Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ ANH TUẤN

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI BẮT, GIỮ HOẶC GIAM NGƢỜI
TRÁI PHÁP LUẬT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ ANH TUẤN

ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI BẮT, GIỮ HOẶC GIAM NGƢỜI
TRÁI PHÁP LUẬT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI)
Chuyên ngành :Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản


HÀ NỘI – 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Anh Tuấn

i


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
NGƢỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... i
MỤC LỤC ............................................................................................................ ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................... v
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................ 3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .................................................... 4
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài............................................................ 5

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 6
7. Kết cấu luận văn ................................................................................................ 7
CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI
TỘI BẮT, GIỮ HOẶC GIAM NGƢỜI TRÁI PHÁP LUẬT THEO LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................................................ 8
1.1. Khái niệm, phân loại và ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội bắt, giữ
hoặc giam người trái pháp luật .............................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật. 8
1.1.2. Phân loại các trường hợp định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật .......................................................................................... 13
1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái
pháp luật. ......................................................................................................... 18
1.2. Cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc
giam người trái pháp luật .................................................................................... 20
1.2.1. Cơ sở pháp lý của định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái
pháp luật .......................................................................................................... 20
ii


1.2.2. Cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người
trái pháp luật .................................................................................................... 23
1.3. Các giai đoạn định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật... 26
1.3.1. Thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ chứng minh sự thật của
vụ án bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật .................................................. 27
1.3.2. So sánh, đối chiếu các tình tiết của vụ án đã được làm rõ với quy định
của Điều 157 BLHS để xác định sự tương đồng .............................................. 30
1.3.3. Đưa ra kết luận về tội danh người đã thực hiện hành vi quy định tại Điều
157 BLHS ........................................................................................................ 35
Kết luận chương I ................................................................................................ 37

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI BẮT,
GIỮ HOẶC GIAM NGƢỜI TRÁI PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ..................................................................................................... 39
2.1. Khái quát đặc điểm tình hình thành phố Hà Nội có liên quan đến định tội
danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật .................................... 39
2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, dân cư thành phố Hà Nội 39
2.1.2. Tình hình thụ lý, giải quyết vụ án hình sự về tội bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật .......................................................................................... 45
2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật .. 57
2.2.1. Định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong
trường hợp tội phạm hoàn thành ...................................................................... 57
2.2.2. Định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong
các trường hợp đặc biệt.................................................................................... 63
2.2.3. Một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản ............................... 68
Kết luận chương II............................................................................................... 75

iii


CHƢƠNG III: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI BẮT, GIỮ HOẶC GIAM NGƢỜI TRÁI
PHÁP LUẬT ...................................................................................................... 77
3.1. Các yêu cầu bảo đảm chất lượng định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc
giam người trái pháp luật .................................................................................... 77
3.1.1. Yêu cầu về chính trị, xã hội ................................................................... 77
3.1.2. Yêu cầu về lý luận và thực tiễn .............................................................. 81
3.1.3. Yêu cầu về lập pháp hình sự .................................................................. 83
3.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017 nhằm nâng cao chất lượng của việc định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc
giam người trái pháp luật ...................................................................................... 86

3.3. Giải pháp tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn thi hành pháp luật . 90
3.4. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp định tội danh đối với tội bắt,
giữ hoặc giam người trái pháp luật ..................................................................... 92
3.4.1. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và làm tốt công tác tổ chức,
cán bộ tư pháp, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán ............................................... 92
3.4.2. Tăng cường giám đốc xét xử, xây dựng án lệ ........................................ 93
3.4.3. Nâng cao ý thức pháp luật của người dân về tội bắt, giữ hoặc giam người
trái pháp luật .................................................................................................... 94
KẾT LUẬN CHUNG ........................................................................................ 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 99

iv


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

BLDS

Bộ luật dân sự

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


TNHS

Trách nhiệm hình sự

PLHS

Pháp luật hình sự

UBND

Ủy ban nhân dân

v


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Định tội danh là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự, là tiền đề cho việc phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt
một cách công minh, chính xác đồng thời là cơ sở cho việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn, xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử của các cơ
quan tiến hành tố tụng, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức và công dân.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại là một trong
những quyền tự do cá nhân rất quan trọng của công dân. Rộng hơn nữa, nó
còn được coi như một quyền cơ bản của con người được công nhận tại Điều 9
Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948: “Không ai bị bắt, giam
giữ hay đày đi nơi khác một cách độc đoán”. Điều 9 Công ước quốc tế về

Các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng ghi nhận: “Ai cũng có quyền
tự do thân thể và an ninh thân thể. Không ai có thể bị bắt giữ hay giam cầm
độc đoán. Không ai có thể bị tước đoạt tự do thân thể ngoại trừ những trường
hợp và theo những thủ tục luật định”. Trên cơ sở này, Điều 20 Hiến pháp
Việt Nam năm 2013 đã quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không
bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác
xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị
bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn
của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt,
giam, giữ người do luật định”. Từ các quy định của pháp luật quốc tế và Hiến
pháp, vấn đề bắt, giữ hoặc giam người được BLTTHS năm 2015 cụ thể hóa
bằng nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự Việt Nam - nguyên tắc bảo đảm

1


quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 10) [42] và hàng loạt các quy
định chặt chẽ về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp bắt,
giữ hoặc giam người. Ngoài ra, dưới góc độ pháp lý, việc tạm giữ người theo
thủ tục hành chính cũng được quy định chặt chẽ trong Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Do đó, bất kỳ
người nào xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân
thông qua hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì tùy theo tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đều phải bị xử lý bằng chế tài hành
chính hay chế tài hình sự.
Trên thực tiễn hiện nay, mặc dù PLHS và các văn bản quy phạm pháp
luật có liên quan đã quy định ngày càng chặt chẽ hơn trong việc bảo vệ các
quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, tuy nhiên tội
bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là một loại tội phạm vẫn đang diễn ra

tương đối phổ biến. Bên cạnh đó, việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này
cũng đang còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do một số quy định pháp luật
liên quan còn chưa chặt chẽ, rõ ràng; hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái
pháp luật ngày càng phát sinh nhiều biến tướng khiến cho việc định tội danh
không thể tiến hành một cách dễ dàng, nhanh chóng được. Vì vậy, việc áp
dụng loại tội phạm này cũng cần được đánh giá tổng quan qua thực tiễn xét
xử, thi hành pháp luật.
Do đó, để đảm bảo hơn nữa các quyền và tự do của con người, nhất là
quyền tự do thân thể của công dân, đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu nghiêm
túc và đầy đủ trên phương diện lý luận và tổng kết thực tiễn. Chính vì vậy, tác
giả đã quyết định lựa chọn đề tài “Định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa
bàn thành phố Hà Nội)” làm luận văn thạc sĩ luật học.

2


2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học và các tác giả
đã có những luận văn thạc sĩ, sách, giáo trình cùng rất nhiều các bài viết được
công bố trên các tạp chí khoa học chuyên ngành nghiên cứu ở các mức độ
khác nhau. Trong đó, đáng chú ý là một số công trình khoa học sau: 1) PGS.
TSKH Lê Cảm: Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh, chương I, Giáo
trìnhLHS Việt Nam (phần các tội phạm) của khoa Luật trực thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội (Tập thể tác giả do PGS. TSKH Lê Cảm chủ biên), Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2003; 2) Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản: Định tội danh lý luận, hướng dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2004; 3) Trịnh Quốc Toản: Một số vấn đề lý luận về định tội danh và
hướng dẫn phương pháp định tội danh, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; 4) Lê
Cảm: Định tội danh - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân
dân các số 3, 4, 5, 8, 11 năm 1999; 5) Phạm Hồng Hải và Lê Cảm: “Chương

5 - Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân”, trong sách: Giáo
trìnhLHS Việt Nam (Phần các tội phạm), Tập thể tác giả do PGS. TSKH. Lê
Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003; 6) Trần Văn Luyện:
“Chương XIII - Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, trong
sách: Bình luận khoa học BLHS 1999 (Phần các tội phạm), Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2001; 7) Đinh Văn Quế: Bình luận khoa học BLHS, tập 4:
“Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; xâm phạm chế độ
hôn nhân và gia đình; xâm phạm hoạt động tư pháp”, Nxb Lao động, 2012;
8) Nguyễn Thị Thanh: Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong
BLHS Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, 2009; 9) Đỗ Đức Hồng Hà: Tội bắt, giữ
hoặc giam người trái pháp luật trong BLHS năm 1999, Tạp chí Kiểm sát số
2, 2002; 10) Trịnh Tiến Việt: Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của
công dân: Một số khía cạnh pháp lý hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6,
3/2007; 11) Trịnh Tiến Việt, Nguyễn Thị Thanh: Pháp luật về tội bắt, giữ
hoặc giam người trái pháp luật và kiến nghị sửa đổi, bổ sung, Tạp chí nghiên

3


cứu lập pháp, 2/2012; 12) Lê Văn Luật: Bàn về tội bắt, giữ hoặc giam người
trái pháp luật quy định tại Điều 123 BLHS, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 23,
12/2007…
Những công trình, bài viết kể trên đã nghiên cứu được một số vấn đề
mang tính lý luận và thực tiễn về tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
trong BLHS 1999. Hiện nay, BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã
có hiệu lực và được áp dụng trên thực tế nhưng vẫn chưa có công trình
nghiên cứu chuyên sâu nào về định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội, chính vì vậy Luận văn
thạc sĩ này sẽ tập trung nghiên cứu chuyên sâu về những quy định của BLHS
năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về tội bắt, giữ hoặc giam người trái

pháp luật để có cái nhìn toàn diện nhất, cụ thể nhất về nội dung và thực tiễn
định tội danh, từ đó chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và định hướng tiếp tục
hoàn thiện các quy định PLHS hiện hành trong thời gian tới.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát của công trình nghiên cứu này là phân tích khoa
học để làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung
và định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nói riêng,
cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ đó
đưa ra đề xuất yêu cầu và những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của
việc định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ
Từ mục tiêu nghiên cứu tổng quát nêu trên, luận văn đặt ra những
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
- Xây dựng khái niệm định tội danh và định tội danh đối với tội bắt,
giữ hoặc giam người trái pháp luật;

4


- Phân loại và nêu ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội bắt, giữ
hoặc giam người trái pháp luật;
- Phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của việc định tội danh đối
với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, cũng như các giai đoạn định
tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật;
- Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc
giam người trái pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ đó chỉ ra những
tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản;
- Luận chứng và đề xuất yêu cầu và những giải pháp nâng cao chất

lượng, hiệu quả của việc định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người
trái pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, cả nước nói chung.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài phân tích dựa trên những số liệu thực tế về định tội danh đối với
tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. Do
đó, những điểm mới cơ bản của luận văn như sau:
- Xây dựng khái niệm định tội danh và định tội danh đối với tội bắt,
giữ hoặc giam người trái pháp luật;
- Phân loại và nêu ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội bắt, giữ
hoặc giam người trái pháp luật;
- Phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của việc định tội danh đối
với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật; cũng như các giai đoạn định
tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật;
- Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc
giam người trái pháp luật trong BLHS Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà
Nội, từ đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản;
- Luận chứng và đề xuất yêu cầu và những giải pháp nâng cao chất
lượng, hiệu quả của việc định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người
trái pháp luật trong BLHS Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng,
cả nước nói chung.

5


5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung nghiên cứu về thực tiễn
định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật
hình sự Việt Nam trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội.
5.2. Phạm vi nghiên cứu

Do nội dung nghiên cứu của đề tài liên quan đến đối tượng là thực tiễn
hoạt động định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây, do đó, đây là một
đề tài có nhiều tính mới, đồng thời cũng mang tính thời sự, thực tiễn cao. Bên
cạnh đó, nội dung mà đề tài nghiên cứu cũng hết sức chuyên sâu, phức tạp cả
về PLHS cũng như hoạt động định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật. Do đó, để đảm bảo giá trị thực tiễn và cả giá trị khoa học
pháp lý hình sự, tác giả xác định phạm vi nghiên cứu của chương I luận văn
là những vấn đề lý luận về định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người
trái pháp luật; chương II luận văn sẽ tập trung đi sâu thực trạng định tội danh
đối với tội danh này trên địa bàn thành phố Hà Nội theo quy định của PLHS
hiện hành có liên quan; dựa trên những có sở lý luận và thực tiễn nêu trên, tại
chương III của luận văn, tác giả sẽ nghiên cứu các giải pháp, đề xuất các
phương án nhằm giải quyết các vướng mắc, bất cập thực tiễn và hoàn thiện
pháp luật có liên quan.
Về không gian và thời gian, luận văn nghiên cứu các văn bản PLHS
Việt Nam hiện hành và các vấn đề, vụ việc tình huống phát sinh liên quan
đến thực tiễn hoạt động định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người
trái pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2014 đến năm 2018.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Công trình nghiên cứu thực hiện dựa trên việc kết hợp sử dụng các

6


phương pháp nghiên cứu khoa học có tính phổ biến trong khoa học xã hội và
nhân văn như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp
diễn giải, so sánh, hệ thống, ... để chứng minh cho những luận điểm được đưa
ra trong luận văn.
7. Kết cấu luận văn

Chương 1: Một số vấn đề chung về định tội danh đối với tội bắt, giữ
hoặc giam người trái pháp luật theo luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh đối
với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật.

7


CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI TỘI BẮT, GIỮ HOẶC GIAM NGƢỜI TRÁI PHÁP LUẬT
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, phân loại và ý nghĩa của việc định tội danh đối với
tội bắt, giữ hoặc giam ngƣời trái pháp luật
1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người
trái pháp luật.
Quyền con người và quyền công dân nói chung, hay cụ thể là quyền tự
do cá nhân, quyền tự do đi lại, quyền tự do bất khả xâm phạm về thân thể
luôn được xem là một trong những quyền cơ bản của con người được Hiến
pháp ghi nhận và Pháp luật quốc gia bảo vệ. Sự ghi nhận và bảo vệ của pháp
luật đối với các quyền này được xem như sự đảm bảo đương nhiên đối với
mỗi con người bởi nó là sự bảo đảm những vấn đề thiết yếu nhất mà mỗi con
người cần có được khi sinh sống và tồn tại [29, tr.17].
Để khẳng định về vai trò và vị trí của các quyền tự do thân thể, tự do đi
lại, tự do cá nhân, ...; Hiến chương của Liên hợp quốc năm 1945 cũng đã nêu
rõ rằng: “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân”
(Điều 6) hay việc mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân
được nêu tại Điều 9 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm
1966 (ICCPR). Điều này đồng nghĩa với việc, không ai được phép trước đi

các quyền tự do của một người bằng việc bắt, giữ hoặc giam người mà không
có lý do hoặc không tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó,
khoản 1 điều này cũng giải thích rõ ràng như một sự ghi nhận rằng: “Ai cũng
có quyền tự do thân thể và an ninh thân thể. Không ai có thể bị bắt giữ hay
giam cầm độc đoán. Không ai có thể bị tước đoạt tự do thân thể ngoại trừ
những trường hợp và theo những thủ tục luật định” (Khoản 1 Điều 9 Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966).

8


Như vậy, các nước trên thế giới đã và đang rất coi trọng các quyền tự
do cá nhân của con người, các quyền này được coi như những quyền cơ bản
và bất khả xâm phạm của mỗi con người. Tại Việt Nam cũng vậy, việc thừa
nhận và bảo đảm quyền con người, các quyền tự do cá nhân cũng đã được
Hiến pháp ghi nhận và pháp luật bảo vệ. Quyền tự do cá nhân, quyền bất khả
xâm phạm về thân thể đã được ghi nhận cụ thể tại Điều 20 Hiến pháp năm
2013 như sau: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân
thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có
quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do
luật định”[30]. Điều này đồng nghĩa với việc, Việt Nam cũng đã và đang coi
trọng các vấn đề về nhân quyền, xác định các quyền tự do cá nhân, quyền bất
khả xâm phạm về thân thể của cá nhân là các quyền con người cơ bản phải
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Hay có thể hiểu rằng, quyền tự do cá
nhân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể được Nhà nước bảo hộ trước bất
kỳ hành vi xâm hại nào về tự do, thân thể của người khác thông qua việc ghi
nhận tại Hiến pháp và cụ thể hóa bằng các điều luật theo quy định của pháp

luật có liên quan điều chỉnh hành vi tước đoạt, ngăn cản sự tự do, sự bất khả
xâm phạm về thân thể của người khác một cách trái pháp luật.
Việc được Hiến pháp ghi nhận các quyền tự do cá nhân, quyền bất khả
xâm phạm về thân thể là một yếu tố quyết định đến vai trò của các quyền này
đối với con người. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa với việc các quyền này
không thể bị xâm hại trên thực tế và nó được bảo đảm hoàn toàn bằng sự ghi
nhận của Hiến pháp hay quy định của pháp luật. Các quyền này có thể bị đe
dọa xâm hại và bị xâm hại bởi các hành vi bắt, giữ hoặc giam - các hành vi có

9


thể thực hiện nhằm hạn chế, ngăn cản hoặc tước đoạt đi sự tự do, sự bất khả
xâm phạm về thân thể của người khác. Các hành vi này được xem như là các
hành vi có tính chất nguy hiểm cho xã hội. Khi hành vi này được thực hiện,
dựa vào tính chất nguy hiểm của hành vi tác động đến các quyền của con
người, pháp luật sẽ có những quy phạm điều chỉnh khác nhau. Quy phạm điều
chỉnh mang tính nghiêm khắc nhất đối với hành vi này là các quy phạm của
pháp luật hình sự. PLHS Việt Nam xác định rõ hành vi này gắn với tội danh
Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS 2015, sửa đổi bổ
sung 2017).
Dưới góc nhìn khoa học pháp lý, hành vi bắt, giữ, hoặc giam người trái
pháp luật là hành vi tạo ra sự hạn chế, ngăn cản hoặc tước đoạt các quyền tự
do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm của người khác, đồng thời hành vi này
cũng được xem xét là hành vi có tính trái luật. Đặc biệt, đối tượng mà hành vi
này xâm hại là đối tượng có tính trừu tượng cao, không thể định hình cũng
như định lượng, do đó sự tác động của hành vi bắt, giữ hoặc giam đến đối
tượng này là vô cùng khó khăn trong quá trình xác định sự thật khách quan và
xác định mức độ thiệt hại.
Theo từ Đại từ điển tiếng Việt, các hành vi bắt, giữ hoặc giam là các

động từ chỉ các hành động “Bắt là nắm giữ lấy, không cho hoạt động tự do”
[28, tr.90]; “Giữ là làm cho ở nguyên một chỗ không xê dịch được” [28,
tr.647]; “Giam là ràng buộc, không cho tự do” và “Giam cầm là bắt giữ nhốt
vào một chỗ” [28, tr.620]. Như vậy, có thể nhận thấy hành vi bắt, giữ hoặc
giam người trái pháp luật thực sự là những hành vi xâm phạm nghiêm trọng
đến quyền tự do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người.
Bên cạnh đó, tính trái luật của hành vi này cũng được thể hiện rõ nét thông
qua việc trực tiếp vi phạm các quy định của luật hình sự về bắt, giữ hoặc giam
người. Pháp luật hình sự chỉ cho phép bắt, giữ hoặc giam người trong các

10


trường hợp sau: 1) Đối với hành vi bắt người, chỉ được thực hiện khi có đầy
đủ các căn cứ đối với bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong trường
hợp khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; 2) Đối với
hành vi giữ người, chỉ được thực hiện đối với những người bị bắt trong trường
hợp phạm tội quả tang hoặc bắt người trong trường hợp khẩn cấp không quá
thời hạn pháp luật hình sự cho phép tạm giữ; 3) Đối với hành vi giam người,
chỉ được phép thực hiện khi bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội
rất nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm
trọng nhưng có căn cứ cho rằng người này: Đã bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn khác nhưng vi phạm; Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định
được lý lịch của bị can; Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu
hiệu bỏ trốn; Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; Có hành vi
mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu
sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài
sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại,
người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Dưới góc độ pháp luật hình sự, tội danh Bắt, giữ hoặc giam người trái

pháp luật cũng mang tính chất cơ bản của các tội phạm khác như: 1) Là hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS; 2) Do người có năng lực
TNHS thực hiện; 3) Được thực hiện một cách vô ý hoặc cố ý; 4) Xâm phạm
đến quan hệ pháp luật được luật hình sự bảo vệ. Trong khi đó, các quyền tự
do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người đã và đang
được pháp luật hình sự bảo vệ, được quy định tại điều 157 BLHS hiện hành,
do đó, việc thực hiện hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật chính là
thực hiện hành vi gắn với tội danh Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật.
Tuy nhiên, việc áp dụng quy định của BLHS vào các vụ việc trên thực
tiễn là một quá trình rất đa dạng và phức tạp, trong đó có hoạt động xem xét,

11


đánh giá và xác định sự tương đồng về mặt pháp lý giữa hành vi trong vụ việc
thực tế và quy định của pháp luật, hay nói cách khác đó chính là hoạt động
định tội danh. Theo GS.TSKH.Lê Cảm thì: “Định tội danh là quá trình nhận
thức lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các
chúng cứ cứ tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự
để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do BLHS
quy định nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính
xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân
hóa TNHS một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [34, tr.21].
Có thể hiểu rằng, định tội danh là một hoạt động thực tiễn trong quá
trình áp dụng PLHS. Căn cứ vào các quy định của PLHS, các cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền xem xét, đánh giá và xác định một hành vi đã được thực
hiện trên thực tế có thỏa mãn các dấu hiệu phạm tội của tội danh đã được quy
định trong BLHS hay không, trên cơ sở đó đánh giá mức độ TNHS của người

thực hiện hành vi phạm tội này. Đây được xem là một hoạt động có tính tư
duy, logic đòi hỏi khả năng nhận diện vấn đề, khả năng xác định tình tiết, yếu
tố và khả năng đánh giá, so sánh sự vật, sự việc trong thực tiễn để đối chiếu
với các quy định của PLHS dưới góc nhìn pháp lý.
Do vậy, vấn đề định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái
pháp luật cũng sẽ được xem xét dưới góc độ đánh giá, đối chiếu hành vi xâm
phạm đến các quyền tự do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong
thực tiễn vụ việc có tương đồng với quy định của PLHS về tội bắt, giữ hoặc
giam người trái pháp luật hay không? Có thể định như sau: Định tội danh đối
với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là việc tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền tiến hành hoạt động xác minh, đánh giá, xem xét tính nguy hiểm của

12


hành vi đã thực hiện đối với xã hội, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tự do
cá nhân của con người, được thực hiện một cách cố ý bởi bất kỳ một người nào
có đủ năng lực TNHS thực hiện với bất kỳ động cơ, mục đích nào trái với quy
định của pháp luật hiện hành. Nhìn chung, kết quả của hoạt động định tội danh
chính là sự thể hiện rõ nét nhất hiệu quả của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử;
đồng thời cũng thể hiện ý thức tuân thủ pháp luật cũng như năng lực thực hiện
pháp luật của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền.
1.1.2. Phân loại các trường hợp định tội danh đối với tội bắt, giữ
hoặc giam người trái pháp luật
Như đã phân tích, tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật được xem
xét tính chất nguy hiểm của nó tác động đến xã hội cũng như quyền tự do cá
nhân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người được thực hiện bởi
không chỉ một mà bao gồm nhiều hành vi, trong đó có các hành vi bắt, giữ
hoặc giam người một cách cố ý trái với quy định của pháp luật. Do đó, đối với
vấn đề định tội danh, để phân loại các trường hợp định tội đối với tội danh

này, có thể căn cứ vào bản chất của các hành vi mà phân loại thành các trường
hợp khác nhau, phù hợp với mặt khách quan và bản chất của hành vi.
Thứ nhất, trường hợp bắt người trái pháp luật.
Xét dưới góc độ hành vi, hành vi bắt người được hiểu là hành vi xâm
phạm đến thân thể của người khác nhằm thực hiện việc kiểm soát, khống chế,
không cho người đó có khả năng tự do hoạt động với trạng thái cơ thể bình
thường [28, tr.90]. Thông thường hành vi này gắn với các hành động như trói,
còng tay, … của người khác. Đặt hành vi này dưới góc độ pháp lý, hạnh vi bắt
người nêu trên khi không tuân thủ đúng quy định của pháp luật về việc bắt
người thì được xem là hành vi bắt người trái pháp luật.
Đối với vấn đề định tội danh trong trường hợp bắt người trái pháp luật,
yêu cầu đặt ra đối với hoạt động này đó chính là việc xác định hành vi được

13


thực hiện có phải là hành vi bắt người trái pháp luật hay không. Trong đó,
phải xem xét đến các vấn đề: 1) Đối tượng mà hành vi hướng tới có phải là
quyền tự do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của người khác hay
không; 2) Hành vi được thực hiện có phải là hành vi cố ý kiểm soát, khống
chế không cho người khác được tự do hoạt động với trạng thái cơ thể bình
thường hay không; 3) Hành vi được thực hiện có phải là hành vi trái với quy
định của pháp luật hay không, hay nói cách khác, hành vi bắt người này có
được pháp luật cho phép hay không. Đây là những vấn đề cơ bản nhất nhằm
xác định một hành vi bắt người có phải là hành vi gắn với tội bắt, giữ hoặc
giam người trái pháp luật hay không.
Khi định tội danh, cá nhân, tổ chức có thẩm quyền phải có trách nhiệm
xác minh, phân tích và đánh giá các vấn đề trên trong vụ việc thực tiễn, đồng
thời phải có sự dẫn chiếu, đối chứng với các quy định của pháp luật liên quan
đến hành vi bắt người này. Sau khi có sự so sánh, đối chiếu giữa sự thật khách

quan của vụ án và phần giả định mà các quy định của pháp luật đã đề ra, kết
quả của hoạt động định tội danh có thể xác định rõ hành vi bắt người trong vụ
việc được xem xét có phải là hành vi phạm tội hay không. Nếu như có sự
tương đồng giữa sự thật khách quan và các quy định của pháp luật, hành vi
bắt người có thể được định tội danh bắt người trái pháp luật và ngược lại. Bên
cạnh đó, khi định tội danh đối với hành vi bắt người trái pháp luật, hành vi
này cũng cần được xem xét và đánh giá trong toàn bộ các vấn đề liên quan
đến vụ việc. Việc kiểm soát, khống chế người khác thông thường được thực
hiện nhằm mục đích khác ngoài việc xâm hại đến quyền tự do cá nhân, quyền
bất khả xâm phạm về thân thể của người khác. Do đó, trong nhiều trường
hợp, khi định tội danh đối với hành vi này, cần xem xét tính liên kết của nó
với các hành vi phạm tội khác.

14


Thứ hai, trường hợp giữ người trái pháp luật.
Cũng giống với hành vi bắt người, hành vi giữ người về bản chất cũng
được xem là hành vi được thực hiện bởi con người tác động trực tiếp lên
quyền tự do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của người khác.
Hành vi này cũng được xem là hành vi có tính chất nguy hiểm nghiêm trọng
cho xã hội khi nó trực tiếp xâm hại đến quyền cơ bản của con người về tự do
cá nhân, bất khả xâm phạm về thân thể [28, tr.647]. Tuy nhiên, hành vi giữ
người lại có những biểu hiện và hình thức thể hiện khác so với hành vi bắt
người. Hành vi giữ người được hiểu là hành vi do con người thực hiện tác
động trực tiếp vào quyền tự do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể
của con người được thể hiện thông qua việc không cho người nào đó nằm
ngoài tầm kiểm soát của mình trong một thời gian ngắn.
Khi tiến hành định tội danh trong trường hợp này, hành vi giữ người
phải được xem xét đầy đủ và khách quan nhằm xác định hành vi đã được thực

hiện có phải là hành vi phạm tội hay không. Trong đó, hành vi phải được xem
xét dưới các khía cạnh cơ bản sau: 1) Hành vi giữ người có phải là hành vi
nguy hiểm cho xã hội hay không, đối tượng có bị tác động một cách cố ý
nhằm xâm hại trực tiếp đến quyền tự do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm
thân thể của người khác hay không; 2) Hành vi giữ người có được thực hiện
thông qua việc không cho phép người khác vượt ngoài tầm kiểm soát của
mình hay không; 3) Hành vi được thực hiện có trái với quy định của pháp luật
hay không.
Khi xem xét và đánh giá hành vi giữ người trái pháp luật, để có thể
đánh giá một cách tổng quan và toàn diện, cần đặt hành vi này trong thế giới
khách quan, để xác định xem các yếu tố làm phát sinh hành động này, đồng
thời phải xem xét sự tác động của nó đến thế giới khách quan, bởi hành vi giữ
người không thể tự mình xuất hiện cũng như không thể chỉ nhằm mục đích

15


xâm phạm đến quyền tự do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm của người
khác. Do đó, có thể nhận thấy, để kiểm soát, không cho người khác đi đâu
khỏi tầm kiểm soát của mình, người thực hiện hành vi này trước đó phải thực
hiện các hành vi nhằm có thể kiểm soát, không chế và đưa người bị kiểm soát
vào trong tầm kiềm soát của mình. Hay nói cách khác, hành vi giữ người có
liên kết chặt chẽ với hành vi bắt người. Nhiệm vụ của hoạt động định tội danh
ngoài xác định tính chất vi phạm pháp luật của hành vi giữ người còn cần
phải xem xét đến mức độ nguy hiểm, tính logic, liên kết với các hành vi phạm
tội khác trong toàn bộ vụ án.
Thứ ba, trường hợp giam người trái pháp luật.
Trong số các hành vi xâm phạm quyền tự do cá nhân, quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, hành vi giam người trái pháp luật có thể được xem như
là hành vi xâm hại một cách mạnh mẽ nhất đến quyền tự do cá nhân, quyền

bất khả xâm phạm về thân thể của người khác. Hành vi giam người trái pháp
luật có tính chất khống chế, kiểm soát không cho người khác được tự do, hoạt
động nguy hiểm hơn so với hành vi bắt người trái pháp luật, đồng thời, cũng
có tính chất kiểm soát, khống chế người bị giam không cho phép người này
vượt ngoài tầm kiểm soát một cách chắc chắn hơn [28, tr.620]. Hành vi giam
người trái pháp luật thông thường được thực hiện bằng việc khống chế, kiểm
soát một người tại một địa điểm không gian riêng biệt trong một khoảng thời
gian nhất định. Trong trường hợp này, người bị giam không chỉ bị kiểm soát,
khống chế về các hoạt động tự do cá nhân mà còn bị khống chế tước đoạt các
quyền tự do cá nhân khác khi người này không thể vượt ra khỏi giới hạn nhất
định của địa điểm bị giam.
Trong hoạt động định tội danh, tất cả các khía cạnh của vụ án, hành vi
giam người phải được đánh giá một cách khách quan, đầy đủ và toàn diện.
Trong đó, quá trình định tội danh cần xác định rõ các vấn đề cơ bản của hành

16


vi này và đối chiếu tính pháp lý của nó với các quy định của pháp luật. Trước
hết, cần đánh giá tính nguy hiểm của hành vi giam người này, quá trình định
tội danh cần làm rõ hành vi giam người đã xâm hại đến quyền tự do cá nhân,
quyền bất khả xâm phạm về thân thể của người khác hay chưa. Sau đó, trong
quá trình định tội danh, hành vi giam người cũng cần phải được làm rõ dưới
góc độ bản chất và hình thức thể hiện của hành vi, hành vi được thực hiện có
nhằm hạn chế, tước đoạt quyền tự do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của người khác bằng cách không chế, kiểm soát và nhốt người khác
tại một địa điểm không gian riêng biệt trong một thời gian nhất định hay
không. Và đặc biệt, hành vi giam người này có đúng với quy định của pháp
luật về việc giam người hay không. Từ kết quả của quá trình định tội danh
nêu trên, hành vi được xem xét có thể được kết luận là hành vi phạm tội theo

tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật.
Như vậy, có thể nhận thấy, hành vi giam người trái pháp luật là hành vi
xâm hại đến quyền tự do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể một cách
nghiêm trọng. Cũng giống như hành vi giữ người trái pháp luật, hành vi giam
người khi được đặt trong thế giới quan, quá trình định tội danh cũng cần làm rõ
được các yếu tố khác tác động đến sự phát sinh và thực hiện hành vi trái pháp
luật này, đồng thời làm sáng tỏ mối liên hệ, tính logic của hành vi này với các
hành vi phạm tội khác hoặc các thiệt hại khác phát sinh trong vụ án.
Trong việc phân loại các trường hợp định tội danh đối với tội bắt, giữ
hoặc giam người trái pháp luật, ngoài việc phân loại các trường hợp định tội
danh căn cứ vào hành vi phạm tội, việc định tội danh còn được phân loại theo
nhiều phương diện và khía cạnh khác nhau. Dưới khía cạnh chủ thể thực hiện
hành vi phạm tội, các trường hợp định tội danh đối với hành vi bắt, giữ hoặc
giam người trái pháp luật có thể được phân loại thành các trường hợp: Phạm
tội có tổ chức và Cá nhân phạm tội. Dưới góc độ sự tác động của hành vi đến

17


đối tượng bị xâm hại, định tội danh đối với hành vi bắt, giữ hoặc giam người
trái pháp luật có thể được phân loại thành các trường hợp: Tội phạm hoàn
thành hoặc tội phạm chưa hoàn thành, … Việc phân loại các trường hợp định
tội hành đối với nhóm hành vi này có giá trị pháp lý lớn trong quá trình áp
dụng pháp luật nói chung và đấu tranh với tội phạm nói riêng, đặc biệt trong
hoạt động định tội danh và xác định hình phạt đối với tội bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật.
1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật.
Trong công tác áp dụng PLHS cũng như quá trình xét xử vụ án hình sự,
định tội danh là một chuỗi các hoạt động tư pháp có ý nghĩa vô cùng quan

trọng và quyết định đến hiệu quả của hoạt động tư pháp hình sự cũng như
trách nhiệm và năng lực của các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc
chịu trách nhiệm thực hiện các hoạt động của quá trình định tội danh. Đặc
biệt, đối với các hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật đang ngày
càng diễn ra phổ biến và có nhiều diễn biến phức tạp như hiện nay, việc định
tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật vừa là yêu cầu cấp
thiết vừa là biện pháp xử lý tội phạm cần được đẩy mạnh thực hiện và nâng
cao hiệu quả.
Định tội danh đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật chính
là quá trình xác định một hành vi đã thực hiện trên thực tế có phải là hành vi
bắt, giữ hoặc giam người hay không, đồng thời đánh giá hành vi đó dưới góc
độ pháp lý để xem xét hành vi này có phải là hành vi phạm tội không, nếu
hành vi trên vi phạm quy định về việc bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
tức là hành vi này được xác định là hành vi phạm tội căn cứ theo điều luật cụ
thể của BLHS. Do vậy, định tội danh đúng chính là sự thể hiện hoạt động có
hiệu quả, ý thức tuân thủ pháp luật cũng như ý thức trách nhiệm hoạt động

18


×