Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

vấn đề minh bạch và công khai hóa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.81 KB, 11 trang )

“Anh/chị hãy chỉ rõ mục đích, ý nghĩa của vấn đề minh bạch và công khai
hóa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất? Pháp luật đất đai hiện hành có nhiều quy
định thể hiện những yêu cầu cụ thể về công khai, minh bạch trong quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất, tuy nhiên trên thực tế thực hiện chưa nghiêm túc và chưa hiệu
quả vấn đề này. Bằng kiến thức đã học và quan sát thực tiễn, anh chị hãy làm sáng
tỏ vấn đề này.”

NỘI DUNG
1. Vấn đề minh bạch và công khai hóa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Minh bạch và công khai
Công khai là một khái niệm có tính lịch sử mà sự ra đời, phát triển của nó là
tiền đề, là điều kiện tiên quyết của sự dân chủ trong các hoạt động của xã hội loài
người. Trong tiếng Anh, công khai là “Transparency”. Theo sách Đại từ điển Tiếng
Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì công khai là "không giấu diếm, bí mật mà cho
mọi người cùng biết". Cụm từ “Minh bạch” - sáng rõ, rành mạc thường đi cùng và
gắn liền cụm từ “Công khai”. Với ý nghĩa và bản chất như vậy nên minh bạch công khai luôn được sử dụng như một biện pháp hữu hiệu để phòng, chống các
hành vi tiêu cực trong các hoạt động có tổ chức, đặc biệt là hoạt động của các cơ
quan có được trao quyền lực công. Nguyên tắc này xuất phát từ đòi hỏi chính đáng
của người dân với tư cách là người nộp thuế cho Nhà nước.
1.1.2. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất


Xét về mặt thuật ngữ, quy hoạch nói chung được hiểu là “sự bố trí sắp xếp
toàn bộ theo một trình tự hợp lý trong từng thời gian, làm cơ sở cho việc lập kế
hoạch dài hạn”.
Quy hoạch sử dụng đất là sự tính toán, phân bổ đất đai cụ thể về số lượng,
chất lượng, vị trí, không gian cho các mục tiêu kinh tế - xã hội, bảo đảm cơ sở
khoa học và thực tế của các mục tiêu kinh tế - xã hội để việc sử dụng đất phù hợp
với các điều kiện về đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng và từng ngành sản xuất.
Khoản 2 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định về quy hoạch sử dụng đất:


“Quy hoạch sử dụng đất là việc phân bổ và khoanh vùng đất đai theo không gian
sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ
môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở tiềm năng đất đai và nhu cầu
sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực đối với từng vùng kinh tế - xã hội và đơn vị
hành chính trong một khoảng thời gian xác định.”
Khoản 3 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định về kết hoạch sử dụng đất:
“Kế hoạch sử dụng đất là việc phân chia quy hoạch sử dụng đất theo thời gian để
thực hiện trong kỳ quy hoạch sử dụng đất.”
Quy hoạch sử dụng đất bao giờ cũng gắn liền với kế hoạch sử dụng đất. Bởi
vì kế hoạch sử dụng đất chính là việc xác định các biện pháp, thời gian để sử dụng
đất theo quy hoạch. Do đó, trong một số trường hợp, quy hoạch sử dụng đất đã bao
hàm cả kế hoạch sử dụng đất.
Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất có ý nghĩa to lớn trong công tác quản lí
và sử dụng đất đai. Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất là công việc của tất cả các
cơ quan quản lí đất đai và các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất của Nhà
nước. Đối với Nhà nước đó là sự đảm bảo cho việc sử dụng đất đai hợp lý và tiết


kiệm, đạt các mục tiêu nhất định, phù hợp với các quy định. Đồng thời tạo điều
kiện cho Nhà nước theo dõi, giám sát được quá trình sử dụng đất.
1.2. Mục đích, ý nghĩa của công khai, minh bạch quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất
Trong công tác quản lý đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chính là cơ
sở khoa học, là căn cứ pháp lý quan trọng để Nhà nước quản lý các biến động về
đất đai. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những phương tiện để Nhà
nước thực hiện các chủ trương, chính sách đất đai của mình, giúp Nhà nước can
thiệp một cách sâu sắc vào quá trình sử dụng đất, đồng thời khắc phục những khó
khăn. Mục đích, ý nghĩa của việc công khai, minh bạch quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất tạo điều kiện để đất đai được sử dụng hợp lý, có hiệu quả và thuận tiện
hơn. Cụ thể:

Thứ nhất, đây là biện pháp thiết lập sự bình đẳng trong việc tiếp cận đất đai,
thực hiện quyền và nghĩa vụ sử dụng đất giữa nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài. Mở rộng quyền cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người Việt
Nam định cư ở nước ngoài được nhận chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền
sử dụng đất.
Thứ hai, minh bạch – công khai giúp các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân
có liên quan dễ dàng ý thức được các quyền và nghĩa vụ của mình để chủ động
thực hiện theo các quy định của pháp luật, đồng thời cũng đòi hỏi tính trung thực
của cơ quan nhà nước và các cán bộ, công chức nhà nước thực hiện các quy định
của pháp luật. Công khai, minh bạch sẽ làm cho các công chức nhà nước có ý thức
hơn trong việc thực hiện chức trách công vụ của mình theo đúng trình tự, thủ tục,
thẩm quyền mà pháp luật quy định. Bởi vì, mọi hành vi vi phạm, phiền hà sách
nhiễu hay lợi dụng chức trách tư lợi đều có thể bị phát hiện và xử lý.


2. Luật Đất đai 2013 quan tâm, chú trọng đến tính minh bạch và công
khai trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những công cụ hữu hiệu để
Nhà nước quản lý đất đai được thống nhất, hiệu quả và đảm bảo cho đất đai được
sử dụng hợp lý, tiết kiệm. Trong những năm qua, các quy định của pháp luật về
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Trong
Luật đất đai 2003 cũng đã nhắc đến vấn đề công khai, minh bạch về quy hoạch, kế
hoach sử dụng đất trong Điều 21 song mới chỉ đề cập đến chứ chưa có quy định
triển khai rõ ràng, Luật đất đai 2013 đã quan tâm và chú trọng hơn đến quy tắc này.
Được thể hiện ở việc kế thừa và ngày càng hoàn thiện hơn các quy định về quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Thứ nhất, về nguyên tắc lập kế hoạch, quy hoạch: để kế hoạch, quy hoạch sử
dụng đất được hợp lý, hiệu quả, tránh chồng chéo Luật đất đai năm 2013 bổ sung
một số quy định quan trọng trong nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất,
cụ thể là: Bổ sung thêm vào Khoản 2 Điều 35 quy định: “Quy hoạch sử dụng đất

cấp quốc gia phải bảo đảm tính đặc thù, liên kết của các vùng kinh tế - xã hội; quy
hoạch sử dụng đất cấp huyện phải thể hiện nội dung sử dụng đất của cấp xã”; Đồng
thời, Bổ sung mới 2 nguyên tắc:“Bảo đảm ưu tiên quỹ đất cho mục đích quốc
phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, công cộng, an ninh lương thực và bảo vệ
môi trường” (Khoản 7 Điều 35);“Quy hoạch, kế hoạch của ngành, lĩnh vực, địa
phương có sử dụng đất phải bảo đảm phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê duyệt” (Khoản 8 Điều
35).
Thứ hai, về kỳ kế hoạch sử dụng đất: kế thừa Luật đất đai năm 2003, Luật
đất đai năm 2013 vẫn quy định kỳ kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp tỉnh và
kế hoạch sử dụng đất quốc phòng, an ninh là 5 năm. Tuy nhiên, đối với kế hoạch


sử dụng đất cấp huyện, nhằm đảm bảo tính khả thi của kế hoạch sử dụng đất, Luật
đất đai năm 2013 quy định “Kế hoạch sử dụng đất cấp huyện được lập hàng năm”
(Khoản 2 Điều 37).
Thứ ba, về căn cứ và nội dung lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: nhằm
khắc phục được những khó khăn khi lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Luật đất
đai năm 2013 quy định đầy đủ, rõ ràng căn cứ và nội dung lập quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất của từng cấp.
Điểm mới có tính đột phá trong nội dung lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất trong Luật đất đai năm 2013 là quy định kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp
huyện làm cơ sở thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
gắn với nhu cầu sử dụng đất trong năm của các ngành, lĩnh vực, của các cấp, phù
hợp với khả năng đầu tư và huy động nguồn lực, khắc phục lãng phí trong việc
giao đất cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư.
Về nội dung kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện cũng có bổ sung
một số quy định như: “Xác định vị trí, diện tích đất phải thu hồi để thực hiện công
trình, dự án sử dụng đất vào mục đích quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật
này trong năm kế hoạch đến từng đơn vị hành chính cấp xã. Đối với dự án hạ tầng

kỹ thuật, xây dựng, chỉnh trang đô thị, khu dân cư nông thôn thì phải đồng thời xác
định vị trí, diện tích đất thu hồi trong vùng phụ cận để đấu giá quyền sử dụng đất
thực hiện dự án nhà ở, thương mại, dịch vụ, sản xuất, kinh doanh” (Điểm c Khoản
4 Điều 40) và “Lập bản đồ kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện” (Điểm
đ Khoản 4 Điều 40).
Để tránh chồng chéo trong quy hoạch, Luật đất đai năm 2013 đã quy định
mối liên kết giữa qu y hoạch sử dụng đất với quy hoạch đô thị trên địa bàn quận tại
Khoản 5 Điều 40, cụ thể là: “Đối với quận đã có quy hoạch đô thị được cơ quan


nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì không lập quy hoạch sử dụng đất nhưng
phải lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm; trường hợp quy hoạch đô thị của quận
không phù hợp với diện tích đã được phân bổ trong quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh
thì phải điều chỉnh quy hoạch đô thị cho phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp
tỉnh”
Thứ tư, lấy ý kiến về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Đây là nội dung
được bổ sung mới trong Luật đất đai năm 2013 và được quy định tại Điều 43. Cụ
thể là: Cơ quan có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất là cơ quan tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng;
việc lấy ý kiến được tiến hành theo hình thức, nội dung và thời gian lấy ý kiến
nhân dân cụ thể; việc xây dựng báo cáo tổng hợp, tiếp thu, giải trình ý kiến của
nhân dân và hoàn thiện phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trước khi trình
Hội đồng thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cơ quan tổ chức lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng thực hiện. Quy định này góp phần tăng cường hơn nữa
tính công khai, dân chủ trong quản lý, sử dụng đất.
Thứ năm, thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: để đảm
bảo quản lý chặt chẽ và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai, Luật
đất đai năm 2013 bổ sung quy định “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh thông qua danh mục dự án cần thu hồi đất quy định tại Khoản 3 Điều
62 của Luật này trước khi phê duyệt kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp

huyện” (Khoản 3 Điều 45).
Thứ sáu, tư vấn lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Nhằm chuyên môn
hóa các tổ chức, cá nhân hoạt động tư vấn quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, góp
phần nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Luật đất đai năm 2013
bổ sung thêm vấn đề“Tư vấn lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất” (Điều 47), cụ
thể là: Trong quá trình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, cơ quan chịu trách


nhiệm chủ trì việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được thuê tư vấn lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Luật giao Chính phủ quy định điều kiện của tổ chức,
cá nhân hoạt động tư vấn lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Thứ bảy, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: để đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất trong vùng quy hoạch đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt không bị ảnh hưởng, ngoài những nội dung kế thừa
Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013 bổ sung điểm mới quy định rõ
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, cụ thể: “Trường hợp quy hoạch sử dụng
đất đã được công bố mà chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì
người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng và được thực hiện các quyền của người sử
dụng đất theo quy định của pháp luật. Trường hợp đã có kế hoạch sử dụng đất hàng
năm của cấp huyện thì người sử dụng đất trong khu vực phải chuyển mục đích sử
dụng đất và thu hồi đất theo kế hoạch được tiếp tục thực hiện các quyền của người
sử dụng đất nhưng không được xây dựng mới nhà ở, công trình, trồng cây lâu năm;
nếu người sử dụng đất có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình hiện có thì
phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật”
(Khoản 2 Điều 49). Ngoài ra, để khắc phục những khó khăn, bất cập trong việc
giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất tại thời điểm kết thúc kỳ quy
hoạch sử dụng đất mà quy hoạch sử dụng đất kỳ mới chưa được phê duyệt, Khoản
4 Điều 49 Luật đất đai năm 2013 có quy định: “Khi kết thúc kỳ quy hoạch sử dụng
đất mà các chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất chưa thực hiện hết thì vẫn được tiếp tục
thực hiện đến khi quy hoạch sử dụng đất kỳ tiếp theo được cơ quan nhà nước có

thẩm quyền quyết định, phê duyệt”.
Như vậy, nguyên tắc công khai – minh bạch được thể hiện trong hầu hết các
điều luật trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Luật đất đai 2013, ngoài việc chú
trọng công khai quá trình làm thủ tục đất, phế duyệt các kế hoach, quy hoạch sử


dụng đất,... còn luôn quan tâm đến quyền và lợi ích của người dân, trách nhiệm của
các cơ quan có thẩm quyền, tạo điều kiện tốt nhất để người dân có thể tiếp thu với
các chính sách, pháp luật về đất đai.
3. Thực tiễn về công khai, minh bạch trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Việc thiếu minh bạch trong công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã
gây ra nhiều hệ lụy với thị trường bất động sản và đời sống người dân.
Từ trước tới nay, câu chuyện minh bạch trong công tác thông tin quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất luôn nhận được sự quan tâm của nhiều người, nhất là các nhà
đầu tư.
Mặc dù thông tin quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có tác động rất lớn tới
quyền lợi của người dân và công tác công bố thông tin quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất đã được quy định rất cụ thể, là yêu cầu bắt buộc trong Luật Đất đai, Luật
Phòng chống tham nhũng và nhiều văn bản pháp lý khác nhau, nhưng trên thực tế,
việc thực hiện còn nhiều hạn chế.
Báo cáo về Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam
(PAPI) cho thấy, mặc dù các địa phương trên cả nước đã có nhiều chuyển biến
trong công tác công khai, minh bạch quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và giá bồi
thường thu hồi đất, song vẫn chỉ ở mức khiêm tốn.
Thiếu minh bạch trong quy hoạch cũng dẫn tới những vụ tranh chấp giữa cư
dân và chủ đầu tư dự án bất động sản.
Cụ thể, năm 2015 có 17,86% số người được biết về quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất, thì con số của năm 2018 tăng lên 21,61%. Tuy nhiên, cũng chỉ có chưa
đến 1/3 người có cơ hội đóng góp ý kiến cho các bản quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất ở địa phương.



Hệ quả từ việc thiếu thốn các thông tin về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
tạo ra rủi ro cho các giao dịch chuyển nhượng đất đai, đồng thời tiềm ẩn những
nguy cơ về tham nhũng. Một trong những ví dụ đơn giản nhất có thể nhìn thấy là
việc khi muốn mua quyền sử dụng một mảnh đất, phần lớn người tham gia giao
dịch khó kiểm chứng được miếng đất đó có tranh chấp hay giải tỏa gì không.
Theo quy định hiện nay, với thông tin quy hoạch, Phòng Tài nguyên – Môi
trường của quận/huyện nơi mảnh đất tọa lạc sẽ nắm thông tin này và sẽ cung cấp
thông tin khi có yêu cầu của người dân. Tuy nhiên, trên thực tế, không dễ để người
dân có được thông tin từ cơ quan này.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về đất
đai, đầu năm 2018, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị 01/CT-TTg yêu cầu chấn
chỉnh, tăng cường công tác quản lý đất đai và xây dựng hệ thống thông tin đất đai.
Theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương cần công bố công khai đến người dân, doanh nghiệp các thủ
tục hành chính, thông tin về quy hoạch đất đai, xây dựng.
Trên thực tế, đã có nhiều bài học về sự buông lỏng quản lý, thiếu định hướng
trong quy hoạch, không công khai thông tin quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất kịp
thời dẫn đến nhiều hệ lụy, những vụ khiếu kiện đông người, kéo dài.
Câu chuyện về tuyến phố dài 1,5 km nối đường Nguyễn Văn Cừ và đê Tả
ngạn thuộc quận Long Biên (Hà Nội), hay dự án đường Trường Chinh (Hà Nội)
mở rộng, tranh chấp tại Khu Ngoại giao đoàn (Hà Nội) là những ví dụ điển hình.
Khi người dân bị thu hồi giải phóng mặt bằng hoặc bị chèn lấn không gian sống do
thay đổi quy hoạch bức xúc, khiếu kiện đông người, các cấp chính quyền, cơ quan
chức năng mới công bố thông tin, tuyên truyền giải thích.


Việc công khai tất cả các quy hoạch chưa đủ, mà từ quy hoạch theo Nghị
định 11/2013/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý đầu tư phát triển đô thị bắt buộc

phải xác định được chương trình ưu tiên. Từ đó, các nhà đầu tư mới biết được cụ
thể trong 3 năm, 5 năm tới sẽ tập trung làm vào đâu. Hiện vẫn còn tình trạng đầu tư
theo kiểu vết dầu loang, phong trào, lãng phí nguồn lực đất đai. Nhiều doanh
nghiệp không đủ tiềm lực còn nhanh chân “xí đất” để bán lại cho nhà đầu tư khác
kiếm lời. Đặc biệt, cũng cần công bố cho người dân biết những khu vực nào đến
2030 chưa được “đụng” tới, bởi dự án treo hiện rất nhiều, động đến đâu cũng dính
quy hoạch… rất lãng phí đất đai.
Các nội dung công khai quy hoạch trên internet phải đảm bảo rõ ràng, dễ
hiểu và có hướng dẫn người dân sử dụng, tra cứu các tài liệu niêm yết, đặc biệt là
các khuôn khổ pháp lý cho việc tra cứu thông tin quy hoạch trên internet với người
sử dụng, tránh việc làm cho có, hoặc lợi dụng việc công khai để bóp méo, gây loạn
quy hoạch hơn.
Thực tế, tại một số địa phương cũng đã đưa vào áp dụng Cổng thông tin quy
hoạch và kế hoạch sử dụng đất do Sở Tài nguyên – Môi trường quản lý, nhưng quá
trình tiếp cận thông tin quy hoạch qua hình thức này thực tế còn rất nhiều hạn chế,
vướng mắc. Cụ thể, trên bản đồ quy hoạch có nhiều ký hiệu chuyên môn, các đồ án
quy hoạch phân khu bao hàm các nội dung kỹ thuật, nên người dân khó tiếp cận và
khó hiểu các nội dung đồ án quy hoạch.
KẾT LUẬN
Công khai – minh bạch là nguyên tắc quan trọng trong mọi hoạt động pháp
luật. Bộ Luật đất đai 2013 ra đời đã hoàn thiện hơn nguyên tắc này. Đưa nguyên
tắc này vào thực tiễn thi hành luật chứ không chỉ dừng lại ở mặt lý thuyết. Tuy
nhiên, để nguyên tắc này đi vào đời sống hiệu quả thì các cấp, các ngành và các địa


phương cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật Đất đai vừa
được Quốc hội thông qua đến mọi người dân để hiểu và thực hiện tốt. Mặt khác,
Chính phủ khẩn trương ban hành các nghị định quy định chi tiết các điều, khoản
được giao trong luật và chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương rà soát các quy định của
pháp luật hiện hành để sửa đổi, bổ sung kịp thời, bảo đảm phù hợp với các quy

định của luật; tính thống nhất, đồng bộ giữa luật với các quy định dưới luật; có kế
hoạch triển khai và tổ chức thực hiện luật một cách đồng bộ, có hiệu quả. Thường
xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện luật để kịp thời xử lý những
tình huống phát sinh trong thực tiễn, bảo đảm tính khả thi của luật. Chỉ như vậy,
nguyên tắc công khai – minh bạch mới có thể phát huy có hiệu quả nhất.



×