Thị Chiên


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành được đề tài “Công tác xã hội đối với thúc đẩy
bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số tại huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng
Sơn”, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Học viện Khoa học xã
hội đã chu đáo trong quá trình giảng dạy, truyền đạt kiến thức; xin cảm ơn
Phòng Đào tạo và Khoa Công tác xã hội của Học viện Khoa học xã hội đã tạo
điều kiện thuận lợi cho học viên trong suốt quá trình nghiên cứu, học tập tại
Học viện; xin cảm ơn Lãnh đạo Học viện Dân tộc, nơi tôi đang công tác đã
tạo điều kiện về thời gian để tôi có thể tham gia và hoàn thành khóa học.
Đặc biệt, xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới GS.TS. Nguyễn
Hữu Minh, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và
hoàn thành luận văn cao học này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Học viên

Trịnh Thị Chiên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẨNG GIỚI VÀ

CÔNG TÁC XÃ HỘI THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH
DÂN TỘC THIỂU SỐ...........................................................................................14
1.1. Một số khái niệm về giới và bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số
..........................................................................................................................14
1.2. Lý luận về Công tác xã hội trong lĩnh vực bình đẳng giới.......................18
1.3. Các lý thuyết ứng dụng trong công tác xã hội.......................................... 21
Chương 2: THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU
SỐ TẠI HUYỆN CAO LỘC.................................................................................24
2.1. Khái quát về địa bàn và khách thể nghiên cứu......................................... 24
2.2. Các hoạt động CTXH trong lĩnh vực bình đẳng giới đối với gia đình dân
tộc thiểu số ở huyện Cao Lộc................................................................... 45
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến CTXH trong lĩnh vực bình đẳng giới đối với
gia đình DTTS tại huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.......................................... 48
Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC XÃ HỘI
THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG CÁC HỘ GIA ĐÌNH DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở HUYỆN CAO LỘC.......................................................................52
3.1. Một số vấn đề đặt ra trong thực hiện bình đẳng giới trong gia đình dân tộc
thiểu số huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.......................................................... 52
3.2. Giải pháp giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng giới trong gia đình DTTS tại
huyện Cao Lộc................................................................................................ 55
3.3. Các giải pháp tăng cường công tác xã hội thúc đẩy bình đẳng giới trong gia
đình dân tộc thiểu số huyện Cao lộc............................................................... 60
KẾT LUẬN............................................................................................................ 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................... 71
PHỤ LỤC............................................................................................................... 74


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


Viết tắt

Nội dung

BĐG

Bình đẳng giới

CTXH

Công tác xã hội

DTTS

Dân tộc thiểu số

HĐND

Hội đồng nhân dân

KT-XH

Kinh tế - xã hội

NXB

Nhà xuất bản

UBND


Ủy ban nhân dân


DANH MỤC HỘP, BẢNG BIỂU

Bảng 1: Số lượng mẫu khảo sát chia theo dân tộc và địa bàn cấp xã của
huyện Cao Lộc.......................................................................................12
Bảng 2.1: Tỷ lệ người chủ thực tế trong hộ gia đình chia theo dân tộc ***....33
Bảng 2.2: Tỷ lệ người có quyền sở hữu nhà ở, đất ở ghi trong sổ đỏ chia
theo dân tộc***.....................................................................................34
Bảng 2.3: Dự định của cha mẹ đối với bậc học của con cái**........................35
Bảng 2.4: Quan niệm về người thích hợp tạo ra thu nhập của hộ gia đình **...36
Bảng 2.5: Thực tế người làm ra thu nhập chủ yếu của hộ gia đình**.............37
Bảng 2.7: So sánh thu nhập bình quân/tháng giữa vợ và chồng***...............38
Bảng 2.8: Thực tế phân công người quản lý chi tiêu hàng ngày trong
gia đình***............................................................................................39
Bảng 2.9: Thực tế đăng ký kết hôn trước khi cưới ở các dân tộc***..............40
Bảng 2.10: Lý do không đăng ký kết hôn.......................................................41
Bảng 2.11: Thực trạng hành vi bạo lực gia đình trong 12 tháng qua giữa
vợ/ chồng đối với người trả lời..............................................................42
Bảng 2.12: Dân số 2 xã Công Sơn và Gia Cát chia theo dân tộc (2019).........44
Hộp 1: Các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới...............................................32
Hộp 2: Thực hiện bình đẳng giới ở xã Gia Cát...............................................43
Hộp 3: Bình đẳng giới tại huyện Cao Lộc.......................................................49


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển chung của đất nước,
vùng dân tộc thiểu số cũng có sự thay đổi và phát triển lớn. Nhưng nhìn

chung so với vùng nông thôn, đô thị thì vùng dân tộc thiểu số vẫn chậm phát
triển. Cuộc sống của người dân tộc thiểu số còn gặp rất nhiều khó khăn, nhiều
vấn đề xã hội cần được giải quyết trong đó vấn đề bất bình đẳng giới trong
gia đình dân tộc thiểu số là vấn đề nổi cộm cần được quan tâm.
Việt Nam là quốc gia thứ 6 trên thế giới tham gia Công ước Xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử với Phụ nữ (CEDAW) và đã có những nỗ lực
đáng kể để thực hiện cam kết của mình trong công tác thúc đẩy bình đẳng
giới. Nhiều văn bản luật pháp và chính sách liên quan đến bình đẳng giới đã
được ra đời như Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình,
Luật Chăm sóc và bảo vệ trẻ em, Luật Người cao tuổi….
Luật Bình đẳng giới ra đời năm 2006 là một trong những cơ sở luật
pháp quan trọng để thực hiện bình đẳng giới ở nước ta. Điều 7 của Luật quy
định rõ, chính sách nhà nước về bình đẳng giới cần phải đảm bảo bình đẳng
giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; hỗ trợ
và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham
gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển; hỗ trợ
hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS và
vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết
để nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà
chỉ số phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước. Bình đẳng giới
cần được quan tâm trong tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, lao động, giáo
dục và đào tạo, văn hóa, y tế và bình đẳng giới trong gia đình.
Triển khai các hoạt động nhằm thúc đẩy toàn xã hội thay đổi hành vi
thực hiện bình đẳng giới, mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới
8


giai đoạn 2011 - 2020 xác định phải tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong
toàn xã hội, từng bước thu hẹp khoảng cách giới và nâng vị thế của phụ nữ
trong một số lĩnh vực còn bất bình đẳng hoặc nguy cơ bất bình đẳng giới cao.

Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính phủ quy định về các
biện pháp bảo đảm bình đẳng giới. Tại điều 14 quy định các biện pháp thúc
đẩy bình đẳng giới, chính sách hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm đạt tới sự bảo đảm bình đẳng
giới thực chất trên các phương diện tham gia, thụ hưởng trong các lĩnh vực xã
hội của phụ nữ và trong gia đình.
Với những nỗ lực lớn của Chính phủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế và
phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, những văn bản luật pháp, chính
sách về bình đẳng giới đã ra đời khá đồng bộ và căn bản. Tuy nhiên, trên thực
tế, các kết quả của nỗ lực hỗ trợ bình đẳng giới ở Việt Nam nói chung và vùng
dân tộc thiểu số chưa đáp ứng được các yêu cầu của quá trình hội nhập. Đánh
giá 10 năm thi hành Luật Bình đẳng giới của Bộ Lao động-Thương binh và
Xã hội cho thấy, tiến bộ về bình đẳng giới ở Việt Nam vẫn còn chậm chạp,
thậm chí còn thụt lùi ở một số lĩnh vực, đặc biệt là ở vùng dân tộc thiểu số và
miền núi; tình trạng bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái đang là vấn đề nhức
nhối của xã hội; định kiến về vai trò của nam và nữ trong gia đình và xã hội
tạo gánh nặng cho cả phụ nữ và nam giới; tâm lý ưa thích con trai dẫn đến
tình trạng gia tăng tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh và tình trạng nạo phá
thai lựa chọn giới tính (Bộ LĐ,TB&XH, 2019)..
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW dưới góc độ
bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ cho thấy, khoảng cách giới trong các
nhóm DTTS và giữa các nhóm DTTS với dân tộc Kinh còn lớn và tồn tại dai
dẳng ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống KT-XH, nhất là trong đời sống gia
đình. Bạo lực trong gia đình DTTS diễn ra khá phổ biến, đặc biệt ở những dân
tộc phụ hệ. Có tới 58,6% phụ nữ DTTS từ 15-49 tuổi tin rằng chồng có quyền


đánh vợ vì bất kỳ lý do gì như: vợ ra ngoài mà không xin phép, vợ bỏ bê con
cái, vợ cãi lại chồng, vợ từ chối quan hệ tình dục..., trong khi tỷ lệ này ở
người Kinh, Hoa chỉ khoảng 28%. Phụ nữ DTTS không có nhiều cơ hội ra

quyết định và tham gia vào quá trình ra quyết định. Định kiến về vai trò giới
khiến họ khó có thể phát huy được năng lực nội tại và tính tự quyết của
mình trong hộ gia đình và cộng đồng (Đảng đoàn Hội LHPNVN, 2019).
Có thể thấy, mặc dù đã có sự nỗ lực trong nhiều năm qua của Chính
phủ, mục tiêu bình đẳng giới ở vùng DTTS hiện nay vẫn còn rất nhiều thách
thức. Nhiều trở ngại đối với phụ nữ DTTS trong tiếp cận tham gia chính trị,
phát triển kinh tế hộ gia đình, nhiều trở ngại trong phong tục tập quán liên
quan đến tình trạng mù chữ, nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết cao; nhiều
phụ nữ DTTS chưa được tiếp cận một cách đầy đủ với các dịch vụ y tế hiện
đại. Chính vì vậy, trên thực tế đang diễn ra những bất bình đẳng về cơ hội và
thụ hưởng các chính sách xã hội, đặc biệt là đối với phụ nữ DTTS.
Huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn là một trong những huyện thuộc vùng
dân tộc thiểu số có nhiều xã, thôn đặc biệt khó khăn với dân số phần lớn là
người DTTS. Trong gia đình của một số DTTS tại huyện Cao Lộc vẫn còn
nhiều yếu tố cản trở bình đẳng giới. Nhiều tập tục văn hóa, thói quen, định kiến
xã hội đang là ràng buộc ngăn cản sự phát triển cho phụ nữ...
Để thúc đẩy bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số nói chung, bình đẳng
giới trong gia đình DTTS ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn nói riêng cần có sự
quan tâm vào cuộc của các cấp, các ngành với nhiều giải pháp đồng bộ, trong
đó không thể thiếu vai trò của CTXH. Công tác xã hội có chức năng phòng
ngừa những vấn đề xã hội của cộng đồng, gia đình hay cá nhân; chức năng
can thiệp nhằm trợ giúp cộng đồng, gia đình, cá nhân giải quyết vấn đề đang
gặp phải; chức năng phục hồi đó là giúp cộng đồng, gia đình, cá nhân khôi
phục lại chức năng xã hội đã bị suy giảm trở lại mức ban đầu và hòa nhập
cuộc sống xã hội; chức năng phát triển nhằm tăng năng lực, tăng khả năng


ứng phó với các tình huống có vấn đề của cộng đồng, gia đình, cá nhân. Hiện
nay phụ nữ đang phải chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới, đối với phụ nữ
DTTS họ chịu bất bình đẳng kép cả về dân tộc và về giới, họ đang phải đối

mặt với với rất nhiều phân biệt đối xử, là đối tượng yếu thế hơn trong gia
đình, cộng đồng và xã hội, họ chính là đối tượng trợ giúp của CTXH; Tuy
nhiên vai trò của CTXH trong hỗ trợ phụ nữ DTTS có hoàn cảnh đặc biệt còn
rất mờ nhạt, chủ yếu lồng ghép trong một số hoạt động của các tổ chức đoàn
thể như Hội phụ nữ, đoàn thanh niên…. Chính vì vậy, việc lựa chọn vấn đề
“Công tác xã hội đối với thúc đẩy bình đẳng giới trong gia đình dân tộc
thiểu số tại huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn” làm đề tài luận văn thạc sỹ
chuyên ngành Công tác xã hội sẽ có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn cấp
bách. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần thúc đẩy bình đẳng giới
trong các gia đình dân tộc thiểu số, đem lại công bằng, bình đẳng và khẳng
định vị thế, vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong gia đình và xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu về bình đẳng giới và bình đẳng giới ở vùng dân tộc
thiểu số
Thúc đẩy bình đẳng giới trên cả nước nói chung và bình đẳng giới trong
các gia đình DTTS nói riêng đang là một vấn đề vừa cấp bách, vừa mang tính
lâu dài. Trong những năm gần đây, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của
các học giả trong và ngoài nước nghiên cứu, đề cập một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp tới vấn đề bình đẳng giới ở vùng DTTS, có thể thấy như:
Sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam, nhất là
trong hệ thống chính trị các cấp đã có những thay đổi nhất định trong những
năm qua, tuy nhiên tỷ lệ nữ tham gia chính trị ở các cấp không cao và chưa
đạt được chỉ tiêu đề ra. Đặc biệt, phụ nữ DTTS vẫn chiếm một tỷ lệ rất thấp
trong các cấp quản lý và đang bị tụt hậu về cơ hội, khả năng tiếp cận và thụ
hưởng các quyền của họ (UN Women, 2015).


Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào đội ngũ cán bộ
của hệ thống chính trị các cấp, nhất là cấp xã, cấp huyện còn rất hạn chế do họ
gặp rất nhiều trở ngại từ trình độ học vấn, nhận thức và các rào cản văn hoá. Một

số nghiên cứu cho rằng, gần 30 DTTS không có đại diện là nữ trong hệ thống
cơ quan quản lý Nhà nước về công tác dân tộc, ví dụ như dân tộc Mảng, La
Hủ, Cống, Cờ lao, La Ha, Pà Thẻn, Lự, Chứt, SiLa, Brâu, Rơ măm…. (UN
Women, 2015; Nguyễn Thị Hà, 2014). Một số nguyên nhân khiến phụ nữ bị
hạn chế cơ hội thăng tiến hơn so với nam được nêu lên là do trình độ chuyên
môn/kỹ năng thấp hơn so với nam giới (Lê Thị Kim Lan, 2012; Ngân hàng
Thế giới, 2011; PyD, 2011); phụ nữ gặp nhiều rào cản khi được đề cử tham
gia đào tạo/tập huấn hơn nam giới như bị định kiến về tính cách “thiếu quyết
đoán, an phận, chưa tự tin, ham muốn quyền lực kém hơn nam giới” và đặc
điểm này thể hiện rõ ở nhóm phụ nữ nông thôn, dân tộc thiểu số (Nguyễn
Thanh Lân, 2014; Trần Thị Minh Đức, 2012).
Mặt khác, một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra những hạn chế trong các
văn bản pháp luật và chính sách liên quan đến hỗ trợ thực hiện bình đẳng giới
ở vùng DTTS. Nghiên cứu về phát triển nguồn lực DTTS đến năm 2020 của
Uỷ ban Dân tộc cũng đã chỉ rõ, số lượng, cơ cấu và phân bổ nguồn lực DTTS
còn nhiều bất cập. Thể lực và trí lực của người DTTS đang có khoảng cách
thấp hơn rất nhiều so với mặt bằng chung của cả nước. Điều này thể hiện rõ
chính sách đối với vùng DTTS đang có những khoảng trống, chưa có những
chỉ tiêu cụ thể cho từng mục tiêu phát triển đối với vùng DTTS. Những nút
thắt về cơ chế và chính sách để có thể can thiệp và thực hiện các mục tiêu
Thiên niên kỷ ở vùng DTTS, trong đó có mục tiêu về tăng cường bình đẳng
nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ DTTS (Ngô Văn Hải, 2014, Nguyễn
Cao Thịnh và cộng sự, 2015).
Dưới góc độ giáo dục, phụ nữ DTTS thuộc gia đình nghèo ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn gặp nhiều trở ngại trong tiếp cận giáo dục.


Phụ nữ và trẻ em gái vẫn chiếm số đông trong số người ở độ tuổi từ 15 đến 40
trong dân số không biết đọc, biết viết (Nguyễn Hữu Minh và cộng sự, 2013).
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, chỉ số bình đẳng giới (tỷ lệ đi học đúng

tuổi - đã điều chỉnh của nữ/ tỷ lệ đi học đúng tuổi - đã điều chỉnh của nam)
của nhóm dân tộc thiểu số đã có chuyển biến từ hướng có nhiều trẻ em trai
hơn ở cấp trung học sang hướng có nhiều em gái hơn ở cấp trung học. Xu
hướng tỷ lệ đi học của trẻ em gái luôn cao hơn so với trẻ em trai ở tất cả các
dân tộc, trừ dân tộc Mông (UN Women và Ủy ban Dân tộc, 2015). Tuy nhiên,
so sánh với trình độ học vấn của phụ nữ người Kinh thì rõ ràng, trình độ học
vấn của phụ nữ DTTS luôn thấp hơn so với nhóm dân tộc Kinh. Có 20% số
phụ nữ dân tộc Kinh cho biết trình độ giáo dục của họ dưới mức tiểu học,
trong khi tỷ lệ này ở phụ nữ DTTS dao động từ 41,9% đến 75% (41,9% ở phụ
nữ dân tộc theo dòng phụ hệ, 58,9% ở phụ nữ dân tộc theo dòng mẫu hệ và
75% ở các nhóm song hệ), cao hơn 2-3 lần so với phụ nữ dân tộc Kinh. Năm
2014, tỷ lệ đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật của lao động nữ DTTS chỉ là
7,2% so với lao động nữ Kinh-Hoa là 17,6%. Trình độ của phụ nữ Hmông
thấp nhất trong các DTTS, chỉ có 1,4% đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật
(trích lại từ UNWomen và Ủy ban Dân tộc, 2015).
Về tiếp cận dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe, một số nghiên cứu đã
cho thấy, sự chênh lệch giữa tỷ lệ khám thai ít nhất 4 lần của nhóm phụ nữ
dân tộc Kinh và DTTS năm 2014 là 49,4 điểm phần trăm, cao hơn so với sự
chênh lệch giữa hai nhóm dân tộc năm 2010. Ngoài các yếu tố hạn chế hơn về
trình độ học vấn, mức sống, cơ hội tiếp cận với các dịch vụ y tế, tâm lý xấu
hổ, những khó khăn trong sử dụng tiếng Kinh cũng là yếu tố khiến phụ nữ
DTTS ngại đi khám thai (UNFPA, 2008). Sinh đẻ ở nhà vẫn được một số
nhóm phụ nữ DTTS lựa chọn với 30,7% phụ nữ DTTS sinh con ở nhà so với
0.5% phụ nữ dân tộc Kinh (Tổng cục Thống kê, 2015). Theo số liệu khảo sát


của Ủy ban Dân tộc năm 2016, tỷ lệ cán bộ, nhân viên y tế là nữ người DTTS
chiếm 30,4% tổng số cán bộ, nhân viên y tế ở các vùng dân tộc và miền núi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy phụ nữ DTTS có nhiều thiệt thòi và trở
ngại trong việc mua bảo hiểm y tế, chăm sóc sức khỏe, sức khỏe sinh sản, và

tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Nghiên cứu của Đặng Nguyên Anh và
cộng sự tại 5 tỉnh Tây Nguyên năm 2014 cho biết ngay cả khi các chính sách
bình đẳng giới và đầu tư phát triển cho đồng bào người dân tộc được chú
trọng, nhưng nguy cơ người phụ nữ DTTS vẫn bị loại trừ xã hội là rất lớn
(Đặng Nguyên Anh và cộng sự, 2015). Đánh giá về các chính sách thúc đẩy
bình đẳng giới vùng DTTS, có ý kiến cho rằng các chương trình can thiệp hỗ
trợ phụ nữ tại vùng sâu, vùng xa cũng được quan tâm và ban hành đáp ứng
được nhu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, một số thách thức được đề cập đến trong
quá trình thực hiện các nội dung về bình đẳng giới là sự tồn tại dai dẳng của
những hủ tục lạc hậu, khả năng tiếp cận với các phương tiện thông tin đại
chúng còn hạn chế, kinh tế phát triển chậm… đặc biệt việc thiếu cán bộ có
trình độ, năng lực đáp ứng nhu cầu đã và đang là một rào cản lớn cho tiến
trình bình đẳng giới nói riêng và phát triển KT-XH nói chung tại vùng sâu,
vùng xa (Phạm Ngọc Tiến, 2015).
Xét trên các chiều cạnh giới, sự tách biệt xã hội về chăm sóc sức khỏe ở
Việt Nam thể hiện rõ xu hướng phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ DTTS luôn bị thiệt
thòi trong chăm sóc sức khỏe. Mức độ tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe
sinh sản của phụ nữ vùng nông thôn, vùng DTTS vẫn còn hạn chế và mức
giảm tỷ suất chết mẹ ở vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số trong 10
năm qua còn chậm. Phụ nữ trẻ dân tộc thiểu số và phụ nữ di cư gặp nhiều khó
khăn trong việc tiếp cận thông tin và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, bao
gồm cả dịch vụ kế hoạch hóa gia đình (UNFPA, 2017). Nhận thức của trẻ em
gái dân tộc thiểu số về sức khỏe sinh sản và tình dục cũng như thực hành vệ
sinh còn rất hạn chế, đặc biệt những em sống ở các trường nội trú. Vấn đề đặt


ra là phải có một đánh giá tổng hợp về vấn đề này, tìm ra các giải pháp có tính
khả thi để giải quyết vấn đề bình đẳng giới hiện nay ở vùng DTTS.
Trong lĩnh vực lao động việc làm, một số nghiên cứu đã có những đánh
giá khá cụ thể về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông

thôn, chính sách dạy nghề đối với học sinh DTTS, nội trú và chính sách dạy
nghề cho người tàn tật. Kết quả cho thấy, người nghèo và phụ nữ ở vùng sâu
vùng xa, vùng DTTS khó có thể theo học được các khóa dạy nghề theo cơ chế
hiện hành, vì khi tham gia khóa học họ phải bỏ công việc gia đình, làm ảnh
hưởng tới nguồn thu nhập của gia đình. Một số ngành nghề đào tạo chưa phù
hợp với thực tiễn thị trường lao động ở địa phương. Ngoài ra, vốn hỗ trợ cho
chị em phụ nữ làm kinh tế từ chương trình MTQG giảm nghèo còn rất hạn
chế so với nhu cầu vốn vay. Danh mục nghề đào tạo của quốc gia và nghề đào
tạo của các cơ sở dạy nghề còn ít và chưa có nhiều nghề “hấp dẫn” với lao
động nữ, trong khi đó; phương pháp đào tạo, hình thức tổ chức các khoá học
nghề chưa “nhạy cảm giới”, chưa quan tâm đến nhu cầu thực tế của các nhóm
lao động nữ nghèo, nông thôn, DTTS (trích lại từ Ủy ban dân tộc, UN
Women, 2015).
Các chính sách hướng tới giảm thiểu bất bình đẳng giới nói chung và
bất bình đẳng giới đối với các nhóm tách biệt xã hội, cần mang tính toàn diện
và đảm bảo những người thuộc nhóm yếu thế phải được hòa nhập và tiếp cận
một cách bình đẳng đối với các cơ hội và thành quả của sự phát triển. Theo
Sacaceno (2001), các chính sách cần phải đảm bảo cả phụ nữ và nam giới
thuộc các nhóm xã hội khác nhau phải được tiếp cận bình đẳng về thị trường
lao động, về giáo dục, về chăm sóc sức khỏe, về hệ thống tư pháp và các
quyền liên quan tới việc ra quyết định và sự tham gia xã hội (Dẫn theo
Johoel-Gijsbers, 2007).
Dưới góc độ văn hóa tộc người, một số nghiên cứu cụ thể đã có những
phân tích khá rõ nét về vai trò giới trong gia đình một số tộc người miền núi


phía Bắc (Đỗ Thị Bình, 2001), vị thế của người phụ nữ Hmông trong gia đình
và xã hội (Đặng Thị Hoa, 2001), thực trạng bình đẳng giới trong gia đình ở
một số tộc người như Ê đê (Nguyễn Minh Tuấn, 2012). Đáng chú ý là một
nghiên cứu đánh giá khá chi tiết và sâu sắc về hiện trạng bất bình đẳng giới

trong cộng đồng DTTS do tổ chức Isee, Oxfarm và ActionAid thực hiện năm
2010. Nghiên cứu này đã chỉ rõ những bất bình đẳng trong phân công lao
động, việc làm, giáo dục, y tế và vị thế của người phụ nữ dân tộc Gia rai và
Chăm ở tỉnh Gia Lai và An Giang.
Đáng chú ý là nghiên cứu của Vũ Hồng Anh (2010) “Báo cáo hiện
trạng bất bình đẳng giới trong cộng đồng người dân tộc thiểu số”, đã đánh
giá vai trò, vị trí và tiếng nói của nam và nữ giới DTTS do ảnh hưởng của các
thể chế khác nhau. Nghiên cứu về “Bình đẳng giới trong gia đình dân tộc
thiểu số ở vùng Đông Bắc nước ta hiện nay” của Nguyễn Lệ Thu (2012) đã
làm rõ thực trạng, những vấn đề đặt ra đối với vấn đề bình đẳng giới trong gia
đình DTTS ở vùng Đông Bắc nước ta, đồng thời đề xuất những giải pháp cơ
bản nhằm khắc phục sự bất bình đẳng về giới, nâng cao vị thế người phụ nữ
trong gia đình, góp phần xây dựng gia đình văn hóa và phát triển KT-XH.
Luận văn thạc sĩ Xã hội học về “Thực hiện bình đẳng giới ở các tỉnh miền núi
nước ta hiện nay”, khảo sát tại Yên Bái và Hà Giang; Luận án tiến sĩ Triết
học về “Quan hệ giới trong gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt
Nam hiện nay” (Nguyễn Thị Hà, 2012), v.v. Các nghiên cứu này đã đề cập
trực tiếp đến vấn đề bình đẳng giới ở vùng DTTS dưới các góc độ triết học,
tâm lý học hay xã hội học.
2.2. Tình hình nghiên cứu về bình đẳng giới ở vùng dân tộc thiểu số từ góc độ
công tác xã hội
Dưới góc độ công tác xã hội, một số nghiên cứu đã bước đầu tìm hiểu
về vai trò của nhân viên CTXH ở vùng DTTS. Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội đã ban hành cuốn tài liệu về CTXH với các DTTS năm 2017, bộ tài


liệu dùng cho cán bộ cấp xã với các nội dung hướng dẫn về đặc trưng văn hóa
tộc người, vấn đề nghèo đói, vấn đề văn hóa và lối sống, chăm sóc sức khỏe,
… cho người DTTS. Đây là bộ tài liệu cẩm nang rất hữu ích đối với cán bộ
làm CTXH ở vùng DTTS. Cũng trong chương trình hỗ trợ giảm nghèo cho

đồng bào DTTS, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã tổ chức hội thảo về
CTXH trong phát triển nông thôn - miền núi ở Việt Nam năm 2016. Tại Hội
thảo, các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách đã phân tích và làm rõ vai trò
của CTXH đối với người nghèo DTTS là giúp họ học cách đáp ứng và tiếp cận
với nhu cầu phát triển, từ đó vươn lên giảm nghèo.
Một số luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu trực tiếp về CTXH đối với
DTTS. Ngô Tấn Khoa đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ tại Học viện
Khoa học xã hội với đề tài “Công tác xã hội đối với người nghèo dân tộc
thiểu số từ thực tiễn huyện Đắk Hà, tỉnh Kon Tum”. Tác giả Lê Kim Thắng đã
hoàn thành luận văn về “Công tác xã hội với vấn đề giảm nghèo ở người dân
tộc thiểu số tại xã Ianan, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai”.
Ngoài ra, đã có nhiều khá nhiều luận văn nghiên cứu về nghề CTXH,
trong đó ít nhiều có đề cập đến CTXH ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc
thiểu số và miền núi.
Như vậy, từ tổng quan tài liệu cho thấy, đã có nhiều công trình nghiên
cứu, phân tích về tình trạng bất bình đẳng giới đang diễn ra ở vùng DTTS sâu
sắc hơn bình diện chung của cả nước đặc biệt ở một số lĩnh vực cơ bản như
việc làm, giáo dục, y tế, đời sống gia đình,… Tuy nhiên, chưa có công trình
nghiên cứu nào tiếp cận từ góc độ CTXH thúc đẩy bình đẳng giới trong gia
đình DTTS ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Vì vậy, nghiên cứu này vừa có
tính kế thừa, vừa có tính mới và không trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
*Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu thực trạng CTXH trong lĩnh vực bình đẳng giới tại các gia
đình DTTS ở huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn, từ đó đề xuất các giải pháp và
khuyến nghị nhằm tăng cường hoạt động CTXH thúc đẩy bình đẳng giới


trong gia đình DTTS.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Thứ nhất, hệ thống hóa lý luận CTXH về bình đẳng giới.
- Thứ hai, mô tả, đánh giá thực trạng CTXH trong lĩnh vực bình đẳng giới tại các
gia đình DTTS ở một số xã huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
- Thứ ba, đề xuất các quan điểm, giải pháp tăng cường hoạt động CTXH nhằm
thúc đẩy bình đẳng giới trong các hộ gia đình DTTS ở một số xã tại huyện
Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động CTXH ở vùng DTTS
về bình đẳng giới.
Khách thể khảo sát bao gồm: Cán bộ ban ngành huyện Cao Lộc, cán bộ
chủ chốt cấp xã, cán bộ làm công tác xã hội hoặc quản lý nhà nước về công
tác dân tộc; chủ hộ, thành viên các hộ gia đình DTTS tại một số xã thuộc
huyện Cao Lộc.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về không gian: Tại hai xã Gia Cát và Công Sơn của huyện Cao Lộc
tỉnh Lạng Sơn.
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu các vấn đề từ năm 2017 đến nay
- Phạm vi nội dung: CTXH trong thúc đẩy bình đẳng giới trong quan hệ gia
đình dân tộc thiểu số
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người, về công tác
dân tộc và chính sách dân tộc, về đảm bảo bình đẳng giới và chính sách thúc
đẩy bình đẳng giới đối với đồng bào DTTS ở Việt Nam đã được thể hiện tại


Quyết định số 1898/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án
“Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng DTTS giai đoạn 2018-2025” với mục

tiêu tổng quát là “Tạo sự chuyển biến tích cực trong thực hiện bình đẳng giới
và nâng cao vị thế của phụ nữ ở vùng DTTS, góp phần thúc đẩy thực hiện
thành công các mục tiêu của Chiến lược quốc gia bình đẳng giới”.
5.2.Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập dữ liệu, thông tin:
Phỏng vấn trực tiếp, thảo luận nhóm; Thu thập phân tích tài liệu, văn
bản, các công trình đã công bố về bình đẳng giới ở vùng DTTS.
Luận văn đã sử dụng phần số liệu khảo sát tại huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng
Sơn của đề tài cấp quốc gia: “Một số vấn đề cơ bản về bình đẳng giới ở vùng
dân tộc thiểu số nước ta”, mã số: CTDT.21.17/16-20 (2017-2020) với sự đồng ý
của GS. Nguyễn Hữu Minh, chủ nhiệm đề tài. Với bộ phiếu hỏi hộ gia đình, luận
văn đã phân tích 521 phiếu điều tra để làm rõ những mối liên hệ giữa các yếu tố
như dân tộc, giới tính, tuổi, thu nhập,… với quyền ra quyết định trong gia đình,
quyền sở hữu nhà đất, tài sản, phân công lao động, bạo lực gia đình...
Bảng 1: Số lượng mẫu khảo sát chia theo dân tộc và địa bàn cấp xã
của huyện Cao Lộc
Dân tộc
Tày
Dao
Nùng
Tổng cộng

Số lượng/tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng

Tỷ lệ %


Công Sơn
0
0,0
200
100,0
0
0,0
200
38,4

Gia Cát
150
100,0
0
0,0
171
100,0
321
61,6

Tổng cộng
150
100,0
200
100,0
171
100,0

521
100,0

Về đặc điểm giới tính, trong tổng số mẫu 521 người được khảo sát, có
285 nam giới (chiếm 54,7%) và 236 nữ giới (chiếm 45,3%). Như vậy có thể
đảm bảo được sự cân bằng giới tính trong tổng số mẫu khảo sát.


- Phương pháp xử lý số liệu thống kê có sẵn: Dựa trên nguồn số liệu có sẵn từ
các cuộc điều tra, nghiên cứu về dân tộc, về bình đẳng giới.
- Phương pháp định tính: Phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm với cán bộ quản lý
nhà nước cấp xã, chủ tịch hội phụ nữ và một số hội trưởng hội phụ nữ xã các
vấn đề liên quan đến bình đẳng giới trong gia đình, qua đợt khảo sát thực tế
tại huyện Cao Lộc của tác giả trong thời gian thực địa từ ngày 6/11 đến ngày
14 tháng 11 năm 2019 .
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Về lý luận:
Đề tài sẽ góp phần quan trọng trong việc bổ sung, củng cố cơ sở lý luận
và thực tiễn về bình đẳng giới và vai trò của CTXH đối với bình đẳng giới
trong DTTS.
* Về thực tiễn:
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm hạn chế tình trạng bất bình đẳng giới
trong các hộ gia đình DTTS huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn từ góc nhìn của
CTXH.
- Là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nghiên cứu có liên quan, phục vụ
nghiên cứu, giảng dạy tại Ủy ban Dân tộc, Học viện Dân tộc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về bình đẳng giới và công tác xã

hội thúc đẩy bình đẳng giới trong gia đình Dân tộc thiểu số;
Chương 2: Thực trạng bình đẳng giới và công tác xã hội đối với thúc đẩy
bình đẳng giới trong gia đình Dân tộc thiểu số huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn:
Chương 3: Giải pháp tăng cường hoạt động Công tác xã hội thúc đẩy
bình đẳng giới trong các hộ gia đình Dân tộc thiểu số ở huyện Cao Lộc, tỉnh
Lạng Sơn.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẨNG GIỚI VÀ CÔNG
TÁC XÃ HỘI THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH
DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Một số khái niệm về giới và bình đẳng giới trong gia đình dân tộc thiểu số
1.1.1. Giới và giới tính
Tại Điều 5 Luật Bình đẳng giới của Quốc hội khóa XI, ban hành ngày
29 tháng 11 năm 2006 đã chỉ rõ:
Giới: Chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối
quan hệ xã hội.
Giới tính: Chỉ các đặc điểm sinh học của nam và nữ.
Khái niệm giới và giới tính cho thấy: Giới tính thì không thể thay đổi
được; Giới có thể thay đổi được phụ thuộc vào thời gian, sự quyết tâm của các
cấp chính quyền và của toàn xã hội.
Trong cuộc sống, nam và nữ đều tham gia vào mọi hoạt động của đời
sống xã hội, tuy nhiên mức độ tham gia của nam và nữ trong các loại công
việc là khác nhau do những quan niệm, các chuẩn mực xã hội quy định.
Những công việc mà họ đảm nhận được gọi là “vai trò giới”.
Vai trò giới là tập hợp các hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi ở nam và
nữ liên quan đến những đặc điểm giới tính và năng lực mà xã hội coi là thuộc
về nam giới hoặc thuộc về nữ giới trong một xã hội hoặc một nền văn hóa cụ
thể nào đó.

Vai trò giới được quyết định bởi các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội. Phụ
nữ và nam giới thường có 3 vai trò như: vai trò sản xuất, vài trò tái sản xuất
và vai trò cộng đồng.


1.1.2. Bình đẳng giới, bất bình đẳng giới và thúc đẩy bình đẳng giới
- Bình đẳng giới:
Khái niệm “bình đẳng giới” được quy định trong khoản 3, điều 5 của Luật
Bình đẳng giới của Quốc hội khóa XI, ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2006.
Theo đó, “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng,
của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
Nội dung của luật bình đẳng giới đã chỉ rõ bình đẳng giới trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội và gia đình:
+ Bình đẳng trong lĩnh vực chính trị
+ Bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế
+ Bình đẳng trong lĩnh vực lao động
+ Bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
+ Bình đẳng trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
+ Bình đẳng trong lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao
+ Bình đẳng trong lĩnh vực y tế
+ Bình đẳng trong gia đình
Nội dung bình đẳng giới trong gia đình là một trong tám nội dung của
Luật bình đẳng giới có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007, với
các quy định cụ thể:
+ Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ
khác liên quan đến hôn nhân và gia đình;
+ Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản
chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết
định các nguồn lực trong gia đình;

+ Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa
chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian
nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật;


+ Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện
như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển’
+ Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công
việc gia đình;
Khi bàn về bình đẳng giới, chú ý đến phân biệt các cấp độ khác nhau,
mà ở đây chủ yếu nói về hai cấp độ chính là bình đẳng trên văn bản và bình
đẳng thực tế. Hai cấp độ này đều có tầm quan trọng riêng và bổ sung cho
nhau. Bình đẳng trên văn bản có nghĩa là các nguyên tắc bình đẳng ghi nhận
trong pháp lý. Nó có phạm vi tác động rộng lớn, lâu dài. Bình đẳng trên thực
tế là kết quả đạt được của việc thực hiện các nguyên tắc bình đẳng ghi nhận ở
văn bản pháp lý. Bình đẳng trên thực tế là lợi ích phụ nữ được hưởng trên cơ
sở bình quyền với nam giới. Tuy vậy, những lợi ích thiết thực này thường biến
động do tác động của nhiều yếu tố trong đó nổi bật là tình hình phát triển kinh
tế - xã hội và hiệu quả giám sát của thực hiện các chủ trương, chính sách.
Bất bình đẳng giới: là sự phân biệt đối xử với nam, nữ về vị thế, điều
kiện và cơ hội bất lợi cho nam hoặc nữ trong việc thực hiện quyền con người,
đóng góp và hưởng lợi từ sự phát triển của gia đình, của đất nước.
Nói cách khác, bất bình đẳng giới là sự đối xử khác biệt với nam giới
và phụ nữ tạo nên các cơ hội khác nhan, sự tiếp cận các nguồn lực khác nhau,
sự thụ hưởng khác nhau giữa nam và nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên thực tế có thể thấy, sự phân biệt đối xử và bất bình đẳng giới xảy
ra ở hầu hết các xã hội. Sự phân biệt đối xử thường được thấy ở bốn lĩnh vực
là: giáo dục, chăm sóc sức khỏe, tiếp cận cơ hội kinh tế và tham gia lãnh đạo
hay tham chính. Sự phân biệt đối xử này xuất phát từ quan niệm dập khuôn
cho rằng phụ nữ có ít quyền tự quyết hơn, có ít nguồn lực để sử dụng hơn và

có ít ảnh hưởng đối với quá trình ra quyết định có liên quan tới xã hội và cuộc
sống riêng của họ. Nó đặt người phụ nữ vào một vị trí phải phục tùng và bất
lợi so với nam giới.


Thúc đẩy bình đẳng giới: là những hoạt động kích thích, tạo điều
kiện, động lực cho hoạt động bình đẳng giới; tạo điều kiện cho phụ nữ phát
huy được năng lực bản thân, có cơ hội học hành, cơ hội việc làm đảm bảo
được thu nhập cũng như sức khỏe của mình để hoàn thành thiên chức làm mẹ,
làm vợ và các hoạt động xã hội.
Tại Điều 19 Luật Bình đẳng giới đã chỉ rõ các biện pháp thúc đẩy bình
đẳng giới bao gồm:
+ Quy định tỷ lệ nam, nữ hoặc bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng tham gia,
thụ hưởng;
+ Đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ năng lực cho nữ hoặc nam;
+ Hỗ trợ để tạo điều kiện, cơ hội cho nữ hoặc nam;
+ Quy định tiêu chuẩn, điều kiện đặc thù cho nữ hoặc nam;
+ Quy định nữ được quyền lựa chọn trong trường hợp nữ có đủ điều
kiện, tiêu chuẩn như nam;
+ Quy định việc ưu tiên nữ trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu
chuẩn như nam;
+ Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được quy định tại khoản 5
Điều 11, khoản 2 Điều 12, khoản 3 Điều 13, khoản 5 Điều 14 của Luật này.
1.1.3. Dân tộc thiểu số và bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số
Dân tộc thiểu số:
Tại khoản 2, Điều 4, Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011
của Chính phủ về Công tác dân tộc đã nêu: “DTTS là những dân tộc có số
dân ít hơn so với các dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Việt Nam”;
Dân tộc đa số là dân tộc có số dân chiếm trên 50% tổng dân số cả nước (Tại
Việt Nam dân tộc Kinh chiếm 85,7% tổng dân số cả nước, do vậy 53 dân tộc

còn lại đều là DTTS).
Theo số liệu Điều tra thực trạng KT-XH của 53 DTTS năm 2015, tổng
dân số của 53 DTTS có 13,4 triệu người, chiếm 14,6% dân số cả nước; có 6


dân tộc trên 1 triệu người (Tày, Thái, Mường, Mông, Nùng, Khmer), 16 dân
tộc dưới 10.000 người, trong đó có 5 dân tộc dưới 1000 người là Ơ Đu, Brâu,
Rơ Măm, Pu Péo và Si La.
Đồng bào DTTS sinh sống thành cộng đồng ở 51 tỉnh/thành phố (có 9
tỉnh đồng bào DTTS chiếm trên 70% dân số, 3 tỉnh chiếm từ 50-70% dân số,
4 tỉnh từ 30-50% dân số, 14 tỉnh trên 10% dân số), 548 huyện, 5266 xã trong
cả nước. Trong đó phân bố chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam
Bộ, Tây Duyên hải miền Trung. Địa bàn cư trú chủ yếu của đồng bào DTTS là
vùng núi cao, biên giới, vùng có điều kiện KT-XH khó khăn và đặc biệt khó
khăn.
Bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số:
Trong luận văn này, khái niệm bình đẳng giới vùng DTTS được xác
định là tình trạng vị thế của nam và nữ trong bối cảnh văn hóa tộc người vùng
DTTS. Theo đó, bên cạnh những vị thế trong gia đình, cộng đồng và xã hội,
luận văn còn xem xét đến các khía cạnh điều kiện và cơ hội phát triển của cá
nhân và của cộng đồng cũng những mức độ thụ hưởng và tiếp cận các dịch
vụ xã hội về thành quả của sự phát triển theo đặc trưng văn hóa tộc người
thiểu số.
1.2. Lý luận về Công tác xã hội trong lĩnh vực bình đẳng giới
1.2.1. Công tác xã hội
Theo NASW (Hiệp hội quốc gia những người làm công tác xã hội của
Hoa Kỳ): “CTXH là một chuyên ngành được sử dụng để giúp đỡ cá nhân,
nhóm hoặc cộng đồng tăng cường hoặc khôi phục năng lực thực hiện chức
năng xã hội của họ và tạo ra những điều kiện thích hợp nhằm đạt được
những mục tiêu ấy”.

Theo Bùi Thị Xuân Mai: “CTXH có thể hiểu là một nghề, môt hoạt
động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng
cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy


×