Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở qua thực tiễn tại thành phố điện biên phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (824.01 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

SẦN NGỌC TOÀN

THõA KÕ QUYÒN Sö DôNG §ÊT ë Vµ NHµ ë
QUA THùC TIÔN T¹I THµNH PHè §IÖN BI£N PHñ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

SẦN NGỌC TOÀN

THõA KÕ QUYÒN Sö DôNG §ÊT ë Vµ NHµ ë
QUA THùC TIÔN T¹I THµNH PHè §IÖN BI£N PHñ
Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS PHÙNG TRUNG TẬP

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học, đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính và thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả

Sần Ngọc Toàn


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT Ở VÀ NHÀ Ở............................................................................. 6
1.1.

Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế ............................................... 6

1.1.1. Khái niệm thừa kế ................................................................................ 6

1.1.2. Quyền thừa kế ...................................................................................... 7
1.2.

Pháp luật hiện hành về thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở ........ 9

1.2.1. Thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở theo di chúc ............................ 9
1.2.2. Thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở theo pháp luật....................... 13
1.2.3. Một số điểm mới cơ bản về chế định thừa kế của Bộ luật Dân sự
năm 2015 ............................................................................................ 19
1.3.

Khái niệm và đặc điểm thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở .... 20

1.3.1. Khái niệm quyền sử dụng đất ở và nhà ở ........................................... 20
1.3.2. Một số đặc điểm của thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở ............. 24
1.4.

Quan điểm về thừa kế theo tập quán của dân tộc Xạ Phang (Hoa) .... 28

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA
KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở VÀ NHÀ Ở TẠI THÀNH
PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ .................................................................... 33
2.1.

Thực trạng giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
ở và nhà ở tại thành phố Điện Biên Phủ ........................................ 33

2.1.1. Một số vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở
theo pháp luật ..................................................................................... 37



2.1.2. Một số vụ án tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở
theo di chúc ........................................................................................ 49
2.2.

Một số yếu tố ảnh hƣởng đến thực trạng giải quyết tranh
chấp thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở tại thành phố
Điện Biên Phủ ................................................................................... 62

2.2.1. Điều kiện Kinh tế - Xã hội của thành phố Điện Biên Phủ ................. 62
2.2.2. Thị trường bất động sản và mật độ dân số tại thành phố Điện
Biên Phủ ............................................................................................. 63
2.2.3. Một số nhân tố ảnh hưởng khác ......................................................... 66
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT Ở, NHÀ Ở TẠI THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ.................. 69
3.1.

Nhóm giải pháp, kiến nghị về hoàn thiện quy định pháp luật ..... 69

3.2.

Nhóm giải pháp, kiến nghị về tăng cƣờng hòa giải các tranh
chấp thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở .................................. 77

3.3.

Nhóm giải pháp, kiến nghị về tăng cƣờng phối hợp giữa cơ
quan quản lý đất đai thuộc UBND các cấp với TAND thành
phố Điện Biên Phủ ............................................................................ 80


3.4.

Nhóm giải pháp, kiến nghị đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho ngƣời dân ........... 81

KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 86


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TAND

Tòa án nhân dân

TP


Thành phố

UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Bảng thống kê số vụ án của TAND thành phố Điện Biên
Phủ giải quyết (2014 – 2018)

34

Bảng 2.2

Bảng thống kê số vụ án tranh chấp thừa kế nhà và đất
TAND thành phố Điện Biên Phủ giải quyết (2014 – 2018)

36

Bảng 2.3


Bảng thống kê về Dân số, diện tích tại các xã/phường
thuộc Thành phố Điện Biên Phủ năm 2015

64


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thừa kế là một chế định quan trọng trong việc bảo vệ quyền sở hữu của
chủ sở hữu theo quy định của pháp luật dân sự. Về nguyên tắc, đất đai thuộc
sở hữu toàn dân, nhưng pháp luật cũng dành cho người sử dụng đất những
quyền năng nhất định trong việc quản lý và sử dụng đất. Trong các quyền
năng của người sử dụng đất, thì quyền thừa kế quyền sử dụng đất nói chung
và thừa kế quyền sử dụng đất ở, nhà ở nói riêng là một trong những quyền
năng đặc thù, được pháp luật thừa nhận bởi tính quan trọng trong việc bảo
tồn, duy trì và truyền lại qua các thế hệ với loại tài sản đặc biệt này.
Thừa kế đơn thuần là sự dịch chuyển tài sản của người đã chết cho
người còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật, tuy nhiên, trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay các tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất ở,
nhà ở diễn ra ngày càng nhiều với tính chất phức tạp, diễn biến kéo dài vì đó
là những tài sản có giá trị lớn, việc giải quyết tranh chấp tại các cấp Tòa án
còn nhiều bất cập và khó khăn.
Thành phố Điện Biên Phủ thuộc một tỉnh miền núi phía bắc, trình độ
dân trí nhìn chung còn thấp, hiểu biết pháp luật còn hạn chế mà tình hình
tranh chấp thừa kế quyền về quyền sử dụng đất ở và nhà ở giữa những người
có quan hệ gần gũi, huyết thống với nhau ngày càng nhiều. Như vậy, nếu
không giải quyết dứt điểm, hợp tình, đúng lý sẽ gây mất đoàn kết nội bộ gia
đình, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội.
Nhận thấy, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về thừa kế quyền sử

dụng đất ở, nhà ở là rất cần thiết nhằm tiếp tục hoàn thiện về chế định pháp
luật thừa kế, vừa nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về thừa kế
quyền sử dụng đất ở, nhà ở tại các cấp Tòa án địa phương.

1


Với tâm thế là một con em địa phương theo học, nghiên cứu pháp luật
và nhận thấy tầm quan trọng trên nên em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Thừa kế
quyền sử dụng đất ở và nhà ở qua thực tiễn tại thành phố Điện Biên Phủ”
để làm đề tài nghiên cứu Luận văn Thạc sĩ luật học, với mong muốn làm rõ
hơn quy định pháp luật vấn đề này, thấy được những khó khăn, vướng mắc
trong quá trình giải quyết những tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất ở, nhà
ở. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, kiến nghị giúp các cơ quan lập
pháp, tư pháp có căn cứ sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng
dân sự cho phù hợp với đời sống thực tiễn hơn.
2. Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua, cùng với quá trình phát triển về chế định thừa kế trong
pháp luật dân sự thì thừa kế quyền sử dụng đất ở, nhà ở được nhiều văn bản
quy phạm pháp luật liên quan quy định, điều chỉnh như: Bộ luật Dân sự,
Luật nhà ở, Luật Đất đai và nhiều công trình nghiên cứu dưới dạng luận án
Tiến sĩ luật, luận văn Thạc sĩ, luận văn tốt nghiệp Cử nhân luật, Tạp chí,
Giáo trình, học liệu chuyên sâu khác… Một số công trình nghiên cứu khoa
học tiêu biểu như: Luật thừa kế Việt Nam, PGS.TS Phùng Trung Tập, Nxb.
Hà Nội, 2009; Thừa kế theo quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng,
TS. Phạm Văn Tuyết, Nxb Chính trị quốc gia, 2007; Luật thừa kế Việt Nam
– Bản án và bình luận bản án của TS. Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị quốc gia,
2009; Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân sự Việt Nam của TS.
Nguyễn Ngọc Điện, Nxb Trẻ, 1999; Thừa kế theo pháp luật của công dân
Việt Nam từ năm 1945 đến nay của PGS.TS Phùng Trung Tập, Nxb. Tư

pháp, 2004; Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thừa kế, Dương Bạch
Long và Nguyễn Xuân Anh, Nxb.Chính trị Quốc gia, 2005…
Ngoài ra, thời gian qua một số công trình nghiên cứu ở bậc sau đại
học là các Luận văn Thạc sĩ, Luận án tiến sĩ của các tác giả nghiên cứu về

2


thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở; Thừa kế quyền sử dụng đất như Luận
văn thạc sĩ luật học: Thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất
của Lê Trung Phước, 2012; Thừa kế quyền sử dụng đất qua thực tiễn tại
thành phố Đà Nẵng của Ngô Thị Hương Giang, 2012…vv
Tuy nhiên những công trình trên chỉ nghiên cứu và đề cập ở phạm vi
tổng thể, vĩ mô mà chủ yếu là nghiên cứu về những quy định chung về chế
định thừa kế, chưa đề cập sâu đến lý luận về thừa kế quyền sử dụng đất ở và
nhà ở. Đồng thời, các công trình nghiên cứu trên cũng chưa giải quyết về tính
thực tiễn đối với vấn đề thừa kế tại các địa phương cụ thể.
Đặc biệt vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất ở, nhà ở qua thực thực tiễn
tại thành phố Điện Biên Phủ chưa từng được công bố dưới gốc độ Luận văn
Thạc sĩ luật học. Đây có thể coi là một khiếm khuyết, bởi lẽ thực tiễn nay bộc
lộ nhiều vướng mắc, những khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp về
quyền sử dụng đất ở, nhà ở tại TAND thành phố Điện Biên Phủ.
Chính vì vậy, thực hiện một công trình nghiên cứu trên cơ sở lý luận và
thực tiễn với đề tài nêu trên là hết sức cần thiết.
3. Đối tƣợng, mục đích và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn bao gồm:
+, Các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai, dân sự và nhà ở có liên
qaun đến thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở;
+, Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà

ở qua thực tiễn tại Thành phố Điện Biên Phủ.
- Mục đích nghiên cứu
Pháp luật thừa kế là một chế định rất quan trọng của pháp luật dân sự,
mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ vấn đề thừa kế của loại tài sản
đặc biệt là quyền sử dụng đất ở và nhà ở. Trên cơ sở lý luận về thừa kế và qua
thực tiễn giải quyết tranh chấp tại TAND TP. Điện Biên Phủ, để có cái nhìn

3


nhận, đánh giá khách quan những hạn chế, bất cập và từ đó nhằm hoàn thiện
pháp luật, đưa ra những giải pháp và kiến nghị để giải quyết tranh chấp thừa
kế hiệu quả hơn trên thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu
Thừa kế là một vấn đề rất rộng, khá phức tạp và để đặt được mục đích
nghiên cứu đề tài này, thì luận văn này không đề cập sâu đến lý luận về thừa
kế mà chủ yếu tập trung chủ yếu vào thực trạng giải quyết tranh chấp thừa kế
quyền sử dụng đất ở, nhà ở qua thực tiễn tại TP. Điện Biên Phủ.
Trên cơ sở, phạm vi quy định của Bộ luật dân sự; Bộ luật tố tụng dân
sự; Luật đất đai; Luật nhà ở và một số văn bản hướng dẫn liên quan và thông
qua công tác xét xử của quan Tòa để có những hướng hoàn thiện, kiến nghị
phù hợp nhằm đạt được mục đích đặt ra của luận văn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu nêu trên, luận
văn đã đặt ra các nhiệm vụ như sau:
Làm sáng tỏ khái niệm thừa kế nói chung, khái niệm thừa kế quyền sử
dụng đất ở, nhà ở nói riêng;
Làm rõ những đặc điểm mang tính đặc thù của thừa kế quyền sử dụng
đất ở, nhà ở qua các hình thức thừa kế;
Phân tích, đánh giá về điều kiện tự nhiên, Kinh tế - Xã hội của địa

phương có ảnh hưởng đến tình hình tranh chấp thừa kế;
Dẫn chiếu, phân tích những vụ án tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng
đất ở và nhà ở được thụ lý, giải quyết tại TAND thành phố Điện Biên Phủ;
Đánh giá những điểm bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành và thực
tiễn giải quyết những phát sinh, tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất ở, nhà
ở để đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật
về thừa kế.

4


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và những đường lối, chủ trương
của Đảng và Nhà nước ta về việc bảo vệ quyền thừa kế cho công dân.
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, tác giải kết hợp nghiên cứu,
tham khảo các văn bản pháp luật về chế định thừa kế; Các tài liệu, học liệu
khác liên quan; Tiếp thu có chọn lọc kết quả của các công trình đã công bố,
các báo cáo, tổng kết, đánh giá của cơ quan chuyên môn bằng những phương
pháp như: Phân tích, so sánh, tổng hợp, xã hội học, thống kế…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có góp phần hệ thống hóa cơ sở lý
luận chung về thừa kế, nhận diện được những đặc trưng riêng đối với thừa kế
quyền sử dụng đất ở, nhà ở;
- Phân tích được thực trạng giải quyết những tranh chấp phát sinh trên
thực tế, từ đó có cách nhìn khách quan để đưa giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở;
- Luận văn ngoài ý nghĩa làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc học
tập, nghiên cứu và giảng dạy còn là nguồn tài liệu tham khảo có tính thực tiễn
cao cho công dân, Cán bộ đang công tác tại cơ quan Viện kiểm sát, Tòa án…

7. Cơ cấu của luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận về thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở
Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
ở, nhà ở tại thành phố Điện Biên Phủ
Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả giải quyết
tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất ở, nhà ở tại thành phố Điện Biên Phủ

5


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở VÀ NHÀ Ở
1.1. Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế
1.1.1. Khái niệm thừa kế
Thừa kế có vai trò quan trọng và đã xuất hiện từ rất lâu trong xã hội loài
người, ngay cả khi chưa có Nhà nước và luật pháp thành văn, thừa kế đã tồn tại
trong các hình thái Kinh tế - Xã hội song song với sự xuất hiện của con người.
Theo một số nghiên cứu nhân học và xã hội học đã được thực hiện về
phong tục thừa kế phụ hệ, nơi mà chỉ có con trai mới được kế thừa. Một số
nền văn hoá sử dụng sự kế thừa mẫu hệ, nơi tài sản chỉ có thể trao cho con
gái, thông thường dành cho các con trai của em gái của người quá cố; một số
xã hội, thừa kế từ mẹ sang con gái. Thời cổ đại và Quốc gia hiện đại thì thừa
kế quân bình mà không phân biệt, đối xử theo giới tính hay thứ tự sinh ra.
Nghiên cứu về thừa kế, Ph. Ăngghen viết:
Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về
bên người mẹ và theo tập tục thừa kế nguyên thủy trong thị tộc mới
được thừa kế những người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại
trong thị tộc, vì tài sản để lại không có giá trị lớn nên loại này trong
thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao tài sản đó cho những bà con thân

thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng huyết tộc với người
mẹ [14, tr.79].
Cùng sự phát triển của lịch sử, tập quán thừa kế của thị tộc được nhà nước
chiếm hữu nô lệ thừa nhận, điều chỉnh quan hệ thừa kế trong xã hội. Cho đến khi
hình thái Kinh tế - Xã hội phát triển, làm thay đổi và ra đời nhiều ngành nghề
mới từ nông nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt nên tất yếu người đàn ông trở thành trụ

6


cột chính nuôi sống gia đình. Địa vị của người đàn ông trong gia đình, các thị
tộc, bộ lạc được thừa nhận làm thay đổi địa vị của người phụ nữ và quan hệ thừa
kế theo chế độ mẫu quyền. Ở nước ta, quan hệ thừa kế được hình thành trên cơ
sở tập quán, thói quen của mỗi vùng miền, mỗi dân tộc và nó đi sâu vào trong
nhận thức của người dân. Qua thời kỳ lịch sử phát triển, chế định thừa kế được
điều chỉnh bởi hệ thống các văn bản pháp luật nhưng tập quán thừa kế của nhiều
tộc người đến nay vẫn được gìn giữ, lưu truyền đến ngày nay.
Theo từ điểm luật học: “Thừa kế là sự truyền lại tài sản của người chết
cho người khác theo di chúc hoặc theo quy định pháp luật” [1, tr.754].
Như vậy,có thể hiểu khái niệm: Thừa kế là việc chuyển giao tài sản
cùng các quyền,nghĩa vụ gắn liền tài sản từ một người chết sang cho người
còn sống theo di chúc hoặc quy định pháp luật.
1.1.2. Quyền thừa kế
Mỗi con người sinh ra đều đã mang cho mình được quyền thực hiện ý
chí không trái với pháp luật hoặc đạo đức xã hội.Trong đó, quyền thừa kế là
một quyền quan trọng và trở thành một nhu cầu không thể thiếu gắn liền với
đời sống của mỗi cá nhân. Mỗi nhà nước, mỗi giai cấp dù có những xu thế
chính trị khác nhau, nhưng đều coi vấn đề quyền thừa kế là một trong những
quyền cơ bản của công dân, được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp.
Trên thực tế đã có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền thừa

kế: Theo quan điểm của TS. Phạm Văn Tuyết và TS.LS Lê Kim Giang
thì: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài
sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc
hoặc theo pháp luật” [44].
Theo cuốn từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
thì: “Quyền thừa kế là quyền để lại tài sản của mình cho người khác sau khi
chết, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật” [1, tr.656]
Quan hệ thừa kế xuất hiện, nhất là khi có Nhà nước và luật pháp thành

7


văn ra đời làm cho quan hệ thừa kế trở thành chế định riêng, trong đó quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ thừa kế được ghi nhận, đảm bảo
thực hiện không chỉ bằng pháp luật mà được điều chỉnh bởi đạo đức xã hội.
Từ đó, khái niệm quyền thừa kế được xuất hiện đồng thời với quyền sở hữu,
quyền và nghĩa vụ khác của chủ thể tham gia quan hệ thừa kế.
Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế là tổng hợp các quy phạm pháp luật
quy định trình tự dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn
sống. Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự, là quyền dân sự của mỗi cá
nhân trong việc để lại di sản cho người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật,
nhưng chung quy lại đều phải đảm bảo được quyền của người để lại di sản.
Dưới gốc độ chủ quan, các chủ thể trong quan hệ thừa kế thì một người
có quyền để lại di sản thừa kế là tài sản, thành quả lao động, các quyền, lợi
ích của mình cho người khác thừa hưởng mà không bị hạn chế. Người thừa kế
có quyền nhận di sản thừa kế là các giá trị vật chất, giá trị tinh thần và các
quyền, nghĩa vụ liên quan khác của người có di sản để lại. Chế định về quyền
thừa kế quy định về quyền tự định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ
thể trong việc để lại di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật, đồng thời
người nhận di sản cũng có quyền nhận di sản theo di chúc hoặc pháp luật.

Hơn nữa, quyền sở hữu là một quyền bất khả xâm phạm và được pháp
luật bảo vệ, dành cho họ quyền định đoạt tối cao. Như vậy, quyền sở hữu và
quyền thừa kế tài sản có mối quan hệ khăng khít và ngang nhau. Thực tế tài
sản của mỗi con người có thể tồn tại lâu hơn một đời người, do đó cần có một
cơ chế pháp lý điều chỉnh sự dịch chuyển các quyền tài sản của người chết
sang cho người còn sống, việc chuyển dịch đó không chỉ đơn thuần là kế thừa
các quyền mà còn cả nghĩa vụ của người đã khuất.
Quyền thừa kế bản chất đó là một quyền dân sự của công dân, được ghi
nhận trong các bản Hiến pháp năm 1959; 1980; 1992 và tại Điều 32 Hiến

8


pháp năm 2013 quy định: “Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp
luật bảo hộ” [22, Điều 32]. Việc bảo hộ này cũng được cụ thể hóa trong Luật
Đất đai; Bộ luật Dân sự và một số văn bản pháp luật khác.
Bộ luật dân sự năm 2015 đã đưa ra khái niệm về quyền thừa kế với nội
dung hoàn toàn mới, theo hướng nhấn mạnh quyền tự định đoạt của người lập
di chúc có quyền chỉ định một tổ chức hưởng di sản của mình sau khi chết. Cụ
thể, Điều 609 quy định: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản
của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di
sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế không là cá nhân
có quyền hưởng di sản theo di chúc” [26, Điều 609].
Trên cơ sở các quan điểm, lý luận nêu trên tác giả cũng đưa ra quan
điểm của mình về quyền thừa kế như sau: “Quyền thừa kế là quyền tự quyết
của người nhận di sản. Quyền thừa kế chỉ phát sinh khi người có di sản chết,
những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc của người để lại di sản
có thể nhận di sản hoặc từ chối nhận di sản thừa kế của người chết”.
1.2. Pháp luật hiện hành về thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở
1.2.1. Thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở theo di chúc

Di chúc là việc thể hiện ý nguyện cuối cùng của người lập di chúc, do
vậy pháp luật luôn tôn trọng và bảo hộ ý chí của người lập di chúc. Đối với di
sản là quyền sử dụng đất ở và nhà ở, người lập di chúc dựa vào tâm nguyện,
tình cảm của mình với người khác mà định đoạt cho họ được hưởng quyền sử
dụng đất ở và nhà ở.
Theo Điều 624 BLDS năm 2015 quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí
của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Di
chúc là cơ sở, căn cứ trong việc phân chia di sản của người chết để lại, việc
chia thừa kế theo di chúc tùy thuộc vào việc người chết có để lại di chúc hay
không. Tại Chương XXII - BLDS năm 2015 quy định một số vấn đề pháp lý
về thừa kế theo di chúc, theo đó:

9


Thứ nhất, về chủ thể lập di chúc.
Theo quy định tại Điều 625 BLDS năm 2015:
Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1
Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản
của mình; Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về
việc lập di chúc [26, Điều 625].
Như vậy, người lập di chúc đối với di sản là quyền sử dụng đất ở và
nhà ở, là người mà có quyền sử dụng, định đoạt khối tài sản quyền sử dụng
đất ở, nhà ở của mình cho những người khác còn sống sau khi chết. Người lập
di chúc ở đây chỉ có thể là cá nhân mà không thể là cơ quan, tổ chức, còn tài
sản của cơ quan, tổ chức là tài sản chung về chủ thể có quyền và được xử lý
theo quy định pháp luật về doanh nghiệp.
Một là, người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a
khoản 1, Điều 630 BLDS năm 2015 có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản

của mình, tức là người lập di chúc này là người đã thành niên và tại thời điểm
lập di chúc họ là người minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, cưỡng ép hay
đe dọa. Họ có khả năng thực hiện hành vi và nhận thức được hậu quả của
hành vi, tự chịu trách nhiệm trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Hai là, người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập
di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
Quy định này khắc phục được sự băn khoăn về việc cha, mẹ hoặc người giám
hộ đồng ý về việc cho lập hay đồng ý về nội dung định đoạt tài sản trong di
chúc mà BLDS năm 2005 trước đây chưa thể hiện rõ. Nay căn cứ vào Điều 21
BLDS năm 2015:“Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự
mình xác lập, thực hiện giao dịch trừ giao dịch liên quan đến bất động sản,
động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của pháp luật
phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý”.

10


Những người ở độ tuổi này thường chưa nhận thức đầy đủ của việc
thực hiện hành vi cũng như hậu quả của việc lập di chúc, vì vậy pháp luật quy
định cần phải có sự kiểm soát của cha, mẹ hoặc người giám hộ khác. Quy
định này không đồng nghĩa là vi phạm nguyên tắc “ý chí” của cá nhân để lại
di sản thừa kế theo di chúc, mà việc đồng ý của người đại diện, giám hộ chỉ
nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp trong quá trình tham gia giao dịch của
người chưa thành niên.
Thứ hai, quyền của người lập di chúc:
Căn cứ quy định tại Điều 626 BLDS năm 2015, thì người lập di chúc
có các quyền như: Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của
người thừa kế; Phân định phần di sản cho tường người thừa kế; Dành một
phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; Giao nghĩa vụ cho người
thừa kế; Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản… Đối với cá nhân

người để lại tài sản, với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp đối với những tài sản
của mình, cá nhân có quyền lập di chúc để thực hiện quyền định đoạt tài sản
của họ khi chết. Quyền định đoạt của người có tài sản lập di chúc chỉ có hiệu
lực khi việc định đoạt bằng di chúc thỏa mãn các điều kiện về di chúc hợp
pháp được quy định tại Điều 630 BLDS năm 2015.
Do tính đặc thù của đối tượng di sản là quyền sử dụng đất ở và nhà ở
còn cần phải xác định rõ người có quyền sở hữu nhà ở và sử dụng đất ở.
Một là, quyền sử dụng đất ở và nhà ở thuộc quyền sử dụng, sở hữu
chung hợp nhất. Như vậy, nếu một bên muốn để lại di sản thừa kế là quyền sử
dụng đất ở và nhà ở thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung, thì chỉ có quyền
quyết định phần thuộc sở hữu của mình. Giả sử di chúc hợp pháp, tức người
được nhận di sản thừa kế có quyền được sử dụng, sở hữu phần di sản như nội
dung di chúc nhưng cũng phải xem xét đến tính thực tế của phần di sản.
Trường hợp, nếu phân chia diện tích đất ở do thừa kế không đủ diện tích

11


tối thiểu để cấp GCN QSDĐ và quyền sở hữu nhà ở hoặc căn nhà không thể
đêm ra phân chia được nhằm đảo bảo an toàn, kết cấu xây dựng …,thì bên được
quản lý, sử dụng, sở hữu khối di sản đó phải có nghĩa vụ thanh toán cho bên còn
lại giá trị tương ứng với phần giá trị di sản của họ đáng ra được hưởng.
Hai là, quyền sử dụng đất ở và nhà ở là tài sản chung của vợ chồng.
Mặc dù BLDS năm 2015 đã bỏ quy định di chúc chung của vợ chồng, tuy
nhiên pháp luật hiện hành không cấm. Thực tế, trong trường hợp này nếu như
vợ chồng xét thấy cần thiết, tự nguyện, thống nhất và cùng ý chí để lại di sản
cho người khác thì hoàn toàn vẫn có thể thực hiện hoặc vợ chồng không thống
nhất, không cùng ý chí đối với nội dung di chúc thì mỗi bên vợ hay chồng có
thể tự thực hiện việc để lại di sản thừa kế đối với phần quyền sử dụng đất ở và
nhà ở của mình cho người khác.

Thứ ba, hình thức của di chúc:
Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc
bằng văn bản thì có thể di chúc bằng miệng (Điều 627 BLDS năm 2015). Đối
với di chúc bằng văn bản gồm: Di chúc bằng văn bản không có người làm
chứng; Di chúc bằng văn bản có người làm chứng; Di chúc bằng văn bản có
công chứng; Di chúc bằng văn bản có chứng thực. Tùy thuộc vào điều kiện,
hoàn cảnh mà người lập di chúc lựa chọn một trong các hình thức theo quy
định của pháp luật để thể hiện ý chí định đoạt tài sản của mình trong đó. Hình
thức của di chúc được coi là phương thức biểu đạt ý chí của người lập di
chúc, là căn cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng
cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc.
Còn đối với di chúc miệng chỉ được công nhận khi đáp ứng điều kiện
về hình thức và thủ tục rất nghiêm ngặt, cụ thể: Là người thành niên, tại thời
điểm lập di chúc hoàn toàn minh mẫn và sáng suốt, người từ 15 đến 18 tuổi
không có quyền lập di chúc miệng; Người lập di chúc chỉ có thể lập di chúc

12


trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các
nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản; Người lập di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm
chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc
điểm chỉ. Đồng thời, trong thời hạn năm ngày kể từ ngày di chúc miệng, thể
hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.
Thứ tư, người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:
Theo pháp luật dân sự, người để lại di sản có quyền truất quyền hưởng
di sản hoặc không cho người thuộc diện thừa kế được hưởng di sản.Tuy
nhiên, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của một số cá nhân trong diện những người
thừa kế theo pháp luật, phù hợp với tập quán, đạo đức xã hội và truyền thống

dân tộc Việt Nam. Điều 644 BLDS năm 2015 quy định những người thừa kế
không phụ thuộc nội dung của di chúc gồm: Con chưa thành niên, cha, mẹ,
vợ, chồng; Con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, những
người này phải được hưởng hai phần ba (2/3) của một suất thừa kế theo pháp
luật nếu họ không được hưởng hoặc được hưởng ít hơn hai phần ba (2/3) của
một suất thừa kế theo pháp luật.
Đối với di sản thừa kế là quyền sử dụng đất ở và nhà ở cũng vậy, đó là
trường hợp cha, mẹ, con, vợ, chồng không để lại di sản là quyền sử dụng đất ở
và nhà ở hoặc để lại di sản nhưng ít hơn hai phần ba (2/3) của một suất thừa
kế nếu chia theo pháp luật cho những người được thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc nêu trên. Quyền sử dụng đất ở và nhà ở được xác
định giá trị theo quy định pháp luật về giá đất, định giá tài sản để làm căn cứ
khi phân chia di sản.
1.2.2. Thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở theo pháp luật
Thừa kế theo pháp luật là quá trình dịch chuyển di sản của người chết
sang những người còn sống theo quy định của pháp luật về thừa kế. Cá nhân
có quyền sử dụng đất ở và nhà ở, sau khi chết thì số di sản của người đó được

13


chia đều cho những người thừa kế theo pháp luật, tức những người có quan hệ
huyết thống, quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng đối với người có di
sản là quyền sử dụng đất ở và nhà ở. Điều 649 BLDS năm 2015 đã định nghĩa
về thừa kế theo pháp luật như sau: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo
hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”.
Thứ nhất, những trường hợp thừa kế theo pháp luật quy định tại Điều
650 BLDS năm 2015.
Một là, trường hợp thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường
hợp không có di chúc. Đây là những trường hợp mà người để lại di sản không

lập di chúc hoặc có lập di chúc nhưng đã bị hủy.Trong những trường hợp này,
toàn bộ di sản của người chết để lại sẽ chia cho những người thừa kế theo quy
định của pháp luật.
Hai là, thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp có di
chúc nhưng di chúc không hợp pháp. Di chúc được coi là không hợp pháp nếu
vi phạm các điều kiện của một giao dịch có hiệu lực theo quy định tại Điều
630 BLDS năm 2015. Di chúc bị coi là không hợp pháp sẽ không có hiệu lực
pháp luật, do vậy di sản liên quan đến di chúc đó sẽ được giải quyết theo quy
định của pháp luật. Di chúc bất hợp pháp có thể bị coi là vô hiệu toàn bộ
nhưng cũng có thể chỉ vô hiệu một phần, nên khi giải quyết một tranh chấp về
thừa kế có liên quan đến di chúc phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, vào
các điều kiện mà di chúc đã vi phạm để xác định.
Ba là, thừa kế theo pháp luật được áp dụng đối với phần di sản không
được định đoạt trong di chúc. Nếu người để lại di sản chỉ định đoạt một phần
di sản, thì phần còn lại sẽ được áp dụng chia cho những người nằm trong hàng
thừa kế, trừ khi họ là người bị người lập di chúc chỉ rõ chỉ được hưởng phần
di sản theo di chúc hoặc bị truất quyền thừa kế theo di chúc.

14


Bốn là, thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp toàn bộ
những người thừa kế đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc. Như vậy, một người có thể vừa được hưởng di sản thừa kế theo di chúc,
vừa được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật nếu họ là người tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế và đủ điều kiện hưởng di sản.Trong trường hợp chỉ có một
hoặc một số người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm
với người lập di chúc, thì chỉ phần di sản liên quan đến họ mới được áp dụng
thừa kế theo pháp luật để giải quyết.
Năm là, thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp người

thừa kế theo di chúc không có quyền hưởng di sản. Những người đáng lẽ
được hưởng di sản thừa kế theo di chúc nhưng vi phạm quy định tại khoản 1,
Điều 621 Bộ luật này sẽ không được hưởng di sản trừ trường hợp người để lại
di sản biết nhưng vẫn cho họ hưởng theo di chúc; Trong trường hợp toàn bộ
những người thừa kế theo di chúc đều không có quyền hưởng di sản thì áp
dụng thừa kế theo pháp luật để chia thừa kế; Trong trường hợp chỉ có một số
người thừa kế theo di chúc không có quyền hưởng di sản thì chỉ áp dụng thừa
kế theo pháp luật đối với phần di sản của người không được hưởng.
Sáu là, thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp người
thừa kế theo di chúc từ chối quyền hưởng di sản. Người thừa kế có quyền
hưởng, từ chối hưởng di sản của người chết để lại. Phần di sản liên quan đến
người đã từ chối sẽ được áp dụng chia theo pháp luật cho những người thừa
kế khác. Nếu một người từ chối toàn bộ quyền hưởng di sản gồm cả phần theo
di chúc và cả phần theo pháp luật thì toàn bộ phần di sản này sẽ chia theo
pháp luật cho những người thừa kế còn lại.
Thứ hai, Diện và hàng thừa kế theo pháp luật.
Diện những người thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di
sản thừa kế của người chết theo quy định pháp luật. Diện thừa kế được đặt ra

15


nếu giữa họ với người chết đang tồn tại mối quan hệ hôn nhân, huyết thống
hoặc quan hệ nuôi dưỡng.
Diện những người thừa kế được sắp xếp thành ba hàng thừa kế, thừa kế
được phân chia theo nguyên tắc: Di sản thừa kế được phân chia theo thứ tự
hàng thừa kế ưu tiên là 1-2-3 được quy định tại Điều 651 BLDS năm 2015.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau; những
người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng
thừa kế trước đo đã chết và không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản

theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di
sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Chồng, vợ, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
+ Người thừa kế là vợ, chồng: Được xác định là vợ chồng để thừa kế di
sản của nhau phải có quan hệ vợ chồng theo quy định pháp luật. Được xác lập
thông qua thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và
Gia đình năm 2014:
Thực tế, trường hợp vợ chồng xin ly hôn mà chưa được Tòa án cho ly
hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một bên vợ
(chồng) chết thì người kia vẫn được hưởng di sản thừa kế. Người đang là vợ
hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó có kết
hôn với người khác thì vẫn được thừa kế di sản của người chết đó.
Hoặc nếu vợ, chồng xảy ra mâu thuẫn với nhau, chưa ly hôn nhưng đã
ly thân nên đã tiến hành phân chia tài sản chung. Sau đó người vợ (chồng)
chết, về mặt pháp lý họ vẫn tồn tại quan hệ hôn nhân do đó khi một trong hai
bên chết, thì bên kia vẫn được quyền hưởng thừa kế di sản.Như vậy, quan hệ
hôn nhân, là quan hệ giữa vợ chồng được xác lập thông qua việc kết hôn hợp
pháp hoặc trong trường hợp hôn nhân thực tế được pháp luật công nhận (tức

16


quan hệ hôn nhân được xác lập trước ngày 03/01/1987, ngày Luật hôn nhân
và gia đình năm 1986 có hiệu lực).
+ Hàng thừa kế là cha, mẹ, con: Cha, mẹ đẻ hoặc nuôi là người thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của con đẻ hoặc con nuôi và ngược lại. Con đẻ ở đây
bao gồm cả con trong giá thú và ngoài giá thú.
Đối với gia đình cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi chỉ có quan hệ thừa kế di
sản với cha nuôi, mẹ nuôi mà không có quan hệ thừa kế với cha, mẹ và con

đẻ của người nuôi con nuôi. Cha, mẹ đẻ của người con nuôi cũng không
được thừa kế di sản của người con nuôi đó.Trường hợp cha nuôi, mẹ nuôi
kết hôn với người khác thì người con nuôi không đương nhiên trở thành con
nuôi của người đó, tức là họ không phải là người có quyền thừa kế di sản
của nhau. Còn một người đã là con nuôi của người khác vẫn có quan hệ thừa
kế đối với cha, mẹ, ông, bà, anh, chị, em, cô, dì, chú, bác như người không
làm con nuôi của người khác. Đồng thời, nếu con riêng và bố dượng, mệ kế
nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha, mẹ, con thì được hưởng
thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế tài sản quy định tại Điều 652,
653 BLDS năm 2015.
Quan hệ nuôi dưỡng, là quan hệ được xác lập thông qua việc nhận nuôi
con nuôi. Pháp luật quy định nuôi phải được đăng ký và làm thủ tục tại cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Luật hôn nhân gia đình,
Luật nuôi con nuôi và Luật hộ tịch. Trường hợp, quan hệ nuôi dưỡng được
xác lập trước ngày Luật hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực thì dù
chưa tuân thủ các quy định về đăng ký nhận nuôi con nuôi, mà thực tế giữa
người nhận nuôi và người được nuôi yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng nhau
như con đẻ thì pháp luật vẫn thừa nhận họ có quan hệ nuôi dưỡng.
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh

17


ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Quan hệ thừa kế giữa ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cháu nội,
cháu ngoại. Ngược lại, pháp luật dự liệu các trường hợp không còn người
thừa kế hàng thứ nhất, thì cháu sẽ được nhận thừa kế di sản của ông, bà. Anh,
chị, em ruột là người hàng thừa kế thứ hai của nhau, giữa họ là anh chị em
cùng cha khác mẹ hoặc cùng cả cha và mẹ với nhau. Một người mẹ có bao

nhiêu con đẻ thì bấy nhiêu người con đó đều là anh, chị, em ruột của nhau,
không phục thuộc vào việc các người con có cùng cha hay khác cha, là con
trong giá thú hay ngoài giá thú.
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết
mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của
người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Cụ nội của một người là người sinh ra ông nội hoặc bà nội của người
đó.Còn cụ ngoại của một người là người sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại của
người đó. Trong trường hợp, cụ nội, cụ ngoại chết không có người thừa kế là
con và cháu hoặc có nhưng họ không thuộc diện được thừa kế, từ chối nhận di
sản thừa kế hoặc bị truất quyền thừa kế thì chắt sẽ được hưởng di sản thừa kế
của cụ. Còn bác ruột là anh hoặc chị ruột của cha đẻ hoặc mẹ đẻ của cháu.
Chú, cô ruột là em ruột của cha đẻ của cháu và cậu ruột, dì ruột là em ruột của
mẹ đẻ của cháu.
Như vậy, về quan hệ huyết thống, là quan hệ giữa những người có cùng
dòng máu về trực hệ hoặc bàng hệ được xác định thông qua sự kiện sinh đẻ,
phả hệ. Theo quy định pháp luật, những người thừa kế di sản của nhau được
xác định từ quan hệ huyết thống trực hệ và xếp theo hàng thừa kế từ quan hệ
gần cho đến xa.

18


×