Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

HUY ĐỘNG các lực LƯỢNG xã hội xây DỰNG nếp SỐNG văn MINH đô THỊ CHO NGƯỜI dân THỊ TRẤN SÔNG mã, HUYỆN SÔNG mã, TỈNH sơn LA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN QUỐC CƯỜNG

HUY ĐỘNG CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI
XÂY DỰNG NẾP SỐNG VĂN MINH ĐÔ THỊ CHO NGƯỜI DÂN
THỊ TRẤN SÔNG MÃ, HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI, 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------------------------

NGUYỄN QUỐC CƯỜNG

HUY ĐỘNG CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI
XÂY DỰNG NẾP SỐNG VĂN MINH ĐÔ THỊ CHO NGƯỜI DÂN
THỊ TRẤN SÔNG MÃ, HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

Chuyên ngành: Giáo dục và Phát triển cộng đồng
Mã ngành: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Cao Tuấn Anh


HÀ NỘI, 2019


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng NSVMĐT là giáo dục và hình thành cho người dân đô thị kiến
thức, kỹ năng, thái độ, hành vi đúng đắn để xây dựng một môi trường sống tốt
đẹp, hài hòa và bền vững, có giá trị nhân văn cao đẹp; tích cực chống lại những
biểu hiện, việc làm ảnh hưởng tiêu cực tới cuộc sống của cộng đồng.
Thị trấn Sông Mã là đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Sông Mã, tỉnh
Sơn La được thành lập theo Quyết định số 79 ngày 13/4/1977 của Thủ tướng
Chính phủ (khi đó gọi là Bộ trưởng phủ Thủ tướng). Qua hơn 40 năm hình
thành, phát triển, thị trấn Sông Mã hiện nay đã có tốc độ đô thị hóa khá nhanh,
đạt được nhiều kết quả cả về chính trị, về kinh tế cũng như văn hóa và đang
chuẩn bị để nâng cấp thành đô thị loại IV vào năm 2020.
Trong xu thế đất nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ và tốc độ đô thị
hóa cùng với cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0)
đang diễn ra nhanh chóng như hiện nay, môi trường sống, cách sống của người
dân thị trấn Sông Mã ngày càng có sự biến đổi theo hướng hiện đại hơn, đời
sống của người dân ngày càng được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy
nhiên, tình trạng gây mất vệ sinh môi trường, vi phạm pháp luật về giao thông;
hành vi ứng xử thiếu văn hóa, lấn chiếm HLATGT một cách tùy tiện... đã gây
ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển và diện mạo của thị trấn Sông Mã trong
những năm qua, làm cho nhiều CB, ĐV, nhân dân cảm thấy không hài lòng và
có nhiều trăn trở.
Nguyên nhân của những tình trạng thiếu văn minh nêu trên một phần là
do Đảng ủy, HĐND, UBND thị trấn Sông Mã chưa có nhiều biện pháp quyết
liệt và hiệu quả để khắc phục, chấn chỉnh; một bộ phận không nhỏ dân cư còn
thiếu hiểu biết và hạn chế trong ý thức chấp hành pháp luật, chưa bắt kịp với
môi trường xã hội đang phát triển nhanh theo hướng ngày càng văn minh.


3


Một trong những biện pháp để xây dựng thị trấn Sông Mã phát triển
đồng bộ, kinh tế phát triển song song với văn hóa là phải xây dựng nếp sống
VMĐT cho người dân, phát huy sức mạnh của cả HTCT và của toàn dân để
thực hiện nhiệm vụ nêu trên. Việc này đòi hỏi phải có sự tham gia và phối hợp
chặt chẽ trong quá trình triển khai thực hiện của nhiều LLXH.
Để xây dựng NSVMĐT cho người dân, cần đặc biệt quan tâm đến việc
tuyên truyền vận động để từng công dân hình thành ý thức tôn trọng pháp
luật, tôn trọng cộng đồng. Việc triển khai thực hiện CVĐ “Toàn dân đoàn kết
xây dựng NTM, ĐTVM” do UBTWMTTQ Việt Nam phát động năm 2015 là
một biện pháp rất quan trọng cần phối hợp với các biện pháp khác để vận
động người dân tham gia hình thành NSVMĐT, góp phần xây dựng đô thị văn
minh.
Tại tỉnh Sơn La nói chung và huyện Sông Mã nói riêng, vấn đề xây dựng
NSVMĐT cho người dân còn khá mới mẻ và hầu như chưa có ai nghiên cứu.
Từ những thực trạng nêu trên, bản thân tôi là một công chức công tác
tại Văn phòng huyện uỷ huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, có chức năng, nhiệm
vụ tham mưu cho cấp ủy huyện lãnh đạo và chỉ đạo toàn diện các nhiệm vụ
trên các lĩnh vực của địa phương, tôi lựa chọn đề tài: “Huy động các LLXH
xây dựng NSVMĐT cho người dân trên địa bàn thị trấn Sông Mã, huyện
Sông Mã, tỉnh Sơn La” để nghiên cứu và mong muốn góp phần xây dựng
NSVMĐT tại địa phương nơi bản thân cư trú và công tác.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận và tìm hiểu thực trạng về
tình hình thực hiện việc xây dựng NSVMĐT và huy động các LLXH xây
dựng NSVMĐT cho người dân trên địa bàn thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã,
tỉnh Sơn La, từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy

động các LLXH xây dựng NSVMĐT cho người dân thị trấn Sông Mã.

4


3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Các LLXH tham gia xây dựng NSVMĐT cho người dân trên địa bàn thị
trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động huy động, phối hợp các LLXH xây dựng NSVMĐT cho
người dân trên địa bàn thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.
4. Giả thuyết khoa học
Tốc độ đô thị hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư của nước ta nói
chung và thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La nói riêng đang diễn ra
ngày càng nhanh chóng, góp phần nâng cao từng bước về đời sống vật chất cũng
như tinh thần của những người dân sinh sống ở địa bàn thị trấn. Mặc dù vậy, nó
cũng tạo ra những vấn đề cần tập trung giải quyết về trật tự đô thị, VSMT, ý thức
chấp hành pháp luật, gây ảnh hưởng tới sự phát triển cân bằng và bền vững của
xã hội.
Nếu có các biện pháp đồng bộ để huy động các LLXH xây dựng
NSVMĐT cho người dân trên địa bàn thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, tỉnh
Sơn La thì sẽ góp phần rất quan trọng vào việc nâng cao trình độ nhận thức của
người dân, môi trường sống được đảm bảo vệ sinh, an toàn cho mọi người dân
trong cộng đồng; cùng với đó là thúc đẩy kinh tế cũng như về xã hội phát triển
ngày càng hiệu quả, bền vững.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu để hệ thống hóa những vấn đề lý luận về huy động
các lực lượng xã hội xây dựng nếp sống văn minh đô thị cho người dân
khu vực đô thị


5


5.2. Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng huy động các lực
lượng xã hội xây dựng nếp sống văn minh đô thị cho người dân trên địa
bàn thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La
5.3. Đề xuất biện pháp huy động các lực lượng xã hội xây dựng nếp
sống văn minh đô thị cho người dân thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã,
tỉnh Sơn La
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Về chủ thể nghiên cứu
Chủ thể được huy động để tham gia xây dựng NSVMĐT cho người dân
thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, bao gồm:
- Đảng ủy, HĐND, UBND, MTTQ và các đoàn thể CT - XH thị trấn
Sông Mã.
- Các tổ dân phố, cơ quan, đơn vị trực thuộc thị trấn Sông Mã.
- CB, CC, VC và người dân thị trấn Sông Mã.
6.2. Về địa bàn nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu là thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các văn bản của Đảng, Nhà nước
về văn hóa xã hội, văn minh đô thị và xây dựng NSVMĐT cho người dân khu
vực đô thị.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra xã hội học bằng phiếu hỏi:
Xây dựng hệ thống câu hỏi đối với cán bộ, công chức đang làm việc tại
Đảng ủy, HĐND, UBND, MTTQ và các đoàn thể CT - XH thị trấn và người
dân sinh sống tại địa bàn thị trấn Sông Mã nhằm điều tra, tìm hiểu nhận thức


6


và mức độ đánh giá của họ về những vấn đề liên quan tới xây dựng NSVMĐT
trên địa bàn thị trấn Sông Mã.
- Phương pháp phỏng vấn:
Thực hiện phỏng vấn, trao đổi với một số cán bộ, công chức thị trấn
Sông Mã và một số người dân để làm rõ hơn những kết quả thu thập được
bằng phiếu hỏi và bổ sung thông tin khác cần thiết cho việc nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp quan sát:
Tiến hành quan sát thực tế việc xây dựng NSVMĐT trên địa bàn thị
trấn Sông Mã để bổ sung những tài liệu, minh chứng cho kết quả điều tra.
- Phương pháp chuyên gia:
Trao đổi, liên hệ với các chuyên gia liên quan tới công tác xây dựng
NSVMĐT để tìm hiểu, thu thập thông tin cần thiết.
- Phương pháp thống kê toán học:
Sử dụng các công thức của toán học để thống kê và xử lý số liệu khảo
sát, khảo nghiệm.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
8.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm cơ sở thực tiễn và lý
luận để huy động các LLXH xây dựng NSVMĐT cho người dân khu vực
đô thị.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Nâng cao sự hiểu biết và thúc đẩy mọi người dân trong cộng đồng dân
cư tham gia vào xây dựng NSVMĐT, đảm bảo phát triển kinh tế đồng hành
với xây dựng nền văn hóa, làm cho cộng đồng dân cư phát triển lành mạnh và
hài hòa, bền vững, loại trừ những thói hư tật xấu, các biểu hiện và hành vi coi
thường pháp luật ra khỏi đời sống cộng đồng.


7


9. Cấu trúc luận văn
Nội dung của luận văn gồm các phần mở đầu, các chương của luận văn,
phần kết luận và phần khuyến nghị; danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục. Cụ
thể trong 3 chương là:
Chương 1: Cơ sở lý luận về huy động các lực lượng xã hội xây dựng
nếp sống văn minh đô thị cho người dân khu vực đô thị.
Chương 2: Thực trạng huy động các lực lượng xã hội xây dựng nếp
sống văn minh đô thị cho người dân tại thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, tỉnh
Sơn La.
Chương 3: Biện pháp huy động các lực lượng xã hội xây dựng nếp sống
văn minh đô thị cho người dân thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.

8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG CÁC LỰC LƯỢNG XÃ HỘI
XÂY DỰNG NẾP SỐNG VĂN MINH ĐÔ THỊ
CHO NGƯỜI DÂN KHU VỰC ĐÔ THỊ
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Xây dựng văn hóa nói chung và xây dựng NSVMĐT nói riêng luôn
được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện. Tại Hội
nghị lần 5 của Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định về phương hướng
chung của việc xây dựng cũng như việc phát triển nền văn hóa của đất nước ta
là: “Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời

sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng
đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người,
tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa
học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến
bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” [1].
Tại Hội nghị lần 9 của Trung ương Đảng khóa XI tiếp tục khẳng định
bổ sung: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân
chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của
xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” [2].
Đại hội lần thứ XII, nhiệm kỳ 2016 – 2020 của Đảng đã xác định về
nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa là một trong bốn nhiệm vụ chính: “Phát triển

9


kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa,
con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng
yếu, thường xuyên” [3].
Ngày 05 tháng 8 năm 2015, UBTWMTTQ Việt Nam đã ban hành Đề
án số 04 về tổ chức để thực hiện CVĐ “Toàn dân đoàn kết xây dựng NTM,
ĐTVM” [16], nhằm mục đích làm cho khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam
không ngừng được củng cố và luôn được phát huy, tạo nên sức mạnh tổng
hợp của toàn thể nhân dân để góp phần hoàn thành được các mục tiêu xây
dựng NTM, ĐTVM và giảm nghèo bền vững.
Có thể khẳng định, cùng với các yếu tố khác trong đời sống của xã hội
thì văn hóa là một bộ phận không thể tách rời nhằm đảm bảo sự phát triển cân

đối, hài hòa giữa vật chất và tinh thần trong xã hội.
Chính vì tầm quan trọng của văn hóa nói chung và văn minh đô thị nói
riêng, đã có nhiều học giả, nhà nghiên cứu trên thế giới và trong nước viết về
đô thị và xây dựng NSVMĐT, chủ yếu tập trung ở các thành phố, khu công
nghiệp... với những công trình nghiên cứu như:
- Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay của tác giả Trần
Văn Bính, xuất bản năm 1998 [4].
- Thực trạng văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam hiện nay
của tác giả Phạm Duy Đức, xuất bản năm 1998 [9].
- Đặc trưng đô thị như là một lối sống (1938) của tác giả Louis Wirth
[11].
- Đô thị (1905) của tác giả Max Weber [12].
- Luận văn thạc sỹ năm 2017 của tác giả Võ Ngọc Thạch về xây dựng
NSVMĐT cho người dân trong cộng đồng tại thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên [13].
Trong thực tế, kinh tế đất nước càng phát triển, đô thị hóa càng nhanh
thì những vấn đề mặt trái nảy sinh làm ảnh hưởng tới xây dựng NSVMĐT

10


càng phức tạp, gây ra những khó khăn không nhỏ cho công tác lãnh đạo cũng
như quản lý của cấp ủy và chính quyền các địa phương. Đây là vấn đề cần
được nghiên cứu hết sức kỹ càng để tìm ra những giải pháp khắc phục có hiệu
quả, không chỉ với địa bàn của thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã mà còn đối
với các vùng đô thị khác trong cả nước.
1.2. Khái niệm cơ bản
1.2.1. Phối hợp
Theo Từ điển Tiếng Việt, “phối hợp” là một động từ, có ý nghĩa là cùng
hành động hoặc hoạt động hỗ trợ lẫn nhau. Hoạt động phối hợp có thể giữa
một số người, một số nhóm, tổ chức, địa phương hoặc các quốc gia để cùng

giải quyết những vấn đề có mối liên quan tới các bên. Trong thực tế hầu như
mọi vấn đề đều cần có sự phối hợp giải quyết của nhiều người, nhiều lực
lượng như: những vấn đề trong sinh hoạt hằng ngày, việc học tập, lao động
sản xuất, chiến đấu, chống biến đổi khí hậu, chống ô nhiễm môi trường... [19]
Trong hoạt động phối hợp, mức độ đóng góp của các bên có thể bằng
nhau hoặc thông thường ở những mức độ khác nhau, liên quan tới chức năng,
nhiệm vụ và nghĩa vụ, lợi ích... của từng chủ thể. Do vậy, cần phải phát huy
cao độ về khả năng của từng chủ thể để cùng phối hợp giải quyết vấn đề một
cách hiệu quả nhất.
1.2.2. Các lực lượng xã hội
Theo Từ điển Tiếng Việt, từ “lực lượng” có những ý nghĩa là [18]:
Một là, sức mạnh có thể tạo nên một tác động nhất định (ví dụ: lực lượng
vật chất; lực lượng tinh thần...).
Hai là, sức mạnh của con người được tổ chức nhau lại để sử dụng vào các
hoạt động của mình (ví dụ: lực lượng quân sự; lực lượng trẻ...).
Từ “lực lượng” ở đây chủ yếu được hiểu theo nghĩa thứ hai.
Về từ “xã hội”, Từ điển Tiếng Việt giải thích như sau [18]:

11


Một là, hình thức sinh hoạt chung có tổ chức của loài người ở một trình độ
phát triển nhất định của lịch sử, xây dựng trên cơ sở một phương thức sản xuất
nhất định (ví dụ: xã hội phong kiến; xã hội tư bản...).
Hai là, chỉ đông đảo những người sống cùng một thời (ví dụ: dư luận xã
hội, lực lượng xã hội...).
Ba là, chỉ một tập hợp những người có địa vị giống nhau (ví dụ: xã hội
thượng lưu...).
Từ “xã hội” trong đề tài này được hiểu theo nghĩa thứ hai nêu trên.
Tóm lại, “lực lượng xã hội” được đề cập trong đề tài là nói tới sức mạnh

của những con người trong cộng đồng và sống cùng thời, có sự tổ chức lại với
nhau để tạo nên sự chuyển biến tốt đẹp hơn trong xã hội.
1.2.3. Xây dựng
Theo Từ điển Tiếng Việt, từ “xây dựng” có những ý nghĩa là [18]:
Thứ nhất, dùng từ “xây dựng” với tư cách là một động từ, nó gồm các ý
nghĩa:
Làm nên công trình kiến trúc theo một kế hoạch nhất định (ví dụ: xây
dựng nhà cửa, công viên...);
Làm cho hình thành một chỉnh thể về các mặt xã hội, chính trị cũng
như kinh tế và văn hóa theo một phương hướng đã được xác định (ví dụ: xây
dựng Đảng hoặc xây dựng chính quyền...);
Tạo ra cái có giá trị tinh thần, có ý nghĩa trừu tượng (ví dụ: xây dựng
đề cương luận văn, xây dựng kế hoạch...);
Trong ngôn ngữ sinh hoạt nói về việc những người có quan hệ gắn kết
chặt chẽ, có sự ràng buộc về tình cảm và trách nhiệm với nhau (ví dụ: xây
dựng gia đình).
Thứ hai, dùng từ “xây dựng” với tư cách là một tính từ (ví dụ: góp ý
mang tính xây dựng).

12


Trong phạm vi nghiên cứu, tác giả sử dụng từ “xây dựng” với tư cách là
một động từ mang ý nghĩa làm cho hình thành một chỉnh thể về các mặt xã hội,
chính trị, kinh tế và văn hóa theo một phương hướng đã được xác định, mà cụ
thể là xây dựng NSVMĐT cho người dân sinh sống ở thị trấn Sông Mã, thuộc
huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.
1.2.4. Nếp sống
Nếp sống là những hành vi ứng xử của con người được biểu hiện thành
một thói quen, được lặp đi và lặp lại, trở thành nền nếp, xác lập nên giá trị

được từng cá nhân và tập thể cộng đồng thừa nhận như trong ăn, mặc, ở, trồng
trọt, lễ nghi, đạo đức, pháp luật... Nếp sống được duy trì và phát huy qua thời
gian dài sẽ trở thành phong tục tập quán, những tiêu chuẩn tư cách và quy tắc
sinh hoạt tập thể của những người sống trong xã hội ấy.
Theo nghĩa rộng, nếp sống là phương thức sinh hoạt, nếp suy nghĩ,
cuộc sống nội tâm của con người, của giai cấp, xã hội và cả dân tộc, nếp sống
phù hợp với lề lối sinh hoạt xã hội.
Hiểu theo nghĩa hẹp thì nếp sống là một bộ phận cấu thành của hình
thái kinh tế, xã hội, phản ánh các lĩnh vực chính trị, lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực
xã hội và tinh thần trong đời sống của xã hội; đó cũng là kết quả tất yếu của
sự kết hợp mọi phương diện và hiện tượng sinh hoạt xã hội, tạo nên hệ thống
những giá trị về mặt tinh thần đang thống trị trong xã hội.
Cuốn “Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng
sản Việt Nam” nêu: “Nếp sống chính là mặt ổn định của lối sống. Nhờ có nếp
sống mà xã hội và con người không cần đi đường vòng, không phải bắt đầu lại
những quá trình lịch sử đã trải qua. Nhờ có nếp sống mà những kinh nghiệm quý
báu trong lối sống của xã hội và con người được giữ lại và phát triển” [10].

13


1.2.5. Văn minh
Xã hội loài người đạt đến một trình độ phát triển ở mức độ cao nhất
định thì được gọi là văn minh với nền văn hóa vật chất và tinh thần có những
đặc trưng riêng. Nếp sống văn minh là trình độ phát triển ở mức cao của văn
hóa, thể hiện lối sống có văn hóa cao, tự giác sống và làm việc theo những
quy định của hiến pháp cũng như của pháp luật.
Từ thế kỷ XIII, các nhà khai sáng Pháp đã đề cập tới khái niệm văn
minh với tư cách là một khái niệm CT - XH. Từ nguyên gốc của văn minh là
civilization vốn có gốc La tinh là civilis, tức là “người thành phố” với cách

hiểu đơn giản về văn minh là sống tại thành phố. Có thể thấy, từ thưở sơ khai
người La tinh chỉ hiểu văn minh là trình độ phát triển của đời sống thị dân,
đặc biệt coi trọng tính ưu việt trong đời sống sinh hoạt hằng ngày và hoạt
động chính trị, hoạt động xã hội của họ, khác hẳn với đời sống còn khá lạc
hậu của các bộ lạc nguyên thủy sống bên ngoài thành thị. Sau này, văn minh
được hiểu một cách trừu tượng theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó nghĩa
bao trùm là nói về một trình độ phát triển nhất định của xã hội về mặt vật chất
cũng như mặt tinh thần.
Trong từng thời kỳ của lịch sử tiến hóa, trình độ phát triển ở mỗi thời
điểm của xã hội loài người có những mức độ khác nhau. Do vậy, không thể
lấy trình độ phát triển của thời kỳ sau – thường là cao hơn – để so sánh, hạ
thấp trình độ phát triển của thời kỳ trước. Văn minh là sự kết hợp đầy đủ của
các yếu tố có tính chất tiên tiến nhất tại thời điểm được xét đến để hình thành,
duy trì và vận hành, thúc đẩy sự tiến hóa của xã hội loài người. Các yếu tố của
văn minh bao gồm những di sản tích lũy về mặt tri thức, tinh thần và vật chất
kể từ khi hình thành loài người cho tới thời điểm của hiện tại.
NSVM là mặt tích cực của nếp sống nên có thể coi NSVM là nếp sống
tích cực của cá nhân hoặc cộng đồng thích hợp với những hoàn cảnh hiện đại

14


của xã hội và hướng đến các giá trị về chân, thiện và mỹ với những biểu hiện
trên các mặt như sau:
- Biểu hiện về trình độ tổ chức, điều kiện vật chất: mức sống, tiện nghi,
lao động, việc làm, thu nhập.
- Biểu hiện về trình độ tổ chức xã hội cao: có trật tự, có kỷ cương, sống
và làm việc theo những quy định của hiến pháp cũng như của pháp luật; có hệ
thống pháp luật quy định về quản lý hành chính và các thủ tục pháp lý khác
để đảm bảo cho con người được tự do hoạt động trong khuôn khổ các chế

định xã hội.
- Biểu hiện về xã hội và nhân văn: trình độ về học vấn, trình độ về
thẩm mỹ, truyền thống dân tộc, chuẩn mực hành vi ứng xử, giá trị chuẩn mực
của cá nhân trong cộng đồng.
- Biểu hiện trong lối sống tích cực của mỗi cá nhân, mỗi gia đình cũng
như của mỗi tập thể và cả cộng đồng, thể hiện trong từng hoạt động cụ thể của
đời sống xã hội, trong giao tiếp, ứng xử, trong việc sáng tạo và hưởng thụ các
giá trị về vật chất, giá trị về tinh thần...
1.2.6. Đô thị
Theo Thông tư số 31, ngày 20 tháng 11 năm 1990 của liên bộ Xây
dựng, Ban tổ chức cán bộ của Chính phủ về phân loại đô thị, phân cấp quản lý
đô thị: Đô thị là điểm dân cư tập trung với mật độ cao, chủ yếu là lao động
ngoài lĩnh vực nông nghiệp, cơ sở hạ tầng đảm bảo thích hợp; đô thị có vai trò
làm trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm có tính chất chuyên ngành để thúc đẩy
kinh tế phát triển, tiến bộ về xã hội của quốc gia hoặc của một vùng trong
tỉnh, trong huyện. Đơn vị hành chính của đô thị là thành phố trực thuộc trung
ương; thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh; phường, thị trấn trực thuộc quận,
huyện được cơ quan nhà nước thành lập [14].

15


1.2.7. Nếp sống văn minh đô thị
Mỗi quốc gia hay một tỉnh, huyện đều có một trung tâm về mặt chính
trị, kinh tế và xã hội, đó là vùng đô thị của đất nước hay của địa phương.
NSVMĐT là toàn bộ các hoạt động vật chất cũng như tinh thần của trung tâm
đó. VMĐT chính là chuẩn mực về văn hóa với các giá trị tốt đẹp đã được xác
định và trở thành tiêu chí để phấn đấu, mang định hướng lâu dài; là tổng hợp
các phương thức tồn tại của yếu tố vật chất, sản xuất yếu tố tinh thần, sự giao
tiếp xã hội, phương thức quản lý xã hội và tái sản xuất về mặt sinh học và xã

hội với trình độ phát triển cao.
NSVMĐT phải tuân theo những giá trị chuẩn mực đã được xác định
trong nền văn hóa dân tộc và có khả năng đáp ứng tốt hơn yêu cầu tổ chức
cuộc sống trong môi trường sinh hoạt đô thị, công nghiệp có sự phát triển cao.
Trong tiến trình đô thị hóa, NSVMĐT là khâu quan trọng, là điều kiện tiên
quyết để xây dựng đô thị phát triển bền vững. NSVMĐT đòi hỏi con người
phải có được những phẩm chất và năng lực sau:
- Sống và làm việc theo hiếp pháp và pháp luật; nội quy và quy chế của
cơ quan hoặc đơn vị; quy ước và hương ước của cộng đồng dân cư.
- Có tình yêu quê hương, đất nước; có lòng tự hào về Tổ quốc, về dân
tộc; có ý chí để tự lực và thực hiện tự cường, phấn đấu xây đắp quê hương,
đất nước tiến lên giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
- Đoàn kết cộng đồng, chủ động hợp tác, giúp đỡ nhau để cùng tiến bộ;
tôn trọng quyền lợi của tập thể và của người khác.
- Tác phong có tính công nghiệp cả trong sinh hoạt và lao động, học
tập; biết đặt việc công lên trên hết, trước hết; có ý thức bảo vệ tài sản chung
của cộng đồng, tập thể; thường xuyên giữ gìn VSMT, an toàn giao thông, trật
tự công cộng.

16


- Có lối sống sống lành mạnh, cần kiệm, nhân nghĩa, trung thực, thủy
chung; khiêm tốn, ham học hỏi để ngày càng tiến bộ.
- Tôn trọng và giữ gìn, đồng thời phát huy những giá trị cốt lõi tốt đẹp
trong truyền thống của dân tộc; xây dựng một cuộc sống gia đình hạnh phúc
và tiến bộ.
1.2.8. Vai trò của nếp sống văn minh đô thị trong sự phát triển cộng
đồng thành thị
Đô thị muốn phát triển bền vững, lành mạnh thì việc xây dựng NSVMĐT

là hết sức quan trọng và cần thiết.
NSVMĐT là hình thành cho người dân đô thị nếp sống mang nét đẹp
văn hóa, tự giác sống và làm việc theo những quy định của hiến pháp, quy định
của pháp luật; bảo vệ và phát huy những truyền thống cao đẹp của nhân dân ta;
giúp cho người dân có được những kiến thức, thái độ và các kỹ năng sống phù
hợp với môi trường sống ở đô thị thông qua việc tuyên truyền và giáo dục để
từng bước thay đổi những hành vi, thói quen không tốt nêu trên.
Cộng đồng người dân ở đô thị có NSVM sẽ huy động được sức mạnh
tổng hợp để có thể phát triển về kinh tế, về văn hóa và về xã hội, giữ vững an
ninh về mặt chính trị, bảo đảm về trật tự và an toàn của xã hội; tạo môi trường
sống lành mạnh, động viên, khuyến khích mỗi công dân trở nên tích cực, chủ
động phát huy năng lực và phẩm chất cá nhân, đóng góp ngày càng nhiều đối
với sự phát triển chung của toàn xã hội.
1.2.9. Các tiêu chí về nếp sống văn minh đô thị
Ngày 24 tháng 01 năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban
hành Thông tư số 02 quy định về chi tiết các tiêu chuẩn, trình tự và thủ tục xét
công nhận đối với “Phường đạt chuẩn văn minh đô thị”, “Thị trấn đạt chuẩn
văn minh đô thị” (gọi chung là “Phường, Thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị”)
tại Điều 4 với những nội dung như sau [5]:

17


- Về quản lý kiến trúc, xây dựng đô thị theo quy hoạch, gồm có 05 tiêu
chuẩn: quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết đô thị; việc xây dựng, nâng cấp
và cải tạo các công trình công cộng; tỷ lệ xây mới của các công trình công
cộng; việc thực hiện công tác quản lý Nhà nước trong xây dựng; việc quản lý,
khai thác và sử dụng các công trình công cộng.
- Về nâng cao chất lượng gia đình văn hóa, tổ dân phố văn hóa, gồm 05
tiêu chuẩn: tỷ lệ các hộ gia đình được công nhận danh hiệu “Gia đình văn

hóa” 03 năm liên tục trở lên; tỷ lệ nhà ở được xây dựng mới hoặc cải tạo,
chỉnh trang của người dân; tỷ lệ các tổ dân phố được công nhận danh hiệu
“Tổ dân phố văn hóa” 06 năm liên tục trở lên; tỷ lệ tổ dân phố vận động được
người dân tham gia vào việc bảo dưỡng, nâng cấp cơ sở hạ tầng đô thị và bảo
đảm về vệ sinh môi trường; tỷ lệ các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đóng trên
địa bàn đạt tiêu chuẩn văn hóa 05 năm liên tục trở lên.
- Về xây dựng NSVM, môi trường văn hóa của đô thị, gồm 05 tiêu
chuẩn: tỷ lệ hộ gia đình thực hiện tốt NSVM trong việc cưới, việc tang, lễ hội
và NSVMĐT; không có tình trạng lấn chiếm, gây cản trở giao thông, gây mất
mỹ quan đô thị; đạt tỷ lệ cây xanh công cộng, đất giao thông tĩnh, tiêu chuẩn
về cấp thoát nước và chiếu sáng đô thị; thu gom đối với rác thải theo quy
định; tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường; quan hệ
giữa các thành viên trong cộng đồng thân thiện, đoàn kết.
- Về xây dựng phong trào văn hóa, thể thao, gồm có 04 tiêu chuẩn về:
cơ sở vật chất, trang thiết bị, tổ chức, duy trì hoạt động của trung tâm văn hóa
- thể thao cấp phường, thị trấn; tỷ lệ tổ dân phố có các điểm sinh hoạt văn
hóa, thể thao; duy trì thường xuyên các hoạt động VH, VN, TDTT, bảo tồn
các di tích lịch sử, di tích văn hóa và các danh lam thắng cảnh; việc đảm bảo
an ninh về chính trị và trật tự, an toàn của xã hội.

18


- Về nghiêm chỉnh chấp hành các chủ trương của Đảng, pháp luật của
Nhà nước và quy định của địa phương, gồm 05 tiêu chuẩn: việc tuyên truyền
và chấp hành về đường lối, chính sách cũng như pháp luật của Đảng, Nhà
nước; việc xây dựng và việc thực hiện quy ước, hương ước; giải quyết các
mâu thuẫn và bất hòa trong nhân dân ngay tại cộng đồng; thực hiện tốt các nội
dung của quy chế về dân chủ ở cơ sở; xử lý kịp thời, dứt điểm các vi phạm về
quy hoạch, kiến trúc, xây dựng đô thị; các cơ sở kinh doanh, dịch vụ văn hóa

thực hiện theo đúng pháp luật.
1.3. Xây dựng nếp sống văn minh đô thị
1.3.1. Đặc điểm nhận thức và lối sống của người dân đô thị
Người dân đô thị hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực phi nông nghiệp. Họ
sinh sống trong một môi trường có hoạt động kinh tế tập trung hóa và phát
triển sản xuất theo ngành; xã hội có tính cơ động cao, mức độ lao động khẩn
trương, năng suất lớn; điều kiện sinh hoạt vật chất và hưởng thụ văn hóa
thuận lợi, được tiếp cận với nhiều cái mới tiến bộ; môi trường có tính nhân
tạo cao, mọi hoạt động được điều chỉnh bởi những thiết chế hành chính chặt
chẽ, quy củ...
Trong môi trường như vậy, người dân đô thị có đặc điểm nhận thức cao
hơn so với vùng nông thôn. Họ nhanh chóng tiếp cận, tiếp thu những giá trị văn
hóa mới, có tinh thần kỷ luật cao, tác phong trong sinh hoạt và lao động, học
tập nhanh nhẹn, khoa học; thẳng thắn phê phán đối với những lời nói, việc làm,
hành vi trái pháp luật và những chuẩn mực giao tiếp trong xã hội.
Những phẩm chất tích cực của người dân đô thị làm cho đô thị ngày
càng phát triển ở trình độ cao hơn. Khi đô thị càng phát triển thì nhận thức của
những người dân sinh sống trong cộng đồng lại càng được nâng cao. Đó là mối
quan hệ có tính chất tác động qua lại thường xuyên và không thể tách rời nhau.

19


Dân cư đô thị ở nước ta có đặc điểm về nguồn gốc là phần lớn từ nông
thôn chuyển ra thành thị hoặc vốn là dân cư vùng nông thôn được đô thị hóa.
Do vậy, dù ít hay nhiều thì họ vẫn có mối liên hệ gắn bó với nông thôn và vẫn
còn ảnh hưởng bởi những thói quen, nếp sống ở nông thôn. Điều này tạo nên
sự “khập khiễng” giữa môi trường sống và nếp sống của con người, đặt ra vấn
đề phải từng bước làm cho họ thích nghi với cuộc sống, nếp sống ở đô thị.
Theo Louis Wirth, quá trình đô thị hóa còn làm cho suy giảm các mối

quan hệ có tính gần gũi giữa từng cá nhân, kể cả trong quan hệ xã hội và quan
hệ gia đình [11].
Trong cuốn “Đô thị”, Max Weber cho rằng cơ cấu xã hội của đô thị tạo
ra khả năng cho sự phát triển của cá nhân và là công cụ cho sự thay đổi của
lịch sử. Ông xem xét đô thị như là một thiết chế xã hội [12].
Nhìn chung, nhận thức của người dân khu vực đô thị có mức độ cao
vượt bậc khi so sánh với các khu vực khác. Trách nhiệm của các cấp, các
ngành, của người lãnh đạo, quản lý là phải phát huy được cao độ tính tích cực
và hạn chế tối đa mặt yếu kém của họ một cách hài hòa và hợp lý theo các giá
trị về văn hóa tốt đẹp đã được dân tộc ta truyền lại qua nhiều thế hệ và nhằm
đáp ứng tốt hơn yêu cầu tổ chức cuộc sống của dân cư đô thị trong sự phát triển
nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên toàn thế giới .
1.3.2. Nội dung, phương pháp xây dựng nếp sống văn minh đô thị
cho người dân khu vực đô thị
NSVMĐT bao hàm phạm vi rất rộng, trong cả đời sống vật chất cũng
như trong đời sống tinh thần của dân cư đô thị, mọi lĩnh vực, mọi loại hình
cộng đồng... Trong phạm vi của đề tài, tác giả tập trung vào việc nghiên cứu
các nội dung sau:
1.3.2.1. Xây dựng nếp sống văn minh trong đảm bảo an toàn giao thông

20


Văn hóa giao thông là một nội dung quan trọng trong NSVMĐT. Đô thị
là nơi tập trung đông dân cư, mật độ của các phương tiện tham gia giao thông
trên địa bàn lớn, lượng người lưu thông từ các khu vực khác vào địa bàn đô
thị đông, khả năng xảy ra mất an toàn giao thông là rất lớn. Tuy vậy, một bộ
phận người dân đô thị và người dân từ vùng nông thôn tới lại thiếu ý thức
đảm bảo ATGT cho chính mình và cho mọi người qua việc để phương tiện
giao thông, vật liệu xây dựng, hàng hóa, biển quảng cáo... lấn chiếm vỉa hè,

lòng đường; lạng lách, đánh võng, không chấp hành đội mũ bảo hiểm, vượt
đèn đỏ; chủ quan khi điều khiển phương tiện giao thông cá nhân sau khi sử
dụng bia, rượu...
Xây dựng NSVM trong đảm bảo ATGT cho người dân đô thị gồm
những nội dung sau:
- Tăng cường tuyên truyền trên các phương tiện thông tin có tính đại
chúng, tờ rơi, hội nghị tuyên truyền ở tổ dân phố, hoạt động ngoại khóa trong
các nhà trường, ký bản cam kết để nâng cao về mặt ý thức của mỗi người dân
trong việc chấp hành pháp luật về đảm bảo ATGT.
- Chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về giao thông; kiên
quyết xử lý, khắc phục tình trạng vi phạm gây mất ATGT trên địa bàn.
1.3.2.2. Xây dựng nếp sống văn minh trong bảo vệ sự trong sạch của
môi trường sống
Đô thị càng phát triển thì yêu cầu bảo vệ môi trường càng lớn. Do vậy,
cần hình thành cho người dân thói quen giữ gìn VSMT như: Đổ rác đúng nơi
và thời gian quy định; không quét rác, không mang xác động vật chết hay để
nước thải từ nhà riêng ra tập kết tại vỉa hè hay đổ ra lòng đường, cống rãnh,
dòng sông, suối; thùng rác phải hợp vệ sinh, có đầy đủ nắp đậy; thực hiện tốt
việc phân loại rác vô cơ, hữu cơ; không thả rông các loại vật nuôi như trâu,
bò, dê, chó...; thường xuyên tiêm phòng dịch bệnh đầy đủ cho vật nuôi; không

21


dán các loại tờ quảng cáo rao vặt, viết, vẽ bậy tại những nơi công cộng; không
phơi quần áo, đồ dùng gây mất mỹ quan đô thị; không phóng uế bừa bãi, sai
nơi quy định; thực hiện nghiêm chỉnh việc nộp phí VSMT.
Xây dựng hệ thống giao thông, hệ thống cấp thoát nước theo quy
hoạch, không để xảy ra tình trạng ngập úng. Trồng và chăm sóc, bảo vệ cây
xanh, góp phần cải thiện môi trường sống.

Phát động rộng rãi phong trào tích cực thi đua xây dựng đô thị “xanh,
sạch, đẹp, văn minh”, đặc biệt là trong đoàn viên và hội viên các đoàn thể CT
- XH từ thị trấn đến các tổ dân phố.
1.3.2.3. Xây dựng cộng đồng không có nạn đánh bạc
Đô thị phát triển ngày càng văn minh, hiện đại, nhưng tệ nạn đánh bạc
với các hình thức đánh bài, xóc đĩa, ghi số đề… vẫn diễn ra, thậm chí còn có
cả một số CB, ĐV tham gia. Đặc biệt, tại các đám cưới, đám tang, mừng nhà
mới ở một số nơi việc đánh bạc diễn ra công khai nhưng hầu như không bị xử
lý, gây bức xúc nhân dân và tạo dư luận xã hội không tốt. Tệ nạn đánh bạc
ngoài việc gây ảnh hưởng xấu tới đời sống văn hóa lành mạnh trong cộng
đồng, còn là nguyên nhân gây tổn thất về kinh tế, ảnh hưởng đến hạnh phúc
gia đình, gây mất trật tự xã hội trong cộng đồng. Phòng chống tệ nạn đánh bạc
là một trong những nội dung quan trọng và rất cần thiết để xây dựng đô thị
văn minh, với các nội dung như sau:
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao về mặt nhận
thức và làm cho CB, CC, VC cũng như mỗi người dân có ý thức trách nhiệm
cao trong tham gia phòng và chống tệ nạn đánh bạc.
- Tăng cường việc kiểm tra, kiểm soát địa bàn, đưa công tác phòng
chống nạn đánh bạc trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm và thường
xuyên của các cấp, các ban ngành, các đoàn thể và của từng người dân.

22


- Phát huy tốt vai trò và tăng cường năng lực thực hiện nhiệm vụ của
lực lượng công an, các nhóm liên gia tự quản ở các tổ dân phố để tổ chức tốt
công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn đánh bạc.
- Thực hiện nghiêm túc việc xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật
đối với hành vi đánh bạc.
1.3.2.4. Xây dựng nếp sống văn minh trong hành vi ứng xử nơi công cộng

Nơi công cộng, những hành vi ứng xử như vứt rác bừa bãi, nói tục,
chửi bậy, xô đẩy chen lấn khi tham gia các hoạt động nơi công cộng, thiếu tôn
trọng mọi người xung quanh... làm mất đi nét đẹp văn hóa cần thiết của môi
trường sinh hoạt đô thị. Để xây dựng NSVM trong hành vi ứng xử nơi công
cộng, cần phải thực hiện tốt những nội dung sau:
- Tuyên truyền và giáo dục cho mọi người về hành vi ứng xử có tính
văn minh, nhất là trong từng gia đình, ông bà, bố mẹ phải thường xuyên dạy
bảo và nêu gương cho con cháu làm theo.
- Trong nhà trường, người giáo viên phải thường xuyên quan tâm giáo
dục cho học sinh về cách ứng xử có tính văn minh ở nơi công cộng; tổ chức
thường xuyên các hoạt động ngoại khóa, giao lưu để trao đổi, tìm hiểu và hình
thành những thói quen về ứng xử có tính văn hóa.
1.3.3. Vai trò của các lực lượng xã hội tham gia xây dựng nếp sống
văn minh đô thị cho người dân khu vực đô thị
1.3.3.1. Cấp ủy địa phương
- Ban hành nghị quyết lãnh đạo việc huy động các lực lượng tham gia
xây dựng NSVMĐT cho người dân khu vực đô thị. Nội dung lãnh đạo tập
trung vào bốn nhiệm vụ: xây dựng NSVM trong đảm bảo ATGT; xây dựng
NSVM trong bảo vệ môi trường; xây dựng cộng đồng không có nạn đánh bạc;
xây dựng NSVM trong hành vi ứng xử nơi công cộng.

23


- Tổ chức việc quán triệt và triển khai nghị quyết tới các tổ chức đảng,
CB, ĐV và nhân dân một cách sâu sắc, đầy đủ và có hiệu quả.
- Chỉ đạo chính quyền địa phương xây dựng kế hoạch để triển khai tổ
chức thực hiện nghị quyết một cách cụ thể, đầy đủ.
- Thường xuyên tiến hành việc kiểm tra cũng như giám sát việc thực
hiện các nội dung nghị quyết của các tổ chức đảng, UBND thị trấn. Định kỳ

hằng năm tiến hành sơ kết để đánh giá tình hình triển khai thực hiện nghị
quyết để phát huy những kết quả và giải quyết những mặt còn hạn chế, chưa
đạt yêu cầu.
1.3.3.2. Chính quyền địa phương
- Trên cơ sở các nội dung nghị quyết của cấp ủy lãnh đạo việc huy động
các lực lượng tham gia xây dựng NSVMĐT cho người dân, chính quyền xây
dựng kế hoạch triển khai tổ chức thực hiện; xác định rõ mục đích, yêu cầu,
nội dung cần thực hiện, có sự phân công những nhiệm vụ cụ thể đối với từng
cán bộ, công chức, từng tổ dân phố, trường học, trạm y tế... để thực hiện.
- Tổ chức hội nghị để quán triệt và triển khai thực hiện kế hoạch; chỉ
đạo các tổ dân phố thực hiện tốt việc tổ chức hội nghị toàn dân để tuyên
truyền, phổ biến nội dung kế hoạch.
- Chỉ đạo triển khai thực hiện các nội dung kế hoạch với thời gian, cách
thức thực hiện, phân công nhiệm vụ một cách rõ ràng, khoa học và kiên quyết.
- Ban hành văn bản đề nghị các cơ quan và đơn vị của huyện, tỉnh có
trụ sở đóng trên địa bàn thị trấn phối hợp để thực hiện các nội dung kế hoạch.
- Làm tốt việc biểu dương và khen thưởng những tập thể và cá nhân
tham gia thực hiện tốt việc xây dựng NSVMĐT; xử lý nghiêm khắc những
trường hợp vi phạm. Hằng năm tiến hành việc sơ kết đánh giá việc thực
hiện các nội dung, chỉ tiêu kế hoạch một cách nghiêm túc, chính xác và
khách quan.

24


- Chỉ đạo lực lượng công an, đội quy tắc đô thị tăng cường tuần tra, kiểm
tra, phát hiện, thu thập chứng cứ và xử lý hoặc đề nghị xử lý theo quy định đối
với các tổ chức, các hộ dân và các cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về vệ
sinh môi trường, an toàn giao thông và tổ chức, tham gia tệ nạn đánh bạc.
- Phát huy tác dụng của các thiết chế văn hóa hiện có, lồng ghép nội dung

tuyên truyền về xây dựng NSVMĐT trong các hoạt động VH, VN, TDTT.
- Đôn đốc các tổ dân phố, công nhân thu gom rác thực hiện các nội
dung về công tác vệ sinh môi trường, tham mưu giúp chính quyền giải quyết
các công việc phát sinh về VSMT.
- Chỉ đạo Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật chủ động xây dựng kế
hoạch công tác tuyên truyền, công tác phổ biến và giáo dục về pháp luật có
nội dung liên quan tới NSVMĐT, giúp CB, ĐV và nhân dân có sự nâng cao
hiểu biết và có ý thức tự giác chấp hành các nội dung đã được pháp luật quy
định trong mọi hoạt động.
- Chỉ đạo các đơn vị trường học thường xuyên giáo dục cho các em học
sinh ý thức chấp hành pháp luật, rèn luyện hành vi ứng xử văn minh nơi công
cộng thông qua việc lồng ghép vào các giờ học chính khóa, ngoại khóa và
trong tổ chức các hoạt động khác của nhà trường.
- Chỉ đạo sử dụng hương ước, quy ước tổ dân phố một cách có hiệu quả
để giáo dục, hình thành NSVMĐT cho người dân. Thực hiện tốt việc nghiên
cứu sửa đổi, bổ sung hương ước và quy ước của tổ dân phố trình cấp có thẩm
quyền phê duyệt để triển khai tổ chức thực hiện. Gắn việc thực hiện các nội
dung của hương ước và quy ước với nội dung CVĐ “Toàn dân đoàn kết xây
dựng NTM, ĐTVM” ở từng tổ dân phố.
1.3.3.3. Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể CT - XH địa phương
- Thường xuyên tuyên truyền một cách sâu rộng đến các đoàn viên, hội
viên trong phạm vi quản lý về những nội dung cơ bản của pháp luật liên quan tới

25


×